Nên xây dựng một sổ KNNN mà ở đó, SV được rèn các kỹ năng cơ bản chung như kỹ năng diễn đạt (nói, viết); kỹ năng trình bày bảng, sử dụng đồ dùng trực quan, thiết kế giáo án, tổ chức tiết dạy, Còn những kỹ năng DH mang tính đặc thù của bộ môn thì giảng viên bộ môn sẽ đảm nhiệm. Tăng cường sử dụng băng hình, tăng cường tổ chức các tiết dạy mẫu, mời các giáo viên tiểu học giỏi, cùng thiết kế, xây dựng, thực hiện sẽ giúp SV hình thành những kĩ năng sư¬ phạm bằng một con đư¬ờng sinh động nhất, nhanh nhất, hiệu quả nhất.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hội thảo Rèn kỹ năng nghề nghiệp cho HSSV ngành sư phạm Tiểu học trong quá trình đào tạo đáp ứng nhu cầu của các cơ sở giáo dục Tiểu học trong tỉnh Sơn La, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ểm về văn nghệ, TDTT thu hút đông đảo sinh viên các khối lớp tham gia. Qua các hoạt động này, sinh viên được bộc lộ khả năng tiềm ẩn vốn có, nhiều sinh viên đã thể hiện rất xuất sắc và trở nên linh hoạt, nhiệt tình, khắc phục được tính rụt rè nhút nhát của sinh viên miền núi. Tiêu biểu là SV Phan Thị Trang được cử đi dự Hội nghị HSSV tiêu biểu toàn quốc tổ chức vào tháng 12/2013 tại Hà Nội
d. Xây dựng phòng thực hành
Để phục vụ tốt cho công tác rèn nghiệp vụ sư phạm thường xuyên, khoa đề xuất với nhà trường xin một phòng thực hành cho khối tiểu học có đầy đủ trang thiết bị: tranh ảnh, sơ đồ. mô hình, bảng phụ, máy chiếu, video, máy tính ...tạo điều kiện cho giảng viên hướng dẫn sinh viên rèn nghề. Phòng chức năng này còn trang trí một số hình ảnh, lưu bút của những sinh viên sắp tốt nghiệp, kích thích, cuốn hút các sinh viên trong khoa tích cực luyện tập.
4. Những mặt chưa làm được trong hoạt động rèn NVSP
Bên cạnh những thành công mà tổ Tiểu học khoa SP TH - MN đạt được trong công tác rèn nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên tiểu học đã được ghi nhận, vẫn còn những hạn chế cần phải khắc phục và điều chỉnh trong những năm tiếp theo nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước:
- Một số giảng viên còn thờ ơ, thiếu trách nhiệm đối với công tác rèn nghiệp vụ sư phạm. Họ cho rằng đấy là việc của giảng viên dạy rèn nghiệp vụ sư phạm, giảng viên dạy học phần phương pháp, giáo viên thực hành. Họ chưa nhận thức đầy đủ việc dạy nghề là công việc của tất cả các giảng viên trong trường đào tạo nghề. Bên cạnh đó cũng còn số ít giảng viên chưa tích cực đổi mới nội dung, cải tiến PPDH, chưa thường xuyên chú trọng thực hiện nguyên lý giáo dục "Học đi đôi với hành" vào các hoạt động dạy học và giáo dục trong nhà trường sư phạm.
- Một số giảng viên dạy các học phần cơ sở chưa liên hệ rút ra kiến thức tương ứng trong chương trình tiểu học để lưu ý sinh viên vận dụng kiến thức trong quá trình rèn nghề.
- Một số ít giảng viên dạy học phần PPDH chưa thường xuyên cập nhật kiến thức thực tế tiểu học nên việc hướng dẫn thực hành còn hời hợt, chung chung do đó sinh viên rất lúng túng trong hoạt động tập soạn, giảng.
- Một số sinh viên chưa nhận thức đúng đắn về nghề dạy học. Có em vào trường với quan niệm "học cho bố mẹ", "Học để có một cái nghề" để đảm bảo cuộc sống sau này... Những sinh viên này thường thờ ơ, chểnh mảng, la cà quán xá, không thiết tha với việc học và rèn nghề nên có tốt nghiệp ra trường cũng không đáp ứng được yêu cầu tuyển dụng.
- Việc rèn NVSP chưa khuyến khích tất cả các sinh viên tích cực rèn luyện mà mới chỉ tập trung vào một số em có ý thức, có niềm say mê với nghề nghiệp (Điều này liên quan tới việc nhận thức của sinh viên - khi khả năng hạn chế, không có năng lực các em rất ngại rèn luyện, mặc dù GV dạy bộ môn đã rất nỗ lực)
- Khả năng tự học, tự nghiên cứu của nhiều sinh viên còn hạn chế. Nhiều sinh viên chăm học nhưng chưa biết cách tự học, khả năng khái quát, tổng hợp, phân tích vấn đề còn yếu nên kết quả học tập chưa cao, chưa hình thành được kỹ năng nghề nghiệp.
5. Một số giải pháp
- Cần định hướng đúng đắn cho sinh viên rèn kỹ năng nghề nghiệp theo phương châm "Rèn đức, luyện tài để ngày mai lập nghiệp". Việc xác định đúng đắn mục đích động cơ học tập, nghiên cứu sẽ ảnh hưởng quan trọng tới sự lựa chọn phương pháp học tập. Muốn đạt được kết quả học tập tốt, nghiên cứu tốt, điều đầu tiên sinh viên phải làm là xác định đúng đắn mục đích của hoạt động; Học để làm gì? Học cái gì? và Học bằng cách nào? Động cơ học tập có liên quan đến đặc điểm tâm lý cá nhân và đặc điểm nghề nghiệp của bản thân đang theo học. Nó được hình thành và phát huy trong quá trình hoạt động của bản thân. Bởi vậy lòng yêu nghề càng cao thì động cơ học tập càng trở nên mạnh mẽ. Động cơ học tập thường gắn với ước mơ, hoài bão lớn lao. Trong quá trình học tập ở trường mỗi sinh viên thường có hoài bão và ước mơ cho hiện tại và tương lai của mình. Ước mơ trở thành sinh viên giỏi, xuất sắc và ước mơ khi ra trường nhanh chóng trở thành giáo viên giỏi. Xác định được mục đích, động cơ học tập đúng đắn sẽ có hướng đi cụ thể, sẽ nuôi dưỡng được hoài bão, ước mơ. Mục đích và động cơ đúng đắn là nhân tố quan trọng nhất để đạt được thắng lợi. Giúp cho sinh viên nhận thức được họ là người quyết định sự thành bại của giờ giảng trong quá trình rèn NVSP thường xuyên ở trường, trong các đợt thực tập và cũng như trong nghề dạy học của mình sau này. Muốn trở thành giáo viên vững vàng trong tương lai, họ phải nỗ lực học tập, có ý thức tự giác, có lòng đam mê. Bởi vậy họ phải chủ động tiếp thu kiến thức, tìm tòi học hỏi, tích cực trao đổi với bạn bè, đặc biệt với GV dạy bộ môn, giáo viên chỉ đạo, tự rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm và phải miệt mài luyện tập thì mới đạt được mục đích và ước mơ cao đẹp.
- Xây dựng cho sinh viên ý thức tự học, tự rèn nghề có hướng dẫn của GV. Điều này cần tiến hành sớm ngay từ kỳ học thứ nhất. GV bộ môn định hướng và yêu cầu sinh viên thực hành trong từng giai đoạn cụ thể theo nguyên tắc bắt đầu từ kỹ năng đơn giản: kỹ năng nói, kỹ năng viết (viết bảng, viết chữ trên giấy ô ly), kỹ năng quan sát lớp, kỹ năng tìm hiểu trường phổ thông theo mục đích định sẵn, kỹ năng tìm hiểu địa phương theo chủ đề Đặc biệt là kỹ năng thiết kế giáo án và thể hiện dạy học trên lớp cần được tăng cường khả năng tự học thực hành của sinh viên thì mới đáp ứng được yêu cầu hiện nay. Vấn đề này khoa SP TH - MN đã thực hiện dưới sự hướng dẫn chỉ đạo của giáo viên thực hành và đã đạt được những thành công nhất định. Trong các đợt thực tập những năm gần đây, ban chỉ đạo các trường thực tập đều đánh giá khả quan về chữ viết, về việc nắm bắt quy trình bài dạy của sinh viên khá tốt song về kỹ năng diễn đạt, kỹ năng sử dụng các PPDH bộ môn, kỹ năng tổ chức lớp học của sinh viên trên lớp học cụ thể còn rất lúng túng, đòi hỏi cần đẩy mạnh việc tự học, tự rèn nghề của các em nhiều hơn nữa.
