Hội nhập quốc tế và giao lưu văn hóa của Việt Nam – từ nhận thức đến hành động

Thế kỷ XXI là thế kỷ của vă n hóa, củ a xã hộ i tri thứ c và của toàn cầu hóa. Nhiều vấn đề có tính chất toàn cầu đã và đang đặt ra mà một quốc gia riêng lẻ không thể giải quyết được: vă n hóa và phản vă n hóa, đối thoai v ̣ à xung độ t, Tuy vậy, nhâ n loai đang c ̣ ổ vũ cho sự đa dang v ̣ ă n hóa và đối thoai v ̣ ă n hóa để xâ y dưng m ̣ ộ t nền vă n hóa – văn minh vớ i bản sắc phong phú, đa dạng củ a các dân tộc. Chính vì vậy, hội nhập quốc tế và giao lưu văn hóa là một xu hướng tất yếu của Việt Nam trong thời đại ngày nay. Từ nhận thức đến hành động, chúng ta đã có những chuyển biến tích cực và đã gặt hái được những thành quả quan trọng, góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới, tạo được uy tín trên trường quốc tế. Không có cách nào khác, chúng ta cần phải xác định, ngoại giao văn hóa là một “sức mạnh mềm” hay “quyền lực mềm”, là một trong ba trụ cột quan trọng (chính trị, kinh tế, văn hóa) trong tiến trình hội nhập đương đại, góp phần thiết thực vào việc quảng bá hiệu quả hình ảnh một đất nước Việt Nam xinh đẹp, thân thiện và giàu tiềm năng đến bạn bè quốc tế.

pdf7 trang | Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 423 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hội nhập quốc tế và giao lưu văn hóa của Việt Nam – từ nhận thức đến hành động, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 58 – 64 58 HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ GIAO LƯU VĂN HÓA CỦA VIỆT NAM – TỪ NHẬN THỨC ĐẾN HÀNH ĐỘNG Võ Văn Thắng1, Nguyễn Thị Ngọc Thơ1, Trần Xuân Hải2 1Trường Đại học An Giang 2Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Thông tin chung: Ngày nhận bài: 15/02/2017 Ngày nhận kết quả bình duyệt: 15/03/2017 Ngày chấp nhận đăng: 04/2017 Title: International integration and cultural exchanges in Vietnam: ideologies and practices Keywords: International integration, culture, culture exchange Từ khóa: Hội nhập quốc tế, Văn hóa, Giao lưu văn hóa ABSTRACT Over the past 87 years, on the foundation of Ho Chi Minh's ideology, the Vietnamese Communist Party has increasingly become aware of the importance of international integration and cultural exchanges. It is clearly seen that now there has been numerous ideologies of international integration and cultural exchanges among people. Within the great policies, guidelines of the Party and the State, Vietnam’s revolutionary has constantly advanced and the country has increasingly been developing together with international integration in many fields. TÓM TẮT Trải qua 87 năm, trên nền tảng Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về tầm quan trọng của vấn đề hội nhập quốc tế và giao lưu văn hóa. Điều đó được thể hiện rõ nét về sự phát triển của những quan điểm về hội nhập quốc tế nói chung, giao lưu văn hóa nói riêng. Với những đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, cách mạng Việt Nam không ngừng tiến lên, đất nước ngày càng phát triển, đặc biệt là từng bước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trên nhiều mặt. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, văn hóa càng có vai trò rất quan trọng, nó trở thành “sức mạnh mềm” trong sức mạnh tổng hợp quốc gia. Nói cách khác, văn hóa có sức mạnh riêng nó mà biểu hiện trước hết là khả năng thâm nhập sâu rộng, đạt được mục tiêu mà các biện pháp chính trị và quân sự khó có thể đạt được. Chính vì vậy, các quốc gia trên thế giới ngày càng chú ý nhiều đến các hoạt động văn hóa, như đa dạng văn hóa, đối thoại giữa các nền văn hóa - văn minh, văn hóa hòa bình, Kênh văn hóa được sử dụng như một phương tiện hiệu quả hỗ trợ thúc đẩy quan hệ chính trị, an ninh, kinh