Văn xuôi các dân tộc thiểu số ngày càng phát
triển và được khẳng định trong đời sống văn
học Việt Nam. Các tiểu thuyết của Triều Ân
ra đời vào thời kì văn xuôi dân tộc thiểu số nở
rộ mạnh mẽ, những năm 80 – 90 của thế kỉ
XX. Đây là thời kì chuyển từ cơ chế quan liêu
bao cấp sang cơ chế thị trường. Cơ cấu kinh
tế miền núi có nhiều biến động, quan hệ đạo
đức giữa người với người phần nào bị xuống
cấp. Thông qua hệ thống nhân vật đa dạng và
phong phú với nhiều tầng lớp người thuộc
nhiều ngành nghề khác nhau nhà văn muốn ca
ngợi phẩm chất tốt đẹp của con người miền
núi trong thời đại mới. Cái mới bao giờ cũng
chiến thắng cái cũ, cái tốt bao giờ cũng được
tôn vinh và cái ác luôn bị lên án, triệt tiêu.
Đồng thời, nhà văn cũng bác bỏ những hủ tục,
lên án những tàn dư của xã hội phong kiến
còn sót lại và phản ánh một hiện trạng khá
phổ biến đó là sự lầm lạc về lối sống, suy
nghĩ, tính cách. của một bộ phận người dân
miền núi trong thời buổi cơ chế thị trường.
7 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 437 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hình tượng con người miền núi trong tiểu thuyết của Triều Ân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cao Thị Hảo và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 39 - 45
39
HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI MIỀN NÚI
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA TRIỀU ÂN
Cao Thị Hảo*, Dương Trung Tín
Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Qua việc khảo sát 3 tiểu thuyết của Triều Ân là: Nắng vàng bản Dao (1992), Nơi ấy biên thuỳ
(1994), Dặm ngàn rong ruổi (2000), người viết đã chỉ ra những hình tượng nhân vật tiêu biểu như:
những con người miền núi vượt qua bức tường phong kiến lạc hậu; những con người bị tha hoá
đạo đức trong vòng xoáy của cơ chế thị trường và những con người hướng thiện giầu lòng nhân ái.
Qua những hình tượng nhân vật sinh động, độc đáo và mang hơi thở cuộc sống của người dân tộc
thiểu số miền núi phía Bắc, người đọc có thể thấy được cách khám phá con người, nhìn nhận cuộc
đời cũng như tâm hồn nhà văn.
Từ khoá: Tiểu thuyết của Triều Ân, Văn học dân tộc thiểu số
Văn học thiểu số miền núi được coi là một
mảng văn học đặc sắc. Chính các nhà văn
người dân tộc thiểu số đã góp phần quan
trọng vào việc khám phá, phát hiện vẻ đẹp
chân, thiện, mỹ của đồng bào dân tộc mình.
Nói tới thành tựu của dòng văn học này,
không thể không nhắc tới Triều Ân – nhà văn
dân tộc Tày khá tiêu biểu. Ông xuất hiện trên
văn đàn vào khoảng thập niên 60 - 70 của thế
kỉ trước với nhiều thành công trên lĩnh vực
thơ ca và truyện ngắn. Nhưng có lẽ chỉ khi
thử sức với thể loại tiểu thuyết vào khoảng
những năm 90, “người đọc mới có dịp nhìn
nhận một cách đầy đủ và toàn diện hơn sự
nghiệp văn học cùng những đóng góp đáng
ghi nhận của nhà văn với văn học các dân tộc
ít người” [1] này.*
Về nhân vật trong tiểu thuyết của Triều Ân,
một số nhà nghiên cứu đã đề cập đến. Bích
Thu cho rằng: nhân vật trong tiểu thuyết của
Triều Ân luôn phải “nếm trải” những “nhọc
nhằn, cay đắng trên những “rặm ngàn rong
ruổi” của mình”, trải qua “những thử thách
ngặt nghèo để nhân vật tự lựa chọn, ứng xử,
qua đó bộc lộ cá tính và nhân cách của mỗi
cá nhân” [2]. Nguyễn Văn Long cũng khẳng
định sự cố gắng của tác giả trong việc “thâm
nhập sâu hơn vào thế giới tinh thần của các
nhân vật để thể hiện và lí giải những mạch
nguồn sâu xa của sức sống và những cảm
thức về đời sống, về thế giới tự nhiên của con
người miền núi” [3]. Tuy nhiên, những bài
viết này chủ yếu nghiên cứu trên diện khái
*
Email: caohaokv@yahoo.com
quát, chưa đi sâu để chỉ ra những đặc điểm cụ
thể của hình tượng con người miền núi trong
tiểu thuyết Triều Ân. Với việc khảo sát 3 tiểu
thuyết: Nắng vàng bản Dao (1992), Nơi ấy
biên thuỳ (1994), Dặm ngàn rong ruổi
(2000), chúng tôi hi vọng sẽ khẳng định một
phần những đóng góp của Triều Ân trong việc
khắc hoạ hình tượng con người miền núi sinh
động, độc đáo và mang hơi thở cuộc sống của
người dân tộc thiểu số phía Bắc trong thời kỳ
đổi mới. Qua đó, người đọc có thể thấy được
cách khám phá con người, nhìn nhận cuộc đời
cũng như tâm hồn của nhà văn một cách khá
rõ nét.