- Chú ý hướng dẫn sinh viên thực hành thực tập SP thường xuyên một cách cụ thể: từ cách ghi chép, cách trình bày bảng, cách thể hiện giáo án, cách quan sát, bao quát lớp học, cách dẫn sắt, trình bày vấn đề, cách đặt câu hỏi, cách tổ chức các hoạt động dạy học trên lớpTrong những giờ sinh viên thực hành tập giảng, đại đa số GV bộ môn dự, hướng dẫn các em rất tỉ mỉ nhưng cũng thi thoảng có đ/c chưa chú ý đúng mức nên có phần nào đó ảnh hưởng đến việc rèn nghề cho SV
- Chương trình đào tạo hệ trung cấp hiện nay cũng chưa thực sự hợp lý cho việc rèn nghề (Chương trình trung cấp tiểu học hiện nay do phải đảm bảo số ĐVHT theo yêu cầu của Bộ GD & ĐT nên một số môn học, tổ bộ môn buộc phải xếp giờ lý thuyết nhiều hơn thực hành - trong đó có hai môn chủ lực Toán - PPDH và Tiếng Việt - PPDH). Chúng tôi mong muốn được Phòng đào tạo cho phép linh hoạt trong việc sắp xếp số ĐVHT của ngành đào tạo so với yêu cầu của bộ để xây dựng chương trình cân đối số tiết lý thuyết và thực hành đảm bảo được việc rèn nghề cho SV hiện quả hơn.
- Kế hoạch kiến tập cần được thực hiện trong giữa kỳ học. Sinh viên vừa học phương pháp bộ môn vừa được kiến tập, quan sát cách tiến hành bài dạy, kỹ năng diễn đạt, cách trình bày bảng, cách tổ chức bài học, cách sử lý các tình huống nảy sinh trong bài học của giáo viên phổ thông sẽ giúp sinh viên nắm bắt nhanh chóng và vận dụng trực tiếp ngay sau khi học lý thuyết thì hiệu quả việc rèn nghề sẽ cao hơn. (Kế hoạch kiến tập khối lớp trung cấp năm nay tiến hành khi sinh viên kết thúc học kỳ 3). Ở một số tỉnh thành (Nghệ An là một ví dụ) ngay từ năm thứ nhất, sinh viên SP được cấp thẻ dự giờ. Họ chủ động liên hệ với các trường phổ thông (trong những địa điểm thống nhất) tự liên hệ, tìm hiểu nhà trường phổ thông, dự giờ thăm lớp, tập đánh giá tiết dạy, nhà trường quản lý thông qua sổ NVSP của sinh viên. Trường thực hành tiểu học Chiềng Sinh tạo hiện nay đã điều kiện cho sinh viên SP học PPDH bộ môn đến đâu được dự giờ thực tế đến đấy nên việc học các bộ mon PPDH của các em cũng thuận lợi hơn rất nhiều.
- Một vấn đề rất quan trọng đó là ý thức của GV đối với nghề. Mọi GV cần nâng cao hơn nữa ý thức trách nhiệm của mình đối với SV, đối với khoa và nhà trường. "Vì lợi ích trăm năm trồng người", chúng ta hãy tích cực đầu tư thời gian và trí tuệ trong giảng dạy để mỗi bài giảng mà chúng ta mang đến cho các em niềm hứng thú, ghi lại dấu ấn không phai mờ trong các em, là điểm sáng để các em ghi nhớ và học tập. Hãy phấn đấu để mỗi bài học của chúng ta sẽ kích thích các em hoạt động nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn, thực hành nhiều hơn và quan trọng là suy nghĩ nhiều hơn trên con đường chiếm lĩnh tri thức. Để từ đó, các em sẽ vững vàng tự tin bước vào nghề dạy học; để sản phẩm chúng ta tạo ra đáp ứng được yêu cầu của các nhà tuyển dụng. Đây là là sự sống của chúng ta cũng là sự khẳng định vai trò của người giảng viên về vấn đề đào tạo nghề cho SV trong giai đoạn hiện nay.
- Trường đào tạo GV cần quan tâm đề xuất với Sở GD & ĐT cho giảng viên dạy bộ môn phương pháp được tham gia các đợt tập huấn, các dự án về đổi mới chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy học ở các trường phổ thông để những giảng viên thực hiên chức năng "máy cái" kịp thời triển khai hướng dẫn sinh viên trong quá trình giảng dạy ở nhà trường sư phạm thì sinh viên sau khi ra trường mới có thể thích ứng và đáp ứng được yêu cầu đổi mới trong giáo dục ở các trường phổ thông hiện nay.
Trên đây là một số ý kiến rất riêng của tôi về công tác rèn NVSP cho HSSV ngành GD Tiểu học. Rất mong nhận được sự góp ý của các quý đại biểu và nhất là ý kiến của các đ/c GV tham gia trực tiếp dạy các học phần PPDH để chúng ta đưa ra được những biện pháp hữu hiệu nhất nhằm thúc đẩy chất lượng đào tạo giáo viên tiểu học ngày càng cao đáp ứng được yêu cầu ngày càng khắt khe của xã hội .
NHẬN THỨC, THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT
VỀ RÈN KĨ NĂNG NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM CHO SINH VIÊN
NGÀNH GIÁO DỤC TIỂU HỌC TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƠN LA
Phan Thị Trang
Sinh viên lớp Cao đẳng Tiểu học K49B
Là một sinh viên năm thứ 2 em đã được tham gia vào các hoạt động rèn luyện Nghiệp vụ sư phạm, trong đó có các kì thi nghiệp vụ sư phạm do Khoa phạm Tiểu học - Mầm non tổ chức, em đã được tiếp thu nhiều kiến thức cũng như hiểu biết về rèn kĩ năng nghề nghiệp. Trong buổi Hội thảo khoa học ngày hôm nay thay mặt cho các bạn HSSV trong Khoa sư phạm Tiểu học - Mầm non nói chung và ngành Sư phạm Tiểu học nói riêng em xin tham luận về nội dung “Rèn kĩ năng Nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên ngành Giáo dục Tiểu học trường Cao đẳng Sơn La”.
I. Nhận thức
Trước hết, mỗi sinh viên theo nghề dạy học chắc hẳn ai cũng đã từng được nghe và được biết đến cụm từ “Nghiệp vụ sư phạm” (NVSP). Nhưng NVSP là gì? Thì không nhiều bạn sinh viên hiện nay có thể định nghĩa được và nắm vững bản chất của vấn đề. NVSP là những kĩ năng chuyên môn, kĩ năng dạy học và giáo dục của người giáo viên trong hoạt động nghề nghiệp của mình. Rèn NVSP là rèn chính tay nghề cho người học làm giáo viên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói “Người giáo viên không được ghi trong sử sách nhưng còn cao quý hơn sử sách”. Bác luôn đánh giá cao vai trò của người giáo viên, gọi thầy giáo cô giáo là “Người vẻ vang nhất”, “Người anh hùng vô danh”. Hay câu nói của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng “Nghề dạy học là nghề cao quý vào bậc nhất trong những nghề cao quí, là nghề sáng tạo bậc nhất trong những nghề sáng tạo vì nó tạo ra những con người sáng tạo” lại càng nhấn mạnh thêm vai trò quan trọng của nghề dạy học. Đúng vậy, nghề dạy học đúng là một nghề cao quý “Không có nghề giáo thì không có giáo dục, không có giáo dục thì không có cán bộ chứ không nói đến kinh tế, văn hóa”. Qua đây ta lại càng thấy rõ hơn giá trị và tầm quan trọng của người thầy.