tế,... Ở phạm vi toàn cầu, Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO) là trường hợp điển hình của việc tuyên truyền ngoại giao văn hóa với vai trò trung tâm là điều phối các hoạt động ngoại giao văn hóa tập thể, bao gồm 193 quốc gia thành viên, có trụ sở chính đặt tại Thủ đô Pa-ri (Pháp), với hơn 50 văn phòng đại diện và một số viện, trung tâm trực thuộc đặt khắp nơi trên thế giới. Ở phạm vi khu vực, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) với mục tiêu xây dựng Cộng đồng Văn hóa - Xã hội bên cạnh Cộng đồng An ninh - Chính trị và Cộng đồng Kinh tế cũng là một trong số đó. Điều này cho thấy, văn hóa không chỉ đơn thuần phục vụ lợi ích chính trị như các học giả truyền thống thừa nhận, mà còn gắn liền với lợi ích quốc gia toàn diện. An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 58 – 64 59 Thực tế hội nhập quốc tế với quy mô toàn cầu hóa hiện nay cho thấy, ngoại giao văn hóa được coi là một minh chứng tiêu biểu về quyền lực mềm, khả năng thuyết phục thông qua văn hóa, giá trị và ý tưởng, đối lập với quyền lực cứng, với sự chinh phục hoặc cưỡng ép thông qua sức mạnh quân sự (Josep, 2002). 2. QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ HÀNH ĐỘNG CỦA ĐẢNG TA VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ GIAO LƯU VĂN HÓA Đảng ta từ rất sớm đã nhận thức rõ tầm quan trọng cũng như tính cấp thiết của vấn đề mở rộng giao lưu, hợp tác, hội nhập quốc tế nhằm chủ động tìm kiếm cơ hội, đưa đất nước phát triển. Thực tiễn cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta giành được thắng lợi là kết quả của tư tưởng lãnh đạo đúng đắn, đó là chủ trương kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại và là một trong những nguyên tắc cơ bản trong đường lối đối ngoại. Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ sớm có tư tưởng mở cửa, hội nhập quốc tế. Từ năm 1919, trên Báo L'Humanite' (Báo Nhân đạo) của Đảng Cộng sản Pháp, Người đã viết, xét về nguyên tắc, tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa quốc tế và văn minh chỉ có lợi khi các quan hệ quốc tế được mở rộng và tăng cường. Năm 1943, Đề cương văn hóa ra đời. Đây chính là bản tuyên ngôn chính thức đầu tiên của Đảng ta về văn hóa - nghệ thuật. Đề cương nêu lên ba nguyên tắc vận động của văn hóa mới Việt Nam trong giai đoạn hiện tại là: Dân tộc hóa, khoa học hóa và đại chúng hóa. Ba nguyên tắc đó là những yêu cầu khách quan về phương diện văn hóa của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta trong điều kiện tiếp xúc với văn hóa Nhật, Pháp lúc bấy giờ, mở ra hướng phát triển cho nền văn hóa xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trong bức thư gửi cho Liên hợp quốc với tư cách là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chủ tịch đã viết: “... Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực. Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình; sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường xá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế; chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc. Nước Việt Nam sẵn sàng ký kết với lực lượng hải quân, lục quân trong khuôn khổ của Liên hợp quốc những hiệp định an ninh đặc biệt và những hiệp ước liên quan đến việc sử dụng một vài căn cứ hải quân và không quân...” (Hồ Chí Minh toàn tập, 2002). Tuy nhiên, do hoàn cảnh khách quan của đất nước trong giai đoạn chiến tranh giải phóng dân tộc lúc bấy giờ, tư tưởng của Người chưa được triển khai một cách đầy đủ. Nhưng chúng ta thấy rằng, những tư tưởng đó đã tạo tiền đề rất quan trọng cho việc hình thành chủ trương, đường lối hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng và hội nhập quốc tế nói chung của Đảng ta. Trong diễn văn khai