Những con người vượt qua “bức tường”
phong tục, tập quán lạc hậu
Trong tiểu thuyết Nắng vàng bản Dao, Triều
Ân đã xây dựng thành công hình tượng những
con người có tri thức dám đấu tranh chống lại
những hủ tục “thâm căn cố đế” mang lại sinh
khí mới cho cuộc sống của đồng bào miền
núi. Họ là những trí thức đại diện tiêu biểu
cho người dân tộc thiểu số miền núi. Đó là cô
giáo Lan, Phó chủ tịch xã Tòng.
Ngọc Lan là cô giáo dân tộc Tày, đầy nhiệt
tình, tận tụy với nghề nghiệp, với học trò. Cô
tiêu biểu cho những người có tư tưởng tiến
bộ, chấp nhận đánh đổi tình yêu, khát vọng
hạnh phúc gia đình để mang đến ánh sáng
khoa học, tri thức văn hóa rạng rỡ cho người
dân miền núi. Nhìn ngoại hình ta có thể hình
dung được phần nào cuộc đời đầy gian truân
vất vả của cô: “ Khuôn mặt trái xoan đã có ít
nhiều đổi thay. Đôi gò má nhô cao hơn. Đôi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Cao Thị Hảo và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 39 - 45
40
mắt bồ câu lanh lợi lúng liếng xưa kia ẩn
dưới hai hàng lông mày lá liễu nay đã nhuốm
vẻ thẫn thờ mệt mỏi. Đuôi mắt đã có vài vết
nhăn mờ”[4]. Từ khi lấy chồng, cuộc đời
cô giáo trẻ bước vào những khó khăn thấm
đẫm nước mắt, tủi thân có, tuyệt vọng có và
hi vọng mai sau cũng có. Chiến tranh lạnh
giữa mẹ chồng – nàng dâu, tập tục người Tày
– người Dao, cái cũ – cái mới bắt đầu từ đây.
Ngay trong ngày cưới cô đã phải trải qua
những thử thách đầy khắc nghiệt của mẹ
chồng: rước dâu phải đi lối cửa sau chật hẹp,
lầy lội vì mặc đồ trắng xui xẻo, gánh nước
suối đun nước cho mẹ chồng rửa mặt không
phát hiện ra kim khâu mẹ chồng bỏ ở đáy
thùng nên thân phận“chỉ còn trị giá bằng hai
con trâu”. Không những thế, mẹ chồng cô
còn không cho con dâu đi ở tập thể vì cho
rằng cô sẽ “đẻ từng lứa, từng đàn như chó
cái”. Thực hiện chủ trương của Đảng ủy xã:
xây chuồng trâu bò, chuồng lợn, chuồng tiêu,
Lan cùng chồng xây xong nhà vệ sinh kiểu
mẫu thì mẹ chồng nhìn thấy la lên: “Lùng đao
ơi! (trời đất ơi) Con dâu Tày nó về Đô liang
làm loạn. Nó là con quỷ...”. Qua mối quan hệ
mẹ chồng – nàng dâu, chúng ta đã thấy phần
nào sự lạc hậu, bảo thủ trong tư tưởng của
một bộ phận người dân miền núi trong những
năm đầu đổi mới. Đồng thời ta cũng cảm
nhận được nỗi vất vả của cô giáo Lan trong
tiểu thuyết nói riêng và những người làm
công tác vận động đổi mới ở miền núi trong
giai đoạn lịch sử đó nói chung.
Nhưng Lan vẫn bước đi trên con đường mình
đã chọn với hi vọng sẽ thay đổi được suy nghĩ
của mẹ chồng và chứng minh chỉ có khoa học
mới làm cuộc sống con người tốt hơn. Cô âm
thầm đấu tranh gạt bỏ những tư tưởng lạc hậu,
thiếu tính khoa học bằng hành động. Bằng
chứng là cô đã thuyết phục được Piao đi chữa
bệnh ở bệnh viện đông y, giải tỏa mối nghi
ngờ trong lòng chồng chứ không phải chữa
bệnh bằng những tục lệ cúng bái “tiền mất tật
mang” mà mẹ chồng đặt ra. Đối lập với suy
nghĩ, việc làm của Lan là những việc làm
luôn gắn với tư tưởng mê tín dị đoan của mẹ
chồng cô. Lan có thai, mẹ chồng Lan xuống
làng người Tày đón bà then lên làm lễ “bắc
cầu xin hoa” rất tốn kém. Người Dao có tục
“kin chai”, dăm năm lại có một lần. “Nhưng
là năm nào thì lại do thầy mo hoặc bà then
quyết định. Năm ấy cả làng xóm phải mổ hết
chó, mèo, gà vịt đang có, một thời gian sau
mới nuôi gây lại”. Lan đã không làm theo mà
mang gà xuống trường nuôi nên mẹ chồng
cho cô là yêu quái nên mới ăn gà đã thành
tinh. Lễ đầy tháng hai cháu bà đưa cho Lan
“xâu bánh nếp cóoc mò đi bán xúi” cho nhà
ông Quải để trả thù xưa, nhưng Lan lại treo
lên cây cho thú rừng ăn... Dường như ngòi bút
nhà văn không chỉ hướng đến những gì tươi
sáng cho tương lai mà còn mong muốn con
người phải biết thông cảm, bao dung cho
những thiếu sót của người khác. Lan đã thể
hiện được thông điệp ấy của nhà văn, không
chỉ mong muốn mang tri thức văn hóa cho
người dân vùng núi cao mà cô còn có tấm
lòng nhân hậu, vị tha, cảm thông trước sự bảo
thủ, lạc hậu của mẹ chồng. Cuộc sống của
Lan nhiều khi chìm trong nước mắt tưởng
chừng như tới mức tuyệt vọng khi chồng chết,
con chết, mẹ chồng kiện vì tội giết chồng
nhưng cô vẫn nhen nhóm hi vọng “Phải để
ánh sáng khoa học rọi vào những khoảng
trống tối tăm mê tín dị đoan, vào những tập
tục lạc hậu, vào thói bảo thủ nhỏ nhen...”.