Từ trước đến nay, người giáo viên luôn giữ vai trò quyết định trong việc biến mục tiêu giáo dục trở thành hiện thực, bảo đảm hiệu quả và chất lượng giáo dục. Để có hiệu quả cao trong công tác giảng dạy sau này đòi hỏi mỗi sinh viên chúng ta phải không ngừng rèn luyện nghề nghiệp hay nói cách khác là phải thường xuyên rèn NVSP để đáp ứng nhu cầu mà ngành cũng như xã hội đặt ra. Theo chuẩn nghề nghiệp giáo viên Tiểu học quy định một người giáo viên Tiểu học cần phải đảm bảo 3 yếu tố:
- Phẩm chất đạo đức.
- Kiến thức chuyên ngành.
- Phương pháp dạy học - Kĩ năng sư phạm.
Trong Luật giáo dục năm 2005 có nêu: Nhà giáo dục phải không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao đạo đức, phẩm chất, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nêu gương tốt cho các em học sinh. Đúng vậy, một người làm nghề giáo rất cần phải có nhân cách. Giáo dục một sự nghiệp trồng người, nếu đội ngũ giáo viên chỉ có tài thôi chưa đủ, ngoài trí tuệ tài năng, người giáo viên phải có đạo đức. Bác Hồ người cha của giáo dục đã từng nói “Người có tài mà không có đức là người vô dụng, người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Đối với đội ngũ nhà giáo, tài là sự am hiểu, vốn tri thức, vốn kinh nghiệm thực tiễn của người thầy, đức là tư cách, tình yêu thương, trách nhiệm của người thầy đối với nghề, với các em học sinh. Chính vì thế, dạy cũng như học đều phải biết chú trọng cả tài và đức. Đã đi theo nghề dạy học mỗi sinh viên khi còn ngồi trên ghế nhà trường chúng ta phải tự biết và luôn tích cực phấn đấu rèn luyện bản thân mình chỉ nói xuông thôi chưa đủ chúng ta phải áp dụng và thực hiện nó vào ngay trong thực tiễn đời sống, xã hội hiện nay. Có thể hiểu về ba yếu tố trên như sau:
1. Để công tác giáo dục có hiệu quả cao, ngoài tinh thần trách nhiệm, phẩm chất đạo đức thì người giáo viên cần phải có kiến thức chuyên ngành trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng. Sau đây là một vài yêu cầu về kiến thức của ngành giáo dục Tiểu học. Có kiến thức chung phải được học và nắm được các môn học: Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, có kiến thức về quản lí hành chính nhà nước, giáo dục một trường, dân số, an ninh quốc phòng, an toàn giao thông, hiểu biết về y tế học đường, phòng chống ma túy và tệ nạn xã hội.
2. Về kiến thức chuyên ngành: Kiến thức về khoa học cơ bản: Văn - Tiếng việt, Toán, Tự nhiên - xã hội, Thủ công - kĩ thuật, Âm nhạc, Mĩ thuật, Thể dục. Kiến thức về NVSP: Tâm lí học lứa tuổi Tiểu học và Tâm lí học sư phạm, phương pháp giáo dục và quản lí học sinh Tiểu học, nội dung và phương pháp dạy học các môn học ở Tiểu học, phương pháp kiểm tra đánh giá học sinh. Một số kiến thức về khoa học cơ bản và nghiệp vụ sư phạm. Bên cạnh đó giáo viên Tiểu học cần phải có kiến thức bổ trợ: có trình độ tin học và trình độ ngoại ngữ. Qua đây ta thấy kiến thức chuyên ngành tay nghề là rất quan trọng. Khi còn ngồi trên ghế nhà trường các bạn sinh viên phải tích cực học tập, bồi dưỡng tự nâng cao tay nghề cho bản thân mình. Người giáo viên phải có kiến thức, có năng lực, có giỏi thì các em học sinh của mình mới giỏi được.
3. Một yếu tố có vai trò cũng không kém phần quan trọng trong rèn luyện NVSP đó là: Phương pháp dạy học - kĩ năng sư phạm. Cần phải nắm vững chương trình và sách giáo khoa tiểu học, lập kế hoạch giảng dạy theo tuần, theo tháng, theo năm, lập kế hoạch bài dạy. Có khả năng tổ chức các hoạt dộng giảng dạy trên lớp, vận dụng các phương pháp dạy học tích cực ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng các thiết bị hiện đại trong dạy học, thiết lập môi trường học tập, sử dụng ngôn ngữ chữ viết, tổ chức kiểm tra, đánh giá học sinh. Có khả năng lập kế hoạch công tác chủ nhiệm lớp, sinh hoạt tập thể, sinh hoạt đội thiếu niên, phối hợp với cha mẹ học sinh, với cộng đồng để giáo dục học sinh, giáo dục học sinh hòa nhập học sinh bậc tiểu học có hoàn cảnh đặc biệt. Biết giao tiếp ứng xử với học sinh, với đồng nghiệp, với cha mẹ học sinh, với cộng đồng. Có rất nhiều phương pháp dạy học, chúng ta phải không ngừng tìm hiểu các phương pháp dạy học tích cực đã được thay đổi để phù hợp với nhu cầu của xã hội. Phải biết vận dụng các phương pháp dạy học đó vào trong từng giờ học cụ thể, để học sinh tiếp thu bài nhanh hơn và nắm chắc kiến thức hơn.
II. Thực trạng trong công tác Rèn luyện NVSP ở trường Cao đẳng Sơn La.
1. Kết quả đạt được
Ngay từ khi chúng em mới vào trường là sinh viên năm nhất của khoa sư phạm Tiểu học - Mầm non trường Cao đẳng Sơn La, chúng em đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ hết sức nhiệt tình của các thầy cô giảng viên trong nhà trường . Đặc biệt là các cô giảng viên trong khoa sư phạm Tiểu học - Mầm non đã tạo điều kiện cho chúng em rèn nghề của mình ngay từ những buổi học chuyên nghiệp đầu tiên. Kế hoạch rèn luyện NVSP rất chi tiết cụ thể đối với từng lớp học đã nhằm giúp cho các bạn HSSV trong khoa có nhận thức đúng đắn về từng nội dung rèn NVSP. Nâng cao kĩ năng thực hành sư phạm, hiểu biết một cách sâu sắc về ngành học, có dịp học hỏi lẫn nhau về kĩ năng xử lí các tình huống sư phạm. Nội dung rèn NVSP được tổ chức cụ thể theo từng tháng, mỗi tháng sẽ có một nội dung thi NVSP để các bạn HSSV có thời gian xây dựng kế hoạch rèn NVSP cho bản thân. Sau đây là một số nội dung thi NVSP của Khoa sư phạm Tiểu học - Mầm non Trường Cao đẳng Sơn La năm học 2012 - 2013: đọc diễn cảm, kể chuyện, viết chữ đẹp, hiểu biết sư phạm, xử lí tình huống sư phạm, làm đồ dùng dạy học, thi hùng biện, thi tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp và thi giảng. Kế hoạch rèn NVSP được các bạn trong khoa tiếp thu nhanh và tham gia nhiệt tình. Đây là cuộc thi có quy mô tương đối lớn, được tổ chức thường xuyên đối với sinh viên Khoa sư phạm Tiểu học - Mầm non. Do đó đã thu hút được đông đảo HSSV trong khoa tham gia. Cuộc thi là một sân chơi trí tuệ, kĩ năng rèn nghề bổ ích, thiết thực cho chúng em. Chúng em được giao lưu học hỏi , nâng cao năng lực sư phạm, nâng cao được ý thức đạo đức nghề nghiệp của người giáo viên trong tương lai. Các bạn tham gia thi là những bạn xuất sắc tiêu biểu đã vượt qua đợt thi tuyển chọn ở lớp nên các bạn đều có ý thức tốt chấp hành đúng nội quy-quy chế của cuộc thi. Các bạn tự tin tham gia phần thi của mình với tinh thần phấn khởi và có tâm thế tốt để thể hiện bài thi. Có nhiều bạn tham gia từ 2-3 nội dung và đạt được kết quả cao sau mỗi phần thi. Mặc dù các bạn HSSV K49 là sinh viên năm nhất mới vào học chuyên nghiệp nhưng kết quả mà các bạn đạt được rất đáng khen ngợi. Đầu tiên phần thi đọc diễn cảm các bạn đã thể hiện được giọng đọc to rõ ràng, mạch lạc, phát âm chuẩn xác. Một số bạn đã thể hiện được âm điệu chủ đạo của bài. Phần thi kể chuyện các bạn chuẩn bị luyện tập chu đáo, kể lưu loát rõ ràng, ngôn ngữ sinh động phong phú thể hiện rõ cảm xúc và nội dung của truyện. Phần thi viết chữ đẹp đa số các bạn có ý thức rèn luyện rất cao, các bạn viết bảng, vở ô ly tương đối nhanh, đẹp, trình bày khoa học. Nắm được các thể loại văn bản và quy tắc viết chính tả. Trong phần thi giảng nhiều bạn mặc dù chưa được học phương pháp - chưa được soạn giảng nhưng cũng mạnh dạn đăng kí tham gia. Các bạn có ý thức chuẩn bị luyện tập cho bài thi của mình. Phần thi hiểu biết sư phạm, các bạn tham gia thi đều nắm vững được từng vấn đề của câu hỏi và trả lời chính xác theo nội dung gợi ý của đáp án. Đặc biệt là những câu hỏi có nội dung liên quan đến nghề nghiệp chuyên môn của các bạn sau này. Phần thi ứng xử sư phạm các bạn có ý thức tinh thần chuẩn bị tốt, việc nhận thức về các vấn đề và xử lí tình huống nhanh nhạy, tự tin, thể hiện quan điểm rõ ràng, chắc chắn về những vấn đề thanh niên, xã hội đang quan tâm. Thi hùng biện nội dung của phần thi phong phú da dạng nhiều chủ đề. Các bạn thể hiện lưu loát rõ ràng, sáng tạo biết liên hệ thực tế và hiểu được bản chất của vấn đề. Phần thi làm đồ dùng dạy học thể hiện sự khéo léo của các bạn sinh viên. Số lượng đồ dùng tham gia thi phong phú đa dạng, sáng tạo, được sử dụng cho nhiều bài học trong chương trình dạy. Phần thi tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp: Các bạn có ý thức chuẩn bị bài chu đáo, nội dung và phương pháp đa dạng.