mạc Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất được triệu tập tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên nhiệm vụ của nền văn hóa đối với sự nghiệp cách mạng ở nước ta: “Chúng ta cần biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”, “số phận dân ta ở trong tay ta, văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”, phải “đem văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập tự cường và tự chủ” Đó là những tư tưởng quý báu, đặt nền tảng cho văn hóa nước ta sau này. Có thể nói, Hồ Chí Minh luôn suy nghĩ và khát vọng tiến tới xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, mà mục tiêu đã được nêu ra từ Đề cương văn hóa (năm 1943). Tại Hội nghị Đại biểu những người tích cực làm công tác văn hóa quần chúng toàn miền Bắc lần thứ nhất (11/02/1960), Người khẳng định, để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn hóa phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức. Tất cả những quan điểm này đã tạo tiền đề cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng 9/1960) đi đến khẳng định: Phát triển nền văn nghệ mới với nội An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 58 – 64 60 dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc. Đây chính là phương châm mới đã chỉ đạo xây dựng nền văn hóa, văn nghệ trong suốt 30 năm (từ năm 1957 đến năm 1986). Năm 1976, đất nước Việt Nam thống nhất, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Đảng ta đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và khẳng định rằng, nước ta phải kết hợp phát triển kinh tế trong nước với việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Với chủ trương này, chúng ta tiến hành thực thi hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa trong khuôn khổ Hội đồng Tương trợ kinh tế, sau đó, chúng ta thực hiện quan hệ hợp tác kinh tế với nhiều nước tư bản chủ nghĩa dựa trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) mở ra một bước ngoặt cho thời kỳ đổi mới. Quan điểm hội nhập quốc tế của Đảng, Nhà nước được Đại hội khẳng định: Muốn kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, nước ta phải tham gia sự phân công lao động quốc tế; trước hết và chủ yếu là với Liên Xô, Lào và Căm- pu-chia, với các nước khác trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa; đồng thời tranh thủ mở mang quan hệ kinh tế và khoa học - kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba, các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. Quan điểm này đã đáp ứng được yêu cầu cấp bách trước mắt đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế, phá thế bao vây cấm vận của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, đồng thời tạo cơ sở cho việc phát triển đường lối mở rộng quan hệ hợp tác, hội nhập quốc tế sau này. Thật vậy, đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991), Đảng ta mở rộng chủ trương hợp tác, hội nhập quốc tế: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”, dựa trên nguyên tắc cơ bản trong hội nhập kinh tế là: “mở rộng, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi” (Hồ Chí Minh toàn tập, 2002). Rõ ràng, đây là một bước đột phá trong quá trình hội nhập quốc tế. Bổ sung và phát triển chủ trương hội nhập quốc tế ưu tiên trong lĩnh vực kinh tế, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết Trung ương III, khóa VII ngày 29/6/1992. Theo đó, Nghị quyết nhấn mạnh, chủ trương mở rộng quan hệ với các tổ chức quốc tế, trong đó khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), mở rộng quan hệ với các tổ chức hợp tác khu vực, trước hết ở châu Á - Thái Bình Dương. Và Bộ Chính trị đã ban hành Quyết định số 1005 CV/VPTW ngày 22/11/1994 giao cho Chính phủ soạn thảo và gửi đơn xin gia nhập WTO; theo