Trong câu nựng đứa con thứ hai của Lan ta
thấy được niềm hi vọng của cô ở thế hệ tương
lai: “Dung đi học để biết khoa học đầy đủ, để
tuyệt đối tin rằng ở đời này không có ma quỷ”.
Thông qua nhân vật Lan, tác giả không chỉ
gửi gắm mong muốn người dân miền núi sẽ
có cuộc sống văn minh hơn mà nhà văn còn
ngợi ca phẩm chất cao quí của những con
người miền núi trong xã hội mới. Dù mất mát
thật lớn lao, nhưng họ vẫn âm thầm vượt qua,
làm chủ cuộc đời mình và hướng tới khoảng
trời tươi sáng ở phía trước. Trong lúc đau khổ
nhất con người cần phải có nghị lực và niềm
tin. Đó chính là thông điệp mà nhà văn đã gửi
gắm cho bạn đọc yêu quý của mình.
Bên cạnh Lan, còn có phó chủ tịch xã Chu
Văn Tòng - người đại diện cho pháp luật, lên
tiếng chống lại sự mê tín dị đoan của người
dân bản Đô liang. Ông Tòng được coi là cán
cân công lí “đem cái văn minh của người Tày
vùng thấp lên vùng cao của người Dao”. Ông
đã giải thích rất tỉ mỉ cho bà Đô – chị gái
mình khi có những suy nghĩ mê tín: “Chị ơi,
ngày nào cũng tốt cả. Hôm nay đi nương lấy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Cao Thị Hảo và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 39 - 45
41
được nhiều măng mộc nhĩ như chị và cháu, là
ngày tốt. Hôm ấy định làm gì mà làm xong, là
ngày tốt. Mưa có việc ngày mưa. Nắng có
việc ngày nắng. Ngày mưa ngày nắng đều tốt
cả”. Những lí lẽ biện luận của ông thể hiện sự
nhận thức khách quan, không lệ thuộc vào
những tư tưởng mê tín dị đoan. Khi bà Đô
dựa trên sự mê tín mà nói sai về con dâu mình
“Nó là con quỷ đi lăng nhăng nên đẻ con
thành đàn như chó con. Chó bố là mực đẻ ra
con mực, chó bố lông nâu đẻ ra chó con
nâu”. Ông Tòng giải thích một cách có khoa
học: “Đôi lông mày xếch giống Piao, hai tai
gẫy vặn như tai Piao, được bú ít hơn, nên
cháu Dung mặt nó choắt hơn”. Với vị trí là
phó chủ tịch xã, ông Tòng đứng ra xét xử đơn
kiện của chị gái mình kiện con dâu giết
chồng, giết con, ai cũng nghĩ ông sẽ bênh vực
cho bà Đô - nhưng không, ông làm việc rất
công tâm, công bằng. Ông đã dùng những lí
lẽ pháp lí để chứng minh cho mọi người dân
thấy những việc làm mê tín, dị đoan là sai
trái. Kết luận cuối cùng của ông về vụ xét xử,
vừa là sự cảnh tỉnh nhân dân nhưng cũng
chính là tiếng nói bảo vệ khoa học, bảo vệ
ánh sáng văn minh: “Qua xét xử, có cả lời
khai bà then bản Buống, chúng ta khẳng định
rằng không có ma quỷ, ai nói rằng có là mê
tín dị đoan, ai vu người khác là ma quỷ biến
hóa thì có tội lỗi”.
Qua việc miêu tả hệ thống nhân vật đấu tranh
chống những tập tục lạc hậu, cổ hủ ở miền
núi, ta cũng nhận thấy: ngòi bút của nhà văn
rất chú trọng đến việc miêu tả hành động
nhân vật, còn đời sống tâm lý nhân vật với
những trăn trở nội tâm ít được khắc hoạ rõ
nét. Chính vì vậy, việc xây dựng tính cách
nhân vật chưa đạt tới mức điển hình. Cách
viết ấy có lần nhà văn bộc bạch: “Tôi viết văn
làm thơ bắt đầu xuất phát từ tình cảm chân
thành của mình đối với hiện thực cuộc sống,
từ đó thể hiện tư tưởng và chủ đề và bắt tay
viết, chứ không quan tâm một cách có dụng ý
(đôi lúc lạm dụng nữa) tìm cái cầu kì, tìm
cách thể hiện cầu kì” [5]. Nhưng nổi bật hơn
cả là sự dụng công tìm hiểu và không ngừng
sáng tạo, hòa mình trong cách cảm, cách nghĩ
của người miền núi để hiểu cuộc sống và tâm
tư tình cảm của họ một cách sâu sắc của nhà
văn. Thấm qua từng trang viết, Triều Ân
muốn bạn đọc hiểu rằng: con người dù gặp
khó khăn, dù tuyệt vọng đến đâu cũng có khả
năng vượt qua. Và cuộc sống chỉ có thể phát
triển và tốt đẹp hơn nhờ có tri thức, có hiểu
biết khoa học. Những tư tưởng lỗi thời, lạc
hậu sẽ bị thủ tiêu, ánh sáng văn minh sẽ được
tỏa sáng trên khắp bản làng đồng bào dân tộc
miền núi.