Một số bạn sinh viên tiêu biểu đã tham gia và đạt giải ở nhiều nội dung thi NVSP năm học 2012-2013: Bạn Hoàng Thị Bích - Lớp Cao đẳng Tiểu học K47B đạt hai giải nhất ở hai nội dung thi kể chuyện và thi hùng biện. Đặc biệt là sự cố gắng của các bạn sinh viên năm nhất K49 cũng đạt nhiều giải cao như bạn Phan Thị Trang - Lớp Cao đẳng Tiểu học K49B đạt hai giải nhì ở hai nội dung đó là thi đọc diễn cảm và thi viết chữ đẹp. Bạn Nhữ Hồng Nhung - Lớp Cao đẳng Tiểu học K49B đạt hai giải giải nhất phần thi xử lí tình huống sư phạm và giải ba phần thi kể chuyện. Bạn Tòng Thị Thanh Bình - Lớp Cao đẳng Tiểu học K49B đạt hai giải nhì phần thi làm đồ dùng và phần thi hùng biện Và còn rất nhiều bạn đoạt giải khác.
Trong quá trình rèn luyện và tổ chức cuộc thi chúng em cũng nhận được sự quan tâm từ phía nhà trường đã tạo điều kiện về cơ sở vật chất để cuộc thi rèn luyện NVSP của chúng em được diễn ra theo đúng kế hoạch và đạt kết quả như đã nêu ở trên.
2. Một số hạn chế
Bên cạnh những kết quả đã đạt được vẫn còn một số hạn chế cần phải khắc phục. Theo kế hoạch tham gia thi nghiệp vụ sư phạm em nhận thấy số lượng sinh viên trong khoa rất đông nhưng số lượng sinh viên tham gia thi lại rất ít (cụ thể khoa có 29 lớp, hơn 1700 sinh viên song chỉ có 58 sinh viên tham gia thi) vì vậy chưa khai thác hết được khả năng của nhiều bạn sinh viên. Nội dung các phần thi chưa được thiết thực và phù hợp cho từng khóa.
Ví dụ như phần thi giảng các bạn sinh viên năm nhất chưa được học phương pháp, chưa soạn giảng có thể đăng kí tham gia thi nhưng chưa thể hiện được hết khả năng của mình. Do thời lượng ít sinh viên lại đông nên các cô giảng viên chưa chi tiết được đến từng việc. Có nhiều nội dung thi chưa có phòng riêng biệt để các bạn thể hiện phần thi của mình ví dụ phần thi tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp. Cùng với sự cố gắng tham gia thi nhiệt tình của các bạn sinh viên thì vẫn còn một số bạn chưa có ý thức tham gia, vẫn còn xem nhẹ chưa nắm được tầm quan trọng của rèn luyện NVSP.
Các bạn tham gia còn có tư tưởng bắt buộc, thi cho có lệ, có phong trào, chưa chuẩn bị chu đáo, bài thi còn sơ sài chưa sát với nội dung, chưa thực sự thể hiện hết khả năng của mình. Ý thức tham gia thi còn kém cụ thể ở một số nội dung: Phần thi hiểu biết sư phạm một số bạn còn mang tính chất học thuộc lòng nhiều hơn hiểu vấn đề, một số bạn còn lúng túng trong cách thể hiện. Phần thi giảng chưa có sự đầu tư về thời gian, về trí tuệ trong việc nghiên cứu, thiết kế bài giảng. Giáo án còn sơ sài, tác phong chậm giọng nói chưa lưu loát, xử lí tình huống chưa linh hoạt còn cứng nhắc. Phần thi viết chữ đẹp còn rất nhiều bạn mắc lỗi chính tả, nhiều bạn còn chưa xác định đúng thể loại văn bản.
Để đáp ứng nhu cầu và khắc phục những hạn chế của năm học 2012-2013 sang năm học 2013-2014 các cô giảng viên trong khoa đã thay đổi kế hoạch rèn luyện NVSP phù hợp với từng bạn sinh viên, với từng khóa học, bạn nào cũng được thi và thể hiện khả năng của mình. Cụ thể ở từng khóa học và từng kì học. Ở học kì 1 các bạn sẽ rèn luyện kĩ năng đọc và kĩ năng kể chuyện sang kì 2 các bạn sẽ rèn và thi kĩ năng viết chữ, trình bày bảng, kĩ năng giải toán ở Tiểu học. Ở học kì 3 rèn và thi kĩ năng thuyết trình, kĩ năng soạn giảng các môn học ở Tiểu học thuộc học phần và phương pháp dạy trong kì. Học kì 4 và học kì 5 tiếp tục rèn và thi soạn giảng các môn học ở Tiểu học.
III. Một số đề xuất
Xuất phát từ nhận thức về công tác rèn luyện NVSP và thực trạng kết quả rèn luyện NVSP tại khoa THMN như trên, em xin đề xuất một số ý kiến của mình cho cuộc thi rèn luyện NVSP của Khoa sư phạm Tiểu học - Mầm non, trường Cao đẳng Sơn La đặc biệt là ngành giáo dục Tiểu học:
1. Về phía nhà trường cần quan tâm và tạo điều kiện hơn nữa cho chúng em về cơ sở vật chất để chúng em có thể tăng cường thực hành các kĩ năng nghề nghiệp để có tay nghề vững vàng khi ra trường phục vụ các nhà trường Tiểu học hoặc luyện tập và thể hiện phần thi của mình được tốt hơn khi tham dự các kì thi NVSP. Hàng năm, nhà trường cần tổ chức thi NVSP dành cho các ngành học sư phạm chuẩn bị cho thi NVSP toàn quốc.
2. Bên cạnh đó ban chủ nhiệm Khoa cần quan tâm sát sao tới sinh viên nhiều hơn, hướng dẫn sinh viên trong từng kĩ năng để các bạn luyện tập, đi đúng hướng và đạt kết quả cao.
3. Giáo viên chủ nhiệm đồng thời là người cố vấn học tập cần quân tâm tận tình đến từng sinh viên từ đó có những biện pháp cũng như kế hoạch cụ thể để các bạn sinh viên trong lớp có thể xây dựng kế hoạch rèn luyện cho riêng mình.
4. Quan trọng hơn đó là ý thức của mỗi bạn sinh viên. Các bạn cần chăm chỉ, cố gắng và phải biết được tầm quan trọng của rèn luyện NVSP cũng là rèn kĩ năng nghề nghiệp sau này.