Quyết định số 493 CV/VPTW ngày 14/6/1996 của Bộ Chính trị, nước ta đã gửi đơn xin gia nhập Diễn đàn APEC. Tiếp theo quan điểm “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc khóa VIII năm 1996, Đảng ta phát triển thêm một bước, đó là “xây dựng nền kinh tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”, mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực, dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi. Nhận thức sâu hơn về tầm quan trọng về hội nhập quốc tế khi đất nước bước vào thế kỷ mới – thế kỷ XXI, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc khóa IX năm 2001, Đảng ta chủ trương: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển" (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001); “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 58 – 64 61 nghĩa, bảo vệ lợi dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001). Đảng ta đã mở rộng và phát triển chủ trương hội nhập quốc tế qua việc đa phương hóa, đa dạng hóa hợp tác, đồng thời nhấn mạnh, Việt Nam không chỉ "sẵn sàng là bạn" mà còn sẵn sàng “là đối tác tin cậy của các nước" và "chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”. Và chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” đã được Bộ Chính trị cụ thể hóa bằng Nghị quyết 07-NQ/TW, ngày 27/11/2001. Để phát triển đường lối, chủ trương quan hệ, hội nhập quốc tế đã được xây dựng từ các đại hội trước, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X (tháng 4/2006), Đảng ta khẳng định: Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ bùng nổ, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011) vừa qua, Đảng ta đã phát triển quan điểm: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác” thành “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, cụ thể là “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011). Quan điểm mới này đã thể hiện tầm nhìn chiến lược toàn diện của Đảng, xác định rõ bước đi và lộ trình hội nhập của Việt Nam với khu vực và thế giới. Việt Nam tham gia vào tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường. Trong tiến trình hội nhập quốc tế, đất nước không chỉ chủ động, tích cực hội nhập riêng ở lĩnh vực kinh tế mà còn mở rộng với quy mô toàn diện trên ở các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh,... Đảng ta cũng lưu ý rằng, trong quá trình hội nhập quốc tế, chúng ta cần phát huy mọi tiềm năng, nguồn lực của mọi thành phần kinh tế, của toàn xã hội; vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh; vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tùy theo đối tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể. Cần kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh, quốc phòng, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước. Đây chính là biểu hiện của sự chuyển biến trong nhận thức của Đảng về hội nhập quốc tế, phản ánh được nhu cầu thực tiễn cấp bách của sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời đại toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của hội nhập quốc tế, ngày 10/4/2013, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 22- NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế. Có thể nói, đây là lần đầu tiên trong lịch sử, Đảng ta có một nghị quyết riêng với tên gọi “hội nhập quốc tế”. Mục tiêu của hội nhập quốc tế được Nghị quyết nêu rõ: “Hội nhập quốc tế phải nhằm củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” (Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 2013). Trong phần định hướng chủ yếu trong thời gian tới, Nghị quyết đã nêu rõ 05 nội dung trong hội nhập quốc tế trên tất cả lĩnh vực. Điều đáng lưu ý là trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ, y tế và các lĩnh vực khác, đất