Những con người bị tha hóa đạo đức
trong vòng xoáy của cơ chế thị trường
Xã hội hiện đại phát triển, kéo theo đó là sự
xuất hiện của cơ chế thị trường trong thời kì
“mở cửa”. Lối sống truyền thống của người
dân miền núi ít nhiều đã đổi thay theo vòng
xoáy của xã hội xô bồ nhộn nhịp này. Con
người sống khôn ngoan hơn, tráo trở hơn,
thậm chí đánh đổi cả nhân cách, tình ruột thịt
để mang lại lợi ích chấyc nhân mình. Xã hội
đồng tiền đã chi phối mạnh mẽ tới cách suy
nghĩ, cách đối xử giữa con người với nhau.
Trong các tiểu thuyết của Triều Ân, nhà văn
đã phản ánh một cách chân thực những con
người đó. Tiêu biểu là các nhân vật: Tháo
(Nơi ấy biên thùy); Lìn, Hồng Ngọc, Dương
Kim... (Dặm ngàn rong ruổi).
Nhân vật Tháo trong Nơi ấy biên thùy là một
người có lối sống rất tàn nhẫn. Từ bé, Tháo
được sống trong một gia đình giàu có nhất
vùng, không ai không biết tiếng: “Chuồng
đầy trâu đàn. Ruộng vàng thóc lúa. Cá nhảy
vui mặt ao”. Sống trong một gia đình uy thế
nên đi đâu Tháo cũng kiêu căng, tự mãn:“Ta
là anh Tháo ở Nà Cải làng bên đây mà. Ai lại
không biết tiếng tăm của ta”. Hắn dùng mọi
thủ đoạn cướp Niêm từ tay chồng sắp cưới
của cô, nhưng lại cưới Niêm về làm dâu “như
ra chợ mua một con vật về để nuôi”. Người
đọc không khỏi bàng hoàng khi chứng kiến
cảnh tượng dã man: “Tháo đánh Niêm và
ngồi lên bụng Niêm như cưỡi ngựa. Niêm đẻ
non. Cái thai là một cục thâm tím”. Ngòi bút
của nhà văn dường như trở nên “lạnh” hơn
khi miêu tả những hành động tàn nhẫn của
hắn. Tháo đi đào vàng và có quan hệ lăng
nhăng với Tình, nghe người ta nói có thể bị
nhiễm bệnh lậu, giang mai hắn định trút hậu
quả xấu xa của hắn cho người vợ đáng
thương:“Tháo phải về nhốt Niêm lại một ngày
để trút hết vi trùng lậu hay giang mai gì đó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Cao Thị Hảo và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 39 - 45
42
sang cho Niêm, may ra Tháo thoát khỏi bệnh
hiểm nghèo này”. Hắn sẵn sàng đối xử độc ác
với người vợ hiền lành, bắt vợ phải gánh chịu
tội lỗi cho mình. Là nạn nhân của cuộc hôn
nhân không tình yêu, nên khi thích thì hắn
mang Niêm về, không thích hắn dễ dàng
quăng Niêm đi như một thứ đồ vật cũ, nát.
Với Tháo, giờ đây Niêm chỉ là “cái xác mục
ruỗng, là con ốc ta ăn chỉ còn cái vỏ” nên
hắn cho Triển - người yêu cũ của Niêm -
chuộc cô về với khoản tiền rất lớn. Trong con
người này luôn ẩn dấu một lòng tham vô đáy
và sự ích kỉ, tàn nhẫn đến khôn cùng. Cái chết
vì tìm vàng “phá hang ngang vách núi” là
bản án cao nhất cho sự độc ác, phi nhân tính
của Tháo. Cuộc đời hắn luôn xoay quanh chữ
“tiền”. Lúc sống tác oai, tác quái nhờ có thế
lực của đồng tiền, lúc chết cũng vì sự tham
lam vàng bạc.
Nhân vật Lìn trong tiểu thuyết Dặm ngàn
rong ruổi là một cô gái mang trong mình hai
dòng máu Tày – Dao. Lìn được mọi người
trong bản liệt vào hàng những người đáo để,
lăng loàn. Ngoại hình của cô phần nào đã toát
lên tính cách:“Mặt trơ trán bóng. Mắt một mí
sưng húp ẩn dưới hai hàng lông mày mờ mờ
gần như không có”. Cô ta tỏ ra rất sành sỏi,
trải đời khi tâm sự với Phón – em gái cùng
cha khác mẹ:“ Ở đời, muốn được thì phải có
mánh khóe, có mưu lược Phón ạ. Khi cần làm
hại uy tín người khác để có lợi cho mình ta
vẫn thẳng tay”. Lấy chồng, chồng chết, Lìn
về sống cùng gia đình nhưng luôn ghen tị với
hạnh phúc của em gái mình. Mọi cử chỉ của
Phón và Lương – người yêu của Phón đều bị
Lìn kiểm soát. Những lúc như thế diện mạo
của Lìn hiện ra dưới ngòi bút của nhà văn
giống “con quỉ hoặc mụ yêu tinh trong trí
tưởng tượng của loài người”. Cô ta trơ tráo
nói thẳng với em gái: “Ở đời phải biết trở
mặt.....Nói rõ cho mày biết: Tao ghen với
mày”. Cô ta càng ngày càng trở thành con
người ích kỉ, chỉ thích thoả mãn bản thân.