Trên đây là một số ý kiến tham luận của em cho việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của Khoa sư phạm Tiểu học mầm non nói chung và của ngành Tiểu học nói riêng. Bài tham luận của em vẫn còn nhiều thiếu sót, em rất mong quý thầy cô và các bạn cho ý kiến đóng góp để bài tham luận của em được đầy đủ, và sâu sắc hơn. Cuối cùng em xin kính chúc các quý vị đại biểu các thầy cô giáo lời cảm ơn, lời kính chúc sức khỏe và thành đạt.
Em xin chân thành cảm ơn./.
VẤN ĐỀ RÈN KỸ NĂNG NGHỀ NGHIỆP CHO HSSV
NGÀNH SƯ PHẠM TIỂU HỌC TRONG QUÁ TRÌNH ĐÀO TẠO
ĐÁP ỨNG NHU CẦU CỦA CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC TIỂU HỌC
TRONG TỈNH SƠN LA
Nhà giáo Đinh Thị Mùi
Hiệu trưởng - Trường Tiểu học Chiềng On huyện Yên Châu
Như chúng ta đã biết học sinh lứa tuổi tiểu học (từ 6 đến 10 tuổi) là lứa tuổi rất hiếu động, các em hay nghịch ngợm, hay bắt chước. Nhiều nhà giáo dục đã khẳng định và nói rằng: “Các em như tờ giấy trắng muốn vẽ gì, viết gì lên đó cũng được”.
Chính vì lẽ đó, bậc tiểu học là bậc học rất quan trọng, bậc học xây nền móng cho trẻ tiếp thu kiến thức, là hành trang để các em tự tin bước sang cấp học khác.
Mặt khác giáo dục tiểu học nói riêng, giáo dục nói chung đang được Đảng và nhà nước ta coi “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”; đất nước Việt Nam muốn thành công trên con đường CNH - HĐH đất nước, sánh vai với các cường quốc năm châu thì giáo dục càng vô cùng quan trọng, giáo dục đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Cùng với các trường Cao đẳng, Đại học đại sư phạm trong cả nước nói chung, tỉnh Sơn La nói riêng, trường Cao đẳng Sơn La là cơ sở giáo dục đại học đang chú trọng đào tạo nghề cho giáo viên tiểu học để đáp ứng đầy đủ Cán bộ - giáo viên cho bậc tiểu học tiến tới các trường tiểu học trên toàn tỉnh đạt chuẩn quốc gia ở các giai đoạn. Với nhận thức như trên, trong phạm vi cho phép của Hội thảo khoa học hôm nay, với trách nhiệm là một cán bộ quản lý trường Tiểu học Chiềng On, Yên Châu, tôi xin trình bày tham luận với nội dung: “Ván đề rèn kỹ năng nghề nghiệp cho HSSV ngành sư phạm Tiểu học trong quá trình đào tạo đáp ứng nhu cầu của các cơ sở giáo dục tiểu học trong tỉnh sơn la”
1. Kết quả công tác đào tạo nguồn nhân lực ngành sư phạm TH
Công tác đào tạo nguồn nhân lực ngành sư phạm Tiểu học hiện nay theo nhiêu ngành học, môn học khác nhau như: đào tạo GV Văn hóa (gồm các môn: Toán, Tiếng Việt, Khoa học, Lịch sử, Địa lý, Đạo đức, .), GV Thể dục, Tiếng Anh, Âm nhạc và Mỹ Thuật để đảm bảo đủ giáo viên cơ hữu cho các trường Tiểu học trên toàn tỉnh.
Sinh viên được đào tạo với nội dung chương trình theo quy định của Bộ giáo dục và đào tạo ban hành; sau khi ra trường sinh viên có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp; kĩ năng sư phạm; để trở thành giáo viên Tiểu học.
Hiện nay đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước đòi hỏi nguồn nhân lực trí tuệ cao, quá trình hội nhập khu vực và quốc tế với xu thế toàn cầu hóa đang là một thách thức với nước, trước tình hình đó, đòi hỏi ngành giáo dục phải có một chiến lược phát triển nhân tài. Trong hệ thống giáo dục, giáo dục tiểu học có một vị trí đặc biệt quan trọng trong việc đào đạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Đặc biệt trong điều II Luật phổ cập giáo dục đã nêu: “Giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân”, Bậc tiểu học là bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục, bậc học đào tạo những cơ sở ban đầu cơ bản và bền vững cho trẻ tiếp tục học lên bậc học trên, giúp trẻ hình thành những cơ sở ban đầu, những đường nét cơ bản của nhân cách. Do vậy giáo dục ở bậc tiểu học có tính chất đặc biệt, có bản sắc riêng, với tính sư phạm đặc trưng. Chính vì thế tầm quan trọng của việc rèn kỹ năng nghề nghiệp cho HSSV ngành Sư phạm Tiểu học trong quá trình đào tạo đáp ứng nhu cầu của các cơ sở giáo dục Tiểu học. Cần chú trọng đào tạo những kĩ năng nghề nghiệp dạy học đặc thù ở tiểu học. Hình thành kĩ năng nghề nghiệp cho sinh viên các trường sư phạm là hướng đổi mới đồng bộ với việc đổi mới cơ cấu nội dung đào tạo, đưa trường sư phạm theo đúng hướng đào tạo chuyên nghiệp, đặc biệt là đối với sư phạm tiểu học.
Nhưng trong quá trình Rèn kỹ năng nghề nghiệp cho HSSV ngành Sư phạm Tiểu học các trường cao đẳng còn gặp không ít những thuận lợi và khó khăn trong công tác đào tạo cũng như rèn kỹ năng nghề nghiệp cho HSSV ngành Sư phạm Tiểu học đó là:
2. Một số thuận lợi và khó khăn
* Về thuận lợi:
Sự nghiệp giáo dục hiện nay đặc biệt là giáo dục Tiểu học đang được quan tâm và trú trọng trong công tác đào tạo. Nhu cầu xã hội về nguồn nhân lực cho giáo dục tiểu học rất cao. Đội ngũ cán bộ, giảng viên các nhà trường tâm huyết với sự nghiệp giáo dục. Nhiều học sinh, sinh viên ước mơ làm thầy, cô giáo tiểu học.
Cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ cho đào tạo giáo viên sư phạm tiểu học đáp ứng ngày càng tốt hơn. Thương hiệu của trường cao đẳng Sơn La về đào tạo giáo viên tiểu học được tỉnh Sơn La nói chung, các phòng GD&ĐT trong tỉnh cùng với các nhà trường tiểu học trong toàn tỉnh đánh giá rất cao.
Ví dụ: năm học 2012- 2013 trường tiểu học Chiềng On đã được nhận 4 giáo viên hợp đồng, trong đó 3 đ/c được đào tạo tại trường Cao đắng Sơn La và 1 đồng chí được học tại trường Cao đẳng Công nghiệp Xuân Mai. Qua 12 tháng thử việc tại nhà trường được CB-GV nhà trường giúp đỡ nhiệt tình. Kết quả nhà trường đánh giá 2 đ/c được đào tạo tại Sơn La xếp loại Khá, còn 1 đồng chí học trường Cao đắng Công nghiệp Xuân Mai và 1 đ/c được đào tạo tại Sơn La cần được sự giúp đỡ của GV hướng dẫn nhiệt tình có gắng nâng lên Đạt yêu cầu.
* Về khó khăn hạn chế
Về phía các trường đào tạo: Cơ sở vật chất, tràng thiết bị cho việc đào tạo còn chưa đáp ứng với nhu cầu hiện nay. Việc đào tạo với hình thức lí thuyết nhiều hơn thực hành. Sinh viên chỉ có 1 đợt kiến tập, 1 đợt thực tập, số tiết được giảng và làm quen với học sinh, với công tác chủ nhiệm còn ít. Việc giảng dạy cho sinh viên vẫn còn theo phương pháp cũ chưa thực sự đổi mới, chưa tiếp cận với công nghệ thông tin trong dạy học.
- Việc xây dựng giáo án còn nhiều bất cập, giáo viên chưa biết cách soạn giáo án theo hướng đổi mới đó là: đảm bảo đủ nội dung kiến thức cơ bản trọng tâm, ngắn gọn, xúc tích theo từng phần. Trong mỗi bài tập, mỗi phần chưa thể hiện được hình thức tổ chức dạy học và PP dạy học theo hương đổi mới đó là lấy học sinh làm trung tâm.