nước ta cần lồng ghép các hoạt động hội An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 58 – 64 62 nhập quốc tế trong quá trình xây dựng và triển khai chiến lược phát triển các lĩnh vực này. Đẩy mạnh hợp tác song phương và đa phương về văn hóa, xã hội, khoa học – công nghệ, giáo dục – đào tạo, trước hết là xây dựng cộng đồng văn hóa – xã hội ASEAN, tập trung vào phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ quốc tế, tiếp thu tri thức, nhất là tri thức về quản lý và khoa học công nghệ, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Tăng cường quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam với bạn bè quốc tế. Ngày 8/8/2013, tại Hội nghị tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII về “Xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đã bản sắc văn hóa dân tộc”, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có bài phát biểu chỉ đạo. Theo đó, Thủ tướng yêu cầu xây dựng các kế hoạch hành động nhằm phát huy nội lực, hội nhập quốc tế để chủ động hội nhập văn hóa, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa giữ được bản sắc văn hóa, làm giàu truyền thống văn hóa dân tộc từ tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời có đóng góp tích cực vào kho tàng văn hóa nhân loại. Như vậy, bên cạnh việc phát triển quan điểm về hội nhập quốc tế nói chung, Đảng ta đã khẳng định và đề ra chủ trương hội nhập văn hóa thế giới hiện nay với nội dung rõ ràng và cụ thể hơn. Lịch sử Việt Nam chứng minh rằng, hoạt động ngoại giao, hội nhập quốc tế của dân tộc ta từ xưa đến nay, không có thời kỳ nào là không in đậm dấu ấn của văn hóa. Chất văn hóa này được thể hiện rõ ràng nhất trong tinh thần hòa hiếu của dân tộc, trong chiến lược “ngoại giao tâm công” của cha ông ta, trong những câu chuyện về sứ thần Đại Việt lấy thơ ca để giành thắng lợi trong đối ngoại (Phạm Gia Khiêm, 2009). Nhận thức được điều này, trong hoạt động thực tiễn, Đảng và Nhà nước ta những năm qua đã đẩy mạnh hoạt động ngoại giao văn hóa, quảng bá hình ảnh đất nước trong thời kỳ hội nhập ra nước ngoài. Thật vậy, Hội nghị Ngoại giao lần thứ 25 năm 2006 và lần thứ 26 năm 2008 cho thấy, công tác ngoại giao văn hóa đã khẳng định được chỗ đứng của mình trong công tác đối ngoại thời kỳ mới, như một bông hoa năm cánh đầy đặn - biểu tượng của Năm Ngoại giao Văn hóa 2009: là nhân tố dòng hải lưu mở đường cho quan hệ giữa ta và một số quốc gia, là chất xúc tác thúc đẩy ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế, là công cụ quảng bá mạnh mẽ văn hóa Việt Nam, là kênh vận động hiệu quả cho các di sản của đất nước và là cửa ngõ tiếp thu có chọn lọc tinh hoa nhân loại (Phạm Gia Khiêm, 2009). Hàng loạt hoạt động mang dấu ấn đáng nhớ của ngoại giao văn hóa Việt Nam có thể kể đến, đó là: Tháng 5/2009, Cù lao Chàm và Vườn quốc gia Mũi Cà Mau được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển của thế giới. Tháng 6/2009, Môc̣ Bản triều Nguyêñ của Viêṭ Nam lần đầu tiên đươc̣ công nhâṇ là Di sản tư liêụ trong chương trı̀nh Ký ức thời gian. Tiếp sau đó, tháng 3/2010, 82 tấm bia tiến sĩ của các khoa thi dưới triều Lê - Mạc (1442 - 1779) tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) đã được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới. Đây là những tấm bia tiến sĩ duy nhất trên thế giới có bài ký (văn bia) không chỉ lưu danh những tiến sĩ đã thi đỗ trong các kỳ thi trải dài suốt gần 300 năm (từ 1442 đến 1779) mà còn ghi lại lịch sử các khoa thi và triết lý của triều đại về nền giáo dục và đào tạo, sử dụng nhân tài, do đó có tác động to lớn đối với xã hội đương thời và hậu thế. Ngày 16/5/2012, Ủy ban UNESCO khu vực Châu Á - Thái Bình Dương chính thức ghi danh Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm vào danh mục Di sản tư liệu ký ức thế giới khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (lưu giữ và bảo tồn nhiều bộ ván kinh Phật, kho Mộc bản còn lưu hơn 10 đầu sách với 3.050 bản khắc). Ngày 14/5/2014, tại Hội nghị toàn thể lần thứ 6, Chương trình Ký ức thế giới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, Châu bản triều Nguyễn chính thức được ghi danh vào danh mục Di sản tư liệu Chương trình Ký ức thế giới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương của UNESCO. Tháng 9, tới lượt Quan họ Bắc Ninh và Ca trù được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Ngày 01/8/2010, Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long của Việt An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 58 – 64 63 Nam chính thức được công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Tháng 10/2013, Việt Nam trúng cử với số phiếu cao vào Hội đồng Chấp hành UNESCO nhiệm kỳ 2009 - 2013 và UNESCO thông qua Nghị quyết tham gia Đại lễ 1.000 năm Thăng Long. Đặc biệt là, Hội nghị Ủy ban Liên chính phủ lần thứ 8 về bảo vệ văn hóa di sản phi vật thể, diễn ra tại thành phố Baku, Cộng hòa Azerbaijan, từ ngày 2 đến 8/12/2013, UNESCO đã chính thức công nhận Đờn ca tài tử Nam bộ là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Với phương châm “đưa Việt Nam ra thế giới và thế giới đến với Việt Nam”, các địa phương trên cả nước đã có nhiều hoạt động nhằm đẩy mạnh việc quảng bá hình ảnh địa phương mình, nổi bật là các sự kiện: Đêm Giao lưu văn hóa Quan họ, Festival Cà phê Buôn Ma Thuột, Festival Biển tại Nha Trang, Lê ̃ hôị hoa Đà Laṭ, Liên hoan Hát then Đàn tı́nh taị Bắc Kaṇ, Hôị thảo Cao nguyên Đá Đồng Văn taị Hà Giang, Festival Huế (với chủ đề Di sản văn hóa với hội nhập và phát triển, lần thứ VIII, diễn ra từ ngày 12/4 đến ngày 20/4/2014 đã hội tụ các thành phố Cố đô của Việt Nam và hơn 30 quốc gia của năm châu lục, là hoạt động văn hóa đặc biệt trong khuôn khổ diễn đàn giao lưu văn hóa Đông Á – Mỹ La tinh do Bộ Ngoại giao Việt Nam đề xướng), Bên cạnh công tác đào tạo, việc vận động UNESCO công nhận các di sản văn hóa cũng đạt được kết quả rất khả quan. Việc đa dạng hóa loại hình vận động, mở rộng đối tượng vận động đạt được kết quả quan trọng. Chẳng hạn, việc vận động các tổ chức tư nhân như New7wonders, các kênh truyền hình như CNN, BBC, Hãng taxi London đã hỗ trợ đắc lực các địa phương giới thiệu hình ảnh, danh lam thắng cảnh và những nét đặc sắc văn hóa của mỗi vùng miền, góp phần xúc tiến du lịch, thu hút đầu tư, đóng góp trực tiếp, thiết thực cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương có di sản. Điều đáng lưu ý là, chúng ta đã ban hành được Luật Cơ quan Đại diện Việt Nam ở nước ngoài, Chỉ thị về việc tăng cường công tác ngoại giao văn hóa và thành lập Ban Chỉ đạo Ngoại giao Văn hóa đã tạo ra xung lực mới cho ngoại giao văn hóa Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế. Theo đó, nhiều hoạt động trong lĩnh vực này có những đóng góp rất quan trọng trong công tác ngoại giao, quảng bá hình ảnh đất nước ra quốc tế: Dự án Dạy tiếng Việt, Cầu truyền hình Xuân Quê hương, Chương trình Ngày Việt Nam, Tuần Việt Nam, Trại hè Việt Nam, Gặp gỡ thanh niên, sinh viên kiều bào đã thu hút người Việt Nam ở nước ngoài tham gia, góp phần giúp gìn giữ giá trị văn hóa truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, làm cầu nối thắt chặt tình cảm gắn bó giữa các kiều bào hướng về quê hương, nguồn cội. Những hoạt động trên đây đã tạo tiền đề quan trọng cho năm 2010 và tiếp tục gặt hái những thành công tốt đẹp. Chúng ta đã xây dựng được Chiến lược Ngoại giao văn hóa Việt Nam đến 2020 (14/02/2011) (Quyết định số 208 của Thủ tướng Chính phủ, 2013) và xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm của công tác này là triển khai một cách có hiệu quả các hoạt động phục vụ năm Việt Nam làm Chủ tịch ASEAN và các lễ kỷ niệm năm chẵn, năm tròn thiết lập quan hệ ngoại giao với 50 đối tác trên thế giới. Chúng ta tổ chức hơn 10 tuần văn hóa Việt Nam tại các nước: Pháp, Nga, Trung Quốc, Hàn Quốc, Hoạt động này đã làm cho bạn bè quốc tế hiểu nhiều hơn về bản sắc văn hóa Việt Nam. Bên cạnh đó, các chương trình nghệ thuật quốc tế cũng được tổ chức: Toyota classic, Hennessy hay Đại nhạc hội Việt - Nhật đã tạo ra được bộ mặt mới, đa dạng trong lĩnh vực văn hóa, góp phần tạo nên tiếng vang đối với bạn bè quốc tế. Trong năm 2010, 2011, nhiều di sản văn hóa của Việt Nam đã được UNESCO công nhận: Khu Di tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long (2010); Di tích Thành nhà Hồ (2011); Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc là Di sản phi vật thể đại diện của nhân loại (2010); 82 Bia Tiến sĩ Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội là Di sản Tư liệu Thế giới (2010); hát Xoan Phú Thọ là Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại (2011); Vịnh Hạ Long là di sản được UNESCO vinh danh lần thứ hai trong danh sách bảy kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới. Ngày 23/6/2014, tại An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 58 – 64 64 Doha, với sự đồng thuận tuyệt đối của Ủy ban Di sản thế giới, Quần thể danh thắng Tràng An chính thức trở thành di sản thế giới hỗn hợp đầu tiên của Việt Nam (Việt Nam tính đến nay có 22 di sản thế giới). Nhận thức tầm quan trọng của việc phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đồng thời giữ gìn bản sắc tốt đẹp của dân tộc, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta xác định: “Chủ động hợp tác và giao lưu quốc tế về văn hoá, quảng bá văn hoá Việt Nam, tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016) 3. KẾT LUẬN Thế kỷ XXI là thế kỷ của văn hóa, của xa ̃hội tri thức và của toàn cầu hóa. Nhiều vấn đề có tính chất toàn cầu đã và đang đặt ra mà một quốc gia riêng lẻ không thể giải quyết được: văn hóa và phản văn hóa, đối thoaị và xung đột, Tuy vậy, nhân loaị đang cổ vũ cho sư ̣đa daṇg văn hóa và đối thoaị văn hóa để xây dưṇg một nền văn hóa – văn minh với bản sắc phong phú, đa dạng của các dân tộc. Chính vì vậy, hội nhập quốc tế và giao lưu văn hóa là một xu hướng tất yếu của Việt Nam trong thời đại ngày nay. Từ nhận thức đến hành động, chúng ta đã có những chuyển biến tích cực và đã gặt hái được những thành quả quan trọng, góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới, tạo được uy tín trên trường quốc tế. Không có cách nào khác, chúng ta cần phải xác định, ngoại giao văn hóa là một “sức mạnh mềm” hay “quyền lực mềm”, là một trong ba trụ cột quan trọng (chính trị, kinh tế, văn hóa) trong tiến trình hội nhập đương đại, góp phần thiết thực vào việc quảng bá hiệu quả hình ảnh một đất nước Việt Nam xinh đẹp, thân thiện và giàu tiềm năng đến bạn bè quốc tế. TÀI LIỆU THAM KHẢO Ban Chấp hành Trung ương Đảng. (2013). Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Hà Nội: Văn phòng Trung ương Đảng. Hồ Chí Minh. (2002). Toàn tập. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Josep S. Nye Jr. (2002): The Paradox of American Power. Oxford: Oxford University Press. Phạm Gia Khiêm. (2009). Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Dấu ấn của năm Ngoại giao Văn hóa 2009. (Truy cập: ngoai-giao-van-hoa-2009/35176.vnp). Quyết định số: 208/QĐ-TTg, ngày 14-02-2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chiến lược ngoại giao văn hóa đến 2020.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf06_vo_van_thang_0_5518_2024249.pdf
Tài liệu liên quan