Không chỉ ghen tuông với tình yêu mà em gái
đang có, Lìn còn đang tâm chia rẽ tình cảm
vợ chồng Phón, tìm mọi cách giăng bẫy để
đưa Lương vào tròng rồi chiếm chồng của em
gái một cách độc ác. Từ những lời nói bịa đặt
trong đêm hội xuân, rồi đến hành động đốt
thư của Phón gửi về khi cô đi học lớp đào tạo
kế toán hợp tác xã ở trên tỉnh gây cho vợ
chồng Phón mất niềm tin, ngờ vực lẫn nhau
như: Lìn nói điều này Lương chớ phiền lòng:
một phiên chợ nọ, đi chợ, Lìn được nghe nói:
Phón đi học gặp người yêu cũ là Thụ, hai
người đã chắp nối lại mối tình xưa” . Hay
những lời thủ thỉ với Phón khi đi đón em gái
kết thúc khóa học: “ Em thấy không bao
nhiêu thư em gửi về, chị biết cả, nó có đọc
đâu? Đốt hết. Khi lòng nó đã đổi thay, khi
hàng ngày nó lêu lổng ít có mặt ở Đông
Có...”. Phón nghe xong lên cơn đau tim, ngất
xỉu, ngã xuống “rù rằng”. Lìn không cần biết
số phận của em gái ra sao, quơ hành lí giấy tờ
của Phón đạp xe phóng như điên, nung nấu
một dã tâm:“Nếu Phón chết thật, coi như
mình không biết...”. Lìn là một con người thật
xảo trá, chỉ nghĩ lợi cho bản thân mình mà
quên đi tình nghĩa máu mủ ruột già. Dường
như bản chất con người cá nhân, ích kỷ, tàn
ác đã ăn sâu vào máu cô. Đạo đức con người
Lìn ngày càng bị trượt dốc, một cái dốc thăm
thẳm, vô hình chứa đầy lọc lừa và tội ác. Lìn
đóng kịch tạo ra cảnh Phón đã chết, hồn Phón
thành ma gà nhập vào Lìn, làm cho cả nhà ai
cũng tin. Về sau, mọi người không ai dám
nghĩ tới Phón nữa. Qua các hình tượng nhân
vật của nhà văn, ta nhận thấy: tác giả không
chỉ có tài quan sát, có vốn văn hóa dân gian
phong phú mà ông còn rất am hiểu tâm lí con
người vùng cao. Mọi hành động, việc làm của
người dân hay tập tục, quan niệm của họ được
chuyển hóa vào nhân vật trong tác phẩm rất
hợp tình, hợp lí và thuận theo cách nghĩ, nếp
sống của người dân miền sơn cước.
Con người xảo trá ấy thấy thỏa mãn vì “cái
tròng do Lìn giương lên đã bắt được đối
tượng theo ý muốn”: Lương đã trở thành
chồng cô. Nhưng sự trở về của Phón – cô em
gái tội nghiệp của cô được những người tốt
bụng cứu sống đã khiến Lìn phải trốn chạy,
ra đi. Lìn bỏ nhà đi tìm cha, bỏ lại nơi bản
làng quá khứ tội lỗi của mình. Bước vào
cuộc sống cùng cha đẻ nơi thị xã sầm uất,
nhộn nhịp, sự sa đọa về mặt nhân cách đạo
đức của cô càng trầm trọng hơn trước. Kết
hôn cùng bác sĩ Phương nhưng cô không an
phận với cuộc sống êm đẹp của mình. Cô coi
thường chồng, đối xử với chồng và mọi
người xung quanh thô lỗ, ngạo mạn hơn
trước. Cô phủ nhận công lao dạy dỗ của thầy
giáo Long là cha đẻ:“Ai dạy dỗ tôi? Không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Cao Thị Hảo và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 39 - 45
43
cần ơn ai cả. Nay hay xưa đều phải lo tính
toán làm giàu...”. Cô đuổi chồng ra khỏi nhà
chỉ vì anh Phương là một người ham sách vở,
ham nghiên cứu khoa học, không có nhiều
tiền bạc. Lìn sống trâng tráo hơn, thủ đoạn và
liều lĩnh hơn. Cô ta sẵn sàng hiến thân cho
anh thuế vụ để các chuyến hàng buôn lậu
được chót lọt; biết cách ăn gian, nói dối “ trí
trá nói điêu. Hàng mua mười giao mười lăm.
Người mua mặc cả giao mười ba, Lìn nói đã
mua mười ba mới dám xin hai giá”. Lìn ly
hôn với bác sĩ Phương để kết hôn với Hồng
Ngọc. Bởi với cô “có tiền là có tất cả”. Nhưng
cô đã bị Hồng Ngọc lừa và lợi dụng. Ngày thì
Ngọc bắt làm việc vất vả, đêm về thì bị hắn
đánh đấm túi bụi, chẳng mấy mà Lìn ốm yếu,
xanh xao, phải lê chân về nhà họ Lý. Quá thất
vọng và đau đớn, Lìn phát cuồng đi lang
thang và chết trong thê thảm, kết thúc cuộc
sống quay quắt chạy theo tiền bạc với mưu
mô và thủ đoạn của mình. Có lẽ đó là cái giá
mà cuộc đời Lìn phải trả bằng cả tính mạng.