Trong quá trình lên lớp GV chưa làm chủ được về thời gian cũng như về kiến thức trọng tâm của bài dạy. Việc tiếp cận với SGK các môn học còn nhiều hạn chế như: nghiên cứu, phân tích về kênh hình, kênh chữ để hiểu rõ ý đồ của nhà biên soạn sách, từ đó gợi ý dẫn dắt học sinh chủ động tìm tòi khám phá và lĩnh hội kiến thức một cách triệt để, dễ hiểu nhất. Trong mỗi bài tập chưa biết khắc sâu và chốt kiến thức cho HS hoặc củng cố những kiến thức, kỹ năng đã có để yêu cầu HS vận dụng thức hành đối với nội dung mới. Hơn thế nũa không biết sử dụng máy vi tính chưa nói gì đến dạy trình chiếu.
Giáo viên mới ra trường còn rất lúng túng, vụng về trong việc xử lý các tình huống sư phạm trong giờ dạy.
Ví dụ cụ thể: giáo viên nhận công tác tại trường năm học 2012- 2013 đều là giáo viên trẻ, sinh năm: 1989, 1991,nhưng các đ/c chưa biết cách soạn bài phương pháp dạy và thiết kế 1 bài giảng còn lúng túng, không biết sử dụng máy vi tính chưa nói gì đến dạy trình chiếu.
Đào tạo thì nhiều nhưng đầu ra không có địa chỉ, nhiều sinh viên tốt nghiệp ra trường không xin được việc làm. Thực tế có sinh viên tốt nghiệp loại Khá, Giỏi thì không xin được việc, có sinh viên có tấm bằng khá, TB nhưng được đi dạy thì không dạy được kiến thức hổng không có; thậm chí có đ/c đứng trên bục giảng cầm bài soạn đọc hết từ mục tiêu đến hết.
Về phía người học: Một bộ phận sinh viên lo lắng về tương lai, mơ màng khi định hướng về nghề nghiệp và một bộ phận khác khá tự tin vào bản thân và tin tưởng và tin chắc rằng mình sẽ có một công việc tốt. Đa số các sinh viên này là những sinh viên có học lực khá cao và không ít trong số đó đã có những công ty chào đón khi đi học. Một vài sinh viên sẽ làm việc tại công ty gia đình, người thân nên việc làm và được đi làm đối với họ chỉ là vấn đề thời gian. Định hướng cho tương lai luôn là một trong những vấn đề khó khó khăn trong suốt quãng đời sinh viên. Xác định một mục tiêu cho bản thân và trang bị những kiến thức cần thiết là điều cần thiết giúp sinh viên có thể tự tin hơn vào khả năng của mình hay xa hơn là sự “tự tin” khi bước “vào đời”. Một số sinh viên chưa có tâm huyết với nghề, có lẽ vì không xin được đi học trường nào mới đi học sư phạm. Có em xin đi học cử tuyển, kiến thức yếu, kĩ năng sư phạm không chịu rèn luyện.
Đánh giá và yêu cầu của các cơ sở giáo dục Tiểu học HSSV ngành Sư phạm Tiểu học trong tỉnh Sơn La hiện nay đối với HSSV ngành Sư phạm Tiểu học:
3. Một số yêu cầu cần và có đối với GV tiểu học
Ngay từ khi đang là giáo sinh của trường sư phạm cần được trang bị chu đáo, kỹ càng một số nội dung như sau:
- Giảm nhẹ phần lý thuyết, tăng cường thực hành trên các lĩnh vực:
+ Tiếp cận, tìm hiểu nội dung chương trình các môn học của bậc tiểu học đang thực hiện. Phân tích, thống kê các chủ điểm chủ đề, các mạch kiến thức theo từng khối lớp và theo từng giai đoạn để hiểu sâu sắc về cách biên soạn sách của tác giả, mối quan hệ về mặt kiến thức giữa lớp dưới và lớp trên.
+ Được nghiên cứu chuyên sâu các tài liệu chỉ đạo của Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT về thực hiện quy chế chuyên môn như : Bộ Chuẩn kiến thức kỹ năng, Thông tư, Quyết định hướng dẫn đánh giá, xếp loại học sinh tiểu học theo từng thời điểm, Điều lệ trường tiểu học ; XL giáo viên theo Chuẩn NNGVTH ;.
+ Cách ghi chép các loại sổ sách đối với GV văn hóa, GV chuyên theo quy định của Điều lệ trường tiểu học như : Sổ ghi điểm, sổ chủ nhiệm, sổ báo giảng, học bạ, sổ tự học, sổ dự giờ
+ Tăng cường thực hành soạn bài, giảng dạy trên lớp để GV tự học hỏi, tích lũy về PP dạy học, hình thức tổ chức dạy học theo hướng đổi mới ; kỹ năng sử dụng đồ dùng dạy học, kỹ năng xử lý các tình huống sư phạm trong các tiết dạy một cách chủ động linh hoạt, nhẹ nhàng, khéo léo, hiệu quả.
- Qua thực hành giảng dạy GV biết cách trình bày các nội dung cơ bản trọng tâm ở mỗi tiết học trên bảng lớp như thế nào ?
- GV không nên vận dụng một cách quá máy móc, cứng nhắc về PP dạy học khi lên lớp dễ tạo ra không khí lớp học gò bó, học sinh học thụ động, hiệu quả tiết học không đạt theo mục tiêu đề ra.
Nếu được trang bị tốt những nội dung trên thì chắc chắn GV sẽ rất vững vàng và thuận lợi khi thực hiện nhiệm vụ chuyên môn tại các trường học ngay sau khi ra trường.
4. Kinh nghiệm và giải pháp
Kinh nghiệm và giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên tiểu học đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay cần:
Căn cứ vào chuẩn giáo viên tiểu học đã được ban hành gồm đầy đủ 3 mặt: Phẩm chất đạo đức; kiến thức và kĩ năng.
Những yêu cầu về nội dung giáo dục tiểu học: Có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có kĩ năng cơ bản về nghe, dọc, nói, viết và tính toán; có thói quen rèn luyện thần thể giữ gìn vệ sinh; có hiểu biết ban đầu về nghệ thuật.
Những yêu cầu về phương pháp: Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng, vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh (theo điều 24 luật GD năm 1998).
Căn cứ vào chức năng của giáo viên trong thời kỳ đổi mới và hệ thống những năng lực nghề nghiệp của người giáo viên: Người giáo viên trước hết phải là nhà giáo dục, có tác động tích cực đến học sinh thông qua bản thân nhân cách của mình. Bản thân nhân cách của người giáo viên có vai trò như một năng lực tổng hợp.Bên cạnh đó người giáo viên cần có những năng lực nghề nghiệp mới. Kết hợp với những năng lực truyền thống. Có thể kể ra những năng lực cần được hình thành cho người giáo viên như :
Năng lực chẩn đoán: Tức là năng lực phát hiện và nhận biết đầy đủ, chính xác và kịp thời sự phát triển của học sinh, những nhu cầu được giáo dục của từng học sinh. Đối với giáo viên tiểu học đây là năng lực đặc biệt quan trọng vì sự phát triển về các mặt của học sinh ở lứa tuổi tiểu học diễn ra rất nhanh, nhưng lại không đồng đều.
Năng lực đáp ứng: Đó là năng lực đưa ra được những nội dung và biện pháp giáo dục đúng đắn, kịp thời, phù hợp với nhu cầu của người học và yêu cầu của mục tiêu giáo dục.
Năng lực đánh giá: Đó là năng lực nhìn nhận sự thay đổi trong nhận thức , kỹ năng thái độ và tình cảm của học sinh.Năng lực đánh giá giúp nhìn nhận tính đúng đắn của chẩn đoán và đáp ứng.
Năng lực thiết lập mối quan hệ thuận lợi với người khác: Như quan hệ đồng nghiệp, quan hệ với phụ huynh học sinh và nhất là quan hệ với học sinh.
Năng lực triển khai chương trình dạy học: Đó là năng lực tiến hành dạy học và giáo dục. Căn cứ vào mục đích và nội dung giáo dục và dạy học đã được quy định, nhưng lại phù hợp với đặc điểm của đối tượng.
Năng lực đáp ứng với trách nhiệm xã hội: Đó là năng lực tạo nên những điều kiện thuận lợi cho giáo dục trong nhà trường và từ cuộc sống bên ngoài nhà trường.
Các trường sư phạm cần phải quan tâm nhiều đến việc đào tạo kỹ năng nghề nghiệp dạy học cho sinh viên. Đối với đào tạo giáo viên tiểu học cần kiên trì với mục tiêu lấy việc hình thành các kỹ năng của nghề dạy học làm đặc trưng nổi bật cho quá trình đào tạo sư phạm. Giáo viên dạy tiểu học phải được đào tạo nghề nghiệp, kỹ năng sư phạm ngay từ trong trường đào tạo, người không được đào tạo sư phạm tiểu học không thể dạy được bậc tiểu học.
Đặc trưng của trường sư phạm chính là môn phương pháp dạy học và các hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, từ đó hình thành kỹ năng dạy học các môn học và kỹ năng sư phạm chung. Vì vậy việc hình thành các phòng nghiệp vụ sư phạm và được trang bị đầy đủ phương tiện để sinh viên có điều kiện thực hành nghề là rất cần thiết.
Hệ thống kỹ năng nghề nghiệp cần trang bị cho sinh viên tiểu học gồm 3 nhóm:
Một là: Kỹ năng chuẩn bị giảng dạy,
Hai là: Kỹ năng giảng dạy
Ba là: Các kỹ năng ngoài giờ lên lớp.
Kỹ năng thể hiện sự mẫu mực của người giáo viên tiểu học: Do đặc trưng bậc học, người giáo viên tiểu học ngay từ những tiếp xúc ban đầu với học sinh và trong suốt thời gian hành nghề dài lâu, luôn cần có kỹ năng thể hiện, sự mẫu mực ( phong thái, hành vi, cư xử) như một trong các điều kiện để hành nghề dạy học.
Kỹ năng ngôn ngữ sư phạm: Sử dụng ngôn ngữ bảo đảm tính sư phạm, giản dị, trong sáng phù hợp đối tượng.
Kỹ năng viết chữ, trình bày bảng: Điểm nổi bật của giáo viên tiểu học so với giáo viên các bậc học khác, phải có kỹ năng viết đúng, viết đẹp, trình bày bảng khoa học, thẩm mỹ trong giờ học.
Kỹ năng giao tiếp sư phạm: nhằm giải quyết tốt các mối quan hệ với đồng nghiệp, quan hệ thày trò, quan hệ với phụ huynh học sinh, quan hệ với cộng đồng xã hội và giải quyết tốt quan hệ giữa các học sinh trong lớp.
Kỹ năng giáo dục: Các kỹ năng tiến hành các hoạt động giáo dục học sinh trong và ngoài giờ lên lớp.
Để hình thành tốt các kỹ năng trên, sinh viên trong quá trình đào tạo cần phải được tăng cường thực hành theo hệ thống bài tập cụ thể, đồng thời yêu cầu sinh viên sớm gắn bó với giáo dục tiểu học, tăng cường thời gian kiến tập và thực tập sư phạm giúp sinh viên sớm hòa nhập với nghề nghiệp và môi trường dạy học.
Coi trọng và sớm hình thành kỹ năng tự học của sinh viên, để họ có thể tiếp tục tự trưởng thành trong nghề nghiệp, điều này liên quan mật thiết đến yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy, đổi mới về kiểm tra đánh giá và tiếp cận được những vấn đề mới trong giáo dục.
Nói tóm lại: Cần tiến hành hiện thực hóa quan điểm “Các trường sư phạm nói riêng, các cơ sở giáo dục đại học có dào tạo giáo viên tiểu học nói chung cần coi mình là một trường đào tạo nghề dạy học” đáp ứng nhu cầu của xã hội. Thông qua việc hình thành và phát triển kỹ năng nghề nghiệp gắn bó chặt chẽ với thực tiễn sống động của trường tiểu học. Tăng cường xây dựng và phát triển phòng nghiệp vụ sư phạm, tạo điều kiện cho sinh viên có điều kiện tốt để thực hành nghề. Tổ chức kiến tập, thực tập sư phạm một cách hợp lý, đủ về thời gian để hiệu quả đào tạo nghề đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP RÈN KỸ NĂNG NGHỀ NGHIỆP CHO HSSV NGÀNH SƯ PHẠM TIỂU HỌC TRONG QUÁ TRÌNH ĐÀO TẠO
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC TIỂU HỌC
TRONG TỈNH SƠN LA
Ths. Trần Thị Minh Châu
Giảng viên khoa sư phạm TH-MN
Rèn kỹ năng nghề nghiệp cho HSSV ngành SPTH là một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình đào tạo đáp ứng yêu cầu của các cơ sở giáo dục tiểu học trong tỉnh Sơn La. Để thực hiện nhiệm vụ này thì kiến tập và thực tập sư phạm là các hoạt động không thể thiếu vì đi kiến tập, thực tập sinh viên được tiếp xúc trực tiếp với các hoạt động liên quan đến nghề nghiệp, củng cố, nâng cao kiến thức chuyên môn và rèn các kỹ năng nghiệp vụ. Làm thế nào để kết quả của các hoạt động đó đáp ứng được mong đợi của chúng ta? Đây cũng là vấn đề còn nhiều nan giải. Sau đây, là đôi điều chúng tôi muốn bàn góp với các bạn sinh viên, các đồng nghiệp trong trường CĐ và các trường Tiểu học:
I.Thực trạng
1 . Công tác kiến tập, rèn luyện NVSP thường xuyên
- Bất cập: Có những môn học chưa được học PPDH đã dự giờ kiến tập, vì thế còn thiếu kiến thức cơ sở về lý thuyết nên khiến SV rất khó theo dõi quan sát, ghi chép, thu lượm thông tin.
- Trước khi dự giờ: Sự chuẩn bị của HSSV chưa cao, có những em chưa biết nghiên cứu SGK và chưa biết soạn bài trước khi dự giờ kiến tập, chưa có kỹ năng xác định được mục tiêu và nội dung cần tập trung khi dự giờ.
- Khi dự giờ còn thiếu kỹ năng quan sát, ghi chép, thu thập thông tin,
- Sau dự giờ thiếu kỹ năng trao đổi, rút ra bài học kinh nghiệm mà mới chỉ làm theo yêu cầu của GV hướng dẫn kiến tập, mang tính hình thức.
- SV chưa có thói quen chủ động, tích cực, linh hoạt trong công việc
- Là lần đầu tiên mình tiếp xúc với học sinh với tư cách là một người thầy, người cô nhưng nhiều HSSV chưa chuẩn bị về tác phong nhà giáo
- Cơ sở trường Tiểu học còn quá chật, SV chưa có chỗ ngồi dự đảm bảo
- Thời gian kiến tập còn ngắn (2 đến 3 tuần) chưa đủ để HSSV có thể va chạm với thực tế và cọ xát với nghề
2. Thực tập sư phạm được thực hiện vào năm thứ hai (thực tập lần 1), năm thứ ba (thực tập lần 2) của chương trình đào tạo CĐSP và năm thứ hai của chương trình đào tạo THSP:
* Về năng lực chuyên môn:
- Vẫn còn không ít SV chưa vững vàng về kiến thức nên chưa làm chủ được bài giảng (không dám di chuyển xuống lớp, vì không thể rời giáo án)
- Khả năng phân tích và nắm vững chương trình-SGK còn yếu, chưa biết khai thác sâu những nội dung cơ bản trong SGK, chưa nhấn mạnh và chưa biết xoáy vào những vấn đề cốt lõi và trọng tâm của bài học, nên nội dung dạy học từng bài còn dàn trải, hời hợt.
- Tình trạng tham lam kiến thức còn khá phổ biến, nên bài giảng dài dòng, quá nặng nề, cháy giáo án.
- Trong khi phân tích, giải thích các thuật ngữ, khái niệm do thiếu vốn từ và kiến thức chuyên sâu, nên việc giải thích còn nông cạn và thiếu sức thuyết phục.
* Về phương pháp dạy học:
- Tình trạng chung vẫn là dạy theo lối truyền thống, khả năng vận dụng các phương pháp DH theo hướng tích cực (nêu và giải quyết vấn đề, vấn đáp-đàm thoại, thảo luận nhóm, ) còn lúng túng, nặng về biểu diễn nên hiệu quả thấp.