Đồng tiền mang lại cho cô sung sướng nhất
thời nhưng không thể mua được sự thanh thản
trong tâm hồn cô. Phẩm chất, nhân cách của
nhân vật dưới sự tác động của cơ chế thị
trường đã dần thoái hoá, biến chất, bị bào
mòn và cuối cùng đi đến hủy diệt.
Trong tuyến nhân vật phản diện của tiểu
thuyết Dặm ngàn rong ruổi, không chỉ có
Lìn tráo trở, lọc lừa mà còn xuất hiện Hồng
Ngọc. Mới ngoài 20 tuổi nhưng anh ta đã biết
sống tính toán, mưu lợi cá nhân bằng những
món hàng phạm pháp và lợi dụng sự cả tin
của các cô gái trẻ. Với con người này, tình
yêu đồng nghĩa với sự lợi dụng. Ngọc yêu
Lan và làm cho cô có thai nhưng nhà Lan
không có thế lực gì nên “Khi đi buôn xảy ra
điều gì bất trắc, trăm lời kêu của nó cũng
không thấu trời”. Vì Lìn là con “thầy giáo cũ
của các ông lãnh đạo ngành ở hàng tỉnh, là
thầy cũ của nhiều ông thuế vụ”, nên Ngọc tìm
cách khen nịnh kéo Lìn về phía mình để phục
vụ cho những cuộc làm ăn phi pháp. Tình yêu
đã được hắn đem ra so bì, cân đong, tính toán
thiệt hơn như một món hàng ! Con người
Ngọc tàn nhẫn và nhơ nhớp: “Đời Ngọc mới
hăm ba tuổi đầu mà đã cưới hoặc không cưới,
nghĩa là qua tay Ngọc, năm sáu cô gái. Cưới
đấy mà không làm được việc cho đi. Hoặc sỉ
nhục không chịu được, người con gái tự đông
bỏ nhà mà đi. Hoặc đánh gần chết, vợ phải
trốn chạy lấy thân”. Hắn còn thâm hiểm và
xảo quệt vô cùng. Trước mặt thì khen Lìn hết
lời nhưng thực chất trong lòng hắn đã tính sẵn
các món lợi cho mình. Đối với anh ta, Lìn chỉ
là một kẻ làm thuê rất đáng “đồng tiền bát
gạo”: “Nó đáng ăn hạt cơm nhà này, đáng
đeo nhẫn đầy ngón tay, đeo hột xoàn để khoe
cái cổ tròn lẳn trắng ngần nở nang da thịt vì
được ăn uống tốt.... Nó phải là người nhà thì
mới tận tâm với việc buôn bán, mới không ăn
cắp bớt tiền hàng”. Chính vì thế, Ngọc dã
tâm tác động Lìn bỏ chồng lấy hắn. Một mũi
tên trúng hai đích, vừa được vợ mà cũng có
người giúp việc đắc lực không mất một đồng
nào, lời lãi tăng cao. Điều đó cho thấy, Hồng
Ngọc không chỉ thâm hiểm mà còn rất khôn
ngoan, thủ đoạn, mang bản chất con buôn.
Suy nghĩ “có tiền là có tất cả” đã biến Ngọc
cũng như những người hám lợi khác mù
quáng một cách vô lương tâm.
Nhà văn Vi Hồng miêu tả những nhân vật
phản diện, xấu xa luôn gắn với tư duy dân
gian. Từ cách đặt tên nhân vật như: Ngô
Khang Sa, Mã Thả An, Lăng Thị Thu
Lả...đến cách đặt tên địa danh, bản mường:
Nặm Đút, Nước Hang Rơi, Nặm Tốc Rù...đều
đậm chất dân gian. Trái lại, Triều Ân dường
như lại thoát li khỏi tư duy dân gian, cách kể
và tả có phần hiện đại hơn. Điều đó thể hiện
ngay từ tên tác phẩm như: Dặm ngàn rong
ruổi, Nơi ấy biên thùy, Nắng vàng bản Dao;
tên xã: Bắc Thôn, Quang Minh, Hòa An,
Trùng Khánh...; cho tới tên người khá hiện
đại: Hồng Ngọc, Dương Kim... Vì vậy, tác
phẩm của ông đậm chất hiện thực hơn – một
hiện thực sống động của cuộc sống con người
miền núi những năm 90 của thế kỉ XX.
Nhìn chung, thông qua nhân vật Tháo, Lìn,
Hồng Ngọc... ta thấy được sự xuống cấp về
lối sống, đạo đức của một bộ phận người dân
ở nơi núi rừng hẻo lánh. Sở dĩ, họ trở thành
những con người như vậy là do bị tác động
bởi cơ chế thị trường, bởi thế lực đồng tiền.
Những việc làm vô đạo đức của họ cuối cùng
cũng phải trả giá. Đồng thời, qua các nhân vật
này nhà văn cũng muốn cảnh tỉnh những
người có lối sống, việc làm không đúng đắn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Cao Thị Hảo và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 39 - 45
44
trong xã hội hiện đại: Giá trị vật chất chỉ tồn
tại vững bền khi đó là những thành quả do mồ
hôi công sức mình làm ra.
Những con người hướng thiện, giàu lòng
nhân ái
Tình yêu thương giữa người với người là một
tình cảm thiêng liêng cao đẹp. Với con người
miền núi, tình cảm ấy được thể hiện rất bình dị,
mộc mạc trong cuộc sống hàng ngày của họ.
Nhân vật Nông Bạch Kim trong tiểu thuyết
Nắng vàng bản Dao là hiệu trưởng trường
phổ thông cơ sở xã Quang Minh - “trung tâm
khoa học” duy nhất của vùng quê miền núi xa
xôi này. Là một hiệu trưởng tâm huyết, trách
nhiệm anh mong muốn ánh sáng văn hóa soi
rọi đến từng nếp sống sinh hoạt, từng nhận
thức của người dân. Anh thực hiện chủ trương
chính sách của Đảng ủy xã: “Nhà nhà đều
xây dựng ba chuồng: chuồng trâu bò, chuồng
lợn, chuồng tiêu”, và chỉ đạo cho các cán bộ
giáo viên thực hiện. Cùng là dân tộc Tày, anh
rất hiểu và thông cảm đối với hoàn cảnh của
Lan, anh đối xử, quan tâm tới cô như một
người em gái. Khi đồng nghiệp gặp nhiều bất
hạnh: chồng chết, con chết.. anh cũng băn
khoăn, suy nghĩ và thương cảm. Rõ ràng,
Bạch Kim không chỉ là một thầy giáo mẫu
mực mà còn là một người có tấm lòng nhân ái
bao dung, coi nỗi đau của người khác như nỗi
đau của chính mình.
Thuần trong tiểu thuyết Dặm ngàn rong ruổi
lại là một thầy thuốc hết lòng cứu chữa bệnh
cho mọi người. Ở nhân vật này, bất cứ ai tiếp
xúc đều cảm nhận ông là con người có “tinh
thần tận tụy vì bệnh nhân”, nhiệt tình, không
ngại gian khó. Ông đi khắp nơi tìm các vị
thuốc chữa bệnh, đỉnh núi cao vời vợi tưởng
chừng như chưa bao giờ có dấu chân người
ông cũng leo tới để “hái ít lá hồng sí sẻn làm
thuốc bổ”. Đối với người thầy thuốc, quan
trọng hơn cả là tấm lòng và lương tâm, trách
nhiệm. Chính vì vậy, ông Thuần luôn luôn
tâm huyết với nghề nghiệp, đối với ai, hoàn
cảnh như thế nào ông cũng tận tình chữa bệnh
tới khi khỏi. Những bệnh nhân đó là: bà Phúc
nhân hậu, cô Lìn có tiếng khinh người, “cướp
chồng” của em gái, chị Bướm, hay cả những
người đau ốm qua đường mà ông không quen.
Không ngại đường xa, Thuần tới chữa bệnh
cho Lưu – cô gái bản Bua xinh đẹp nhưng bị
bệnh hắc lào toàn thân. Vì bệnh tật nên người
yêu đã bỏ cô đi lấy vợ, đến bây giờ ngoài ba
mươi mà cô vẫn chưa có chồng. Lương y
Thuần tìm mọi cách chữa bệnh cho cô: đắp
mủ “giang sa”, thậm chí “cưỡi ngựa về thung
lũng gặp y sĩ xã” xin nhau thai làm thuốc.
Cuối cùng, hạnh phúc mỉm cười với hai
người, Lưu đã khỏi bệnh và lương y được kết
duyên với chính bệnh nhân của mình.
Cùng với lương y Thuần, bác sĩ Phương
cũng là một tấm gương say mê nghề nghiệp,
nghiên cứu khoa học để tìm cách chữa bệnh
cho mọi người. Nếu như Thuần là thầy
thuốc Đông y “rong ruổi” chữa bệnh khắp
các vùng núi cao, thì Phương miệt mài với
công trình khoa học, chữa bệnh cho mọi
người bằng thuốc Tây y. Anh lên tận ngọn
suối trên bản Luộc lấy mẫu nước để đem về
phân tích, tìm ra căn nguyên bệnh bướu cổ
cho người dân nơi đây. Đá dưới suối trơn,
anh trượt chân ngã gãy tay nhưng chai nước
để phân tích thì vẫn còn nguyên “Thấy chai
nước múc từ ngọn suối còn nguyên vẹn,
Phương nở nụ cười. Nhưng tiếp theo anh lại
nhăn nhó vì cơn đau”. Có thể nói, Thuần và
Phương là những tấm gương mẫu mực
“lương y như từ mẫu”, có tình yêu thương
con người, lòng nhân đạo sâu sắc, sẵn sàng
hi sinh vì nghề nghiệp, vì bệnh nhân.
Khác với những nhân vật trí thức như thầy giáo
Kim, bác sĩ Phương, Hạng Thị Phón lại là cô
gái Tày thuộc tầng lớp bình dân, nhưng là nhân
vật lí tưởng mang những tư tưởng nhân văn,
triết lí “ở hiền gặp lành”. Cô là em gái cùng mẹ
khác cha với Lìn, nhưng cô khác hẳn người chị
gái của mình, từ hình dáng:“người tầm thước,
đậm đà như cha, nét mày như hai lá trúc xuôi
về cuối mắt như mẹ; trông người phúc hậu”.