- Kỹ năng diễn đạt chưa chuẩn (vẫn còn SV nói ngọng, nói lắp, nói nhát gừng, nói tiếng địa phương hoặc đưa thêm những liên từ rằng, thì, là mà), gây sự chú ý không tốt đối với HS. Mặt khác, lời giảng chưa có ngữ điệu, gương mặt lại hết sức căng thẳng nên bài giảng thiếu sự hấp dẫn.
- Kỹ năng viết bảng chưa đạt yêu cầu. Nhiều SV viết nhanh, nhưng chữ xấu, trình bày bảng chưa khoa học, viết quá dài, quá nhiều chi tiết. Ngược lại, có SV viết quá ngắn, ít thông tin, không tóm tắt được những nội dung cơ bản, chính yếu của bài học trên bảng để HS dễ theo dõi và ghi chép
- SV còn thiếu kỹ năng tổ chức dạy học nhóm, nhất là trong khâu chọn vấn đề cần thảo luận nhóm, chia nhóm, phân công trách nhiệm của từng thành viên trong nhóm, đặc biệt là điều khiển hoạt động của nhóm. Bởi vậy, kết quả hoạt động nhóm không cao, đôi khi mang tính hình thức.
- Kỹ năng sử dụng đồ dùng trực quan còn yếu, chưa biết kết hợp khéo léo giữa lời nói với việc chỉ dẫn trên đồ dùng trực quan.
- Kỹ năng giao tiếp, xử lý các tình huống dạy học còn lúng túng nên chưa điều khiển tốt quá trình dạy học ở trên lớp. Nhiều SV chưa tạo lập được mối quan hệ thân mật, gần gũi, cới mở giữa thầy và trò, nên sự tương tác trong dạy học rất khó khăn.
- Phong thái, tác phong và các thao tác sư phạm trên lớp của SV còn vụng về, thiếu tự tin, chưa tạo được “cái uy” trước mắt học trò.
* Về năng lực quản lý :
- Việc lập kế hoạch dạy học - giáo dục của SV trong đợt thực tập còn khuôn mẫu, cứng nhắc, chưa sáng tạo, linh hoạt. Đôi khi quá phụ thuộc vào GV hướng dẫn.
- Khả năng bao quát, điều khiển lớp chưa tốt vì phải lo việc truyền đạt kiến thức sao cho kịp thời gian tiết học.
- Nhiều SV khi thực tập SP rất ngỡ ngàng, lúng túng khi tổ chức các hoạt động DH-GD ngoài giờ lên lớp
- Còn không ít những HHSV thiếu chủ động, tích cực, chưa linh hoạt rước những yêu cầu của GV hướng dẫn ở trường Tiểu học (như cách lập kế hoạch dạy học, thiết kế giáo án; trình bày bài giảng, sử dụng các phương tiện, đồ dùng trực quan,).
II. Giải pháp thực hiện
Để nâng cao chất lượng RKNNN nói chung, kiến tập thực tập sư phạm nói riên. Chúng tôi thiết nghĩ cần thực hiện một số giải pháp sau:
1. Phải thay đổi nhận thức và làm đúng tinh thần Rèn luyện nghiệp vụ thường xuyên là phải thường xuyên rèn luyện. Phải làm cho SV có ý thức tự rèn luyện toàn diện bằng cách cụ thể hóa nội dung rèn luyện từng kì, từng năm... vì nội dung rèn luyện là điều kiện tốt cho sinh viên rèn luyện tay nghề, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo. Phải làm cho SV tích cực tham gia các hoạt động RNV SP thường xuyên. Vì vậy cả người dạy và người học cần phải dành nhiều thời gian, công sức cho nội dung này. Hoạt động này rất đa dạng, phong phú từ việc hướng dẫn, rèn luyện cách đi đứng, nói năng, cách trình bày, diễn đạt, cách viết bảng đến cách soạn bài, tổ chức thực hiện một tiết dạy học trên lớp, hay cách thức ứng xử, giải quyết các tình huống sư phạm vv Tất cả đều phải được hướng dẫn, rèn luyện đến nơi đến chốn. Trong đó GV phải đóng nhiều vai trò, có lúc vừa là cố vấn, vừa là người đạo diễn, có lúc lại phải làm cả nhiệm vụ của một diễn viên trên sân khấu để giúp SV học tập. Đây cũng có thể coi là phương pháp dạy học tích cực, hiệu quả, lại rất sinh động mà SV luôn khát khao mong đợi.
2. Với HSSV có nhiệm vụ quan tâm và thường xuyên đổi mới phương pháp RKNNN
Rèn như thế nào mới mang lại hiệu quả ? Để tìm ra các liệu pháp cho câu hỏi thì yêu tố quan trong nhất chính là sự nỗ lực của bản thân mỗi sinh viên, phải nỗ lực tranh thủ mọi khả năng có thể tự rèn luyện kĩ năng nói, viết bảng, trau dồi kiến thức, giao tiếp, xử lý tình huống sư phạm, Bởi thời gian xuống trường phổ thông trong chương trình là hạn hẹp và thường không đủ để mỗi SV có thể thực hành được nhiều. Vì SV chưa có thói quen chủ động tìm tài liệu tham khảo và tự nghiên cứu, chưa có thói quen tự RKNNN, nên việc chia sẻ tài liệu, tương tác giữa sinh viên với nhau là rất hữu ích, từ đó sẽ hình thành ở các bạn một thái độ tích cực hơn trong học tập và nghiên cứu. Các sinh viên tham gia dự giờ lẫn nhau, vừa để học hỏi, rút kinh nghiệm cho bản thân, đồng thời góp ý cho nhau hoàn thiện hơn tiết dạy của mỗi người. Sinh viên thực tập cần quan tâm ý kiến nhận xét, đánh giá về tiết dạy mẫu từ phía giảng viên, giáo viên hướng dẫn và các sinh viên khác trong đoàn, từ đó có thêm nhiều nguồn ý kiến khác nhau để đúc kết nên kinh nghiệm giảng dạy cho riêng mình.
3. Với Giảng viên trường Cao đẳng Sơn La dạy các học phần về phương pháp dạy học bộ môn cần thường xuyên trao đổi để thống nhất giữa lý thuyết (trang bị ở trường CĐ) với thực tiễn (vận dụng trong giảng dạy ở trường Tiểu học) và thực sự bắt kịp với sự biến đổi thực tế ở Tiểu học, cần tham gia hoạt động dự giờ sinh viên thực tập, lắng nghe ý kiến phản hồi của giáo viên trường Tiểu học về chất lượng sinh viên kiến tập, thực tập và chương trình đào tạo ở trường CĐ. Đó không chỉ là dịp để đánh giá đúng tình hình thực tập, chất lượng và năng lực giảng dạy của sinh viên ở trường Tiểu học mà còn là cơ hội để giảng viên nhìn lại sản phẩm của mình để đưa ra biện pháp điều chỉnh giảng dạy và rèn nghề thích hợp, kịp thời để điều chỉnh và thực hiện tốt nhiệm vụ rèn RKNNN cho HSSV
4. Nên xây dựng một sổ KNNN mà ở đó, SV được rèn các kỹ năng cơ bản chung như kỹ năng diễn đạt (nói, viết); kỹ năng trình bày bảng, sử dụng đồ dùng trực quan, thiết kế giáo án, tổ chức tiết dạy,Còn những kỹ năng DH mang tính đặc thù của bộ môn thì giảng viên bộ môn sẽ đảm nhiệm. Tăng cường sử dụng băng hình, tăng cường tổ chức các tiết dạy mẫu, mời các giáo viên tiểu học giỏi, cùng thiết kế, xây dựng, thực hiện sẽ giúp SV hình thành những kĩ năng sư phạm bằng một con đường sinh động nhất, nhanh nhất, hiệu quả nhất.
Kết luận
Trên đây là những suy nghĩ chúng tôi mạnh dạn chia sẽ cùng các bạn. Trong quá trình trình bày tham luận này không tránh khỏi những thiếu sót, mong các bạn đóng góp thêm để chúng ta có thể có được những giải pháp hữu hiệu nâng cao chất lượng kiến tập, thực tập cho HSSV ngành sư phạm tiểu học, giúp họ có kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng được yêu cầu của các cơ sở giáo dục Tiểu học trong tỉnh Sơn La.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ky_yeu_hoi_thao_khoa_hoc_29_11_2013_khoa_thmn_2922.doc