Phón được nhiều người quí mến, bạn bè khâm
phục. Phón yêu Lương, một tình yêu chân thành
giản dị nhưng lúc nào cô cũng nghĩ tới mọi
người trong gia đình. Khi Lương ngỏ lời xây
dựng gia đình, Phón chân thành tâm sự những
nỗi lòng băn khoăn thầm kín của mình: “Nếu
lấy nhau, anh phải thông cảm cho hoàn cảnh
của em, chị gái em góa chồng, đàn em còn nhỏ,
anh sẽ là trụ cột, phải làm “rể nạp tế” (gửi rể
có thời hạn) khi các em khôn lớn thì hai chúng
mình mới được đi ở riêng hoặc đi ở nơi khác”.
Cô luôn nghĩ cho người khác một cách thật lòng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Cao Thị Hảo và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 39 - 45
45
mà không hề toan tính cho mình. Phón giống
như cô Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám”
luôn bị người chị em cùng dòng máu ghen ghét,
hãm hại. Những lá thư gửi về cho chồng đều bị
Lìn bóc ra đọc và đốt hết, nói những lời bịa đặt
khiến tình cảm vợ chồng Phón rạn nứt. Rồi bị
chị gái tranh chồng, bỏ rơi khi gặp nạn, đến khi
gặp lại cô cũng không hề than trách. Nhưng vì
ăn ở hiền lành nên cô đã gặp may mắn, được
sum họp cùng gia đình thân yêu của mình.
Có thể nói, những nhân vật hướng thiện, có
tấm lòng nhân ái xuất hiện khá nhiều trong
tiểu thuyết của Triều Ân. Ngoài những nhân
vật điển hình như: Bạch Kim, Thuần,
Phương, Phón còn có nhiều nhân vật tốt bụng
khác như: cô giáo Nải nhiệt tình, tận tụy giúp
đỡ đồng nghiệp; bà Ngọc Thị Lơ đức hạnh,
mẹ con bà Phúc nhân hậu... Tất cả những con
người này đã góp phần tạo nên một thế giới
nhân vật lành mạnh, hướng thiện, phản ánh
được những phẩm chất tốt đẹp của con người,
cũng như giá trị nhân văn cao cả trong đời
của sống cộng đồng các dân tộc thiểu số luôn
được bảo tồn, duy dưỡng và phát triển. Phải
chăng đây cũng là thông điệp mà nhà văn
Triều Ân muốn gửi gắm đến bạn đọc ?
Văn xuôi các dân tộc thiểu số ngày càng phát
triển và được khẳng định trong đời sống văn
học Việt Nam. Các tiểu thuyết của Triều Ân
ra đời vào thời kì văn xuôi dân tộc thiểu số nở
rộ mạnh mẽ, những năm 80 – 90 của thế kỉ
XX. Đây là thời kì chuyển từ cơ chế quan liêu
bao cấp sang cơ chế thị trường. Cơ cấu kinh
tế miền núi có nhiều biến động, quan hệ đạo
đức giữa người với người phần nào bị xuống
cấp. Thông qua hệ thống nhân vật đa dạng và
phong phú với nhiều tầng lớp người thuộc
nhiều ngành nghề khác nhau nhà văn muốn ca
ngợi phẩm chất tốt đẹp của con người miền
núi trong thời đại mới. Cái mới bao giờ cũng
chiến thắng cái cũ, cái tốt bao giờ cũng được
tôn vinh và cái ác luôn bị lên án, triệt tiêu.
Đồng thời, nhà văn cũng bác bỏ những hủ tục,
lên án những tàn dư của xã hội phong kiến
còn sót lại và phản ánh một hiện trạng khá
phổ biến đó là sự lầm lạc về lối sống, suy
nghĩ, tính cách... của một bộ phận người dân
miền núi trong thời buổi cơ chế thị trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1], [2] Bích Thu, bài: “Bản sắc dân tộc trong tiểu
thuyết của Triều Ân”, in trong Triều Ân tác giả tác
phẩm, Hồng Thanh (tuyển chọn), Nxb Văn hóa
dân tộc, 2009, tr.55, 57.
[3]. Nguyễn Văn Long, bài: “Triều Ân – cây bút
văn xuôi đặc sắc dân tộc Tày”, in trong Triều Ân
tác giả tác phẩm, Hồng Thanh (tuyển chọn), Nxb
Văn hóa dân tộc, 2009, tr.34.
[4]. Triều Ân, Tuyển tập thơ văn Triều Ân, Nxb
Văn học, Hà Nội (tất cả dẫn chứng dẫn trong bài
đều tham khảo từ tài liệu này),(2006).
[5]. Lâm Tiến, Văn học và miền núi, Nxb Văn hóa
dân tộc, 2002.
SUMMARY
THE SYMBOL OF MOUNTAINOUS PEOPLE IN TRIEU AN’S NOVELS
Cao Thi Hao*, Duong Trung Tin
College of Education - TNU
Through examining three novels of Trieu An including “Nang vang ban Dao” (1992), “Nơi ay
bien thuy” (1994), “Dam ngan rong ruoi” (2000) , the writer has pointed out the iconic characters
as typical: mountain people through walls feudal backwardness; the alienation people are ethical
whirlpool of market mechanisms and the rich man good direction humanity. Through vivid
imagery character, unique and breath life of ethnic minorities in the North, the reader can see how
people discover, view life as well as spiritual writers .
Key words: Novel of Trieu An, Ethnic minority literature.
*
Email: caohaokv@yahoo.com
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_33307_37131_318201216544912012_split_7_288_2052388.pdf