Khác với các sáng tác giai đoạn trước, tiểu thuyết viết về Bác Hồ cho
thiếu nhi hơn ba thập kỉ qua đã tiếp cận hình tượng nhân vật trong sự đa
dạng, phong phú về tâm lí, tính cách. Vượt lên những khuôn mẫu, lối mòn
công thức, nhà văn nhìn nhận và khai thác mọi vấn đề trong chiều sâu mới,
chân thực, toàn diện, khách quan hơn. Không chỉ hướng tới những vấn đề
có ý nghĩa lớn lao như lịch sử, cộng đồng, người viết còn quan tâm nhiều
hơn đến từng biểu hiện chân thực, sinh động của thế giới nội tâm, chú trọng
cả những cái bình thường lẫn phi thường trong nhân cách của Bác thuở
thiếu thời. Chính quan niệm con người đời thường - thế tục đã góp phần đắc
lực để đổi mới thi pháp, mang lại chất văn xuôi - một phẩm chất tiêu biểu
của truyện đương đại, tạo ra sự cộng hưởng giữa chức năng giáo dục và
chức năng thẩm mĩ của văn học dành cho trẻ em hôm nay. Sức hấp dẫn của
các tiểu thuyết này không chỉ là do bút pháp phác họa hình tượng theo lối
tả thực cổ điển hay dày công tạo dựng một cốt truyện chỉn chu, giàu kịch
tính mà còn là vì chúng đã lí giải một cách thuyết phục mối quan hệ giữa
cội nguồn truyền thống với sự hình thành bản lĩnh, nhân cách, vẻ đẹp tâm
hồn Bác ngay từ thời thơ trẻ; nhờ thế đã tạo nên những rung động sâu xa,
bền vững nơi bạn đọc xuất phát từ những nhận thức, tình cảm và trách
nhiệm đúng đắn, tích cực đối với cha ông, Tổ quốc mình./.
12 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 371 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hình tượng Bác Hồ trong một số tiểu thuyết tiêu biểu cho thiếu nhi sau năm 1975, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HÌNH TƯỢNG BÁC HỒ TRONG MỘT SỐ
TIỂU THUYẾT TIÊU BIỂU CHO THIẾU NHI
SAU NĂM 1975
BÙI THANH TRUYỀN*
Cuộc đời Bác là nguồn cảm hứng bất tận của nhiều nghệ sĩ. Trong Lời
tựa cho lần xuất bản thứ hai của cuốn tiểu thuyết Búp sen xanh1, cố Thủ
tướng Phạm Văn Đồng nhận định: “Hồ Chủ tịch sống mãi trong những
tư tưởng và tình cảm lớn, trong toàn bộ hoạt động cách mạng của nhân
dân Việt Nam ta, của mọi người chúng ta. Đồng thời Hồ Chủ tịch cũng
sống mãi trong những tác phẩm văn học và nghệ thuật có giá trị diễn tả
một cuộc đời đã trở thành lịch sử, những trang sử đẹp nhất và vẻ vang
nhất của dân tộc Việt Nam ta”. Xét từ góc độ văn học, mỗi thời đoạn, do
những thay đổi khách quan của đời sống xã hội, sự chuyển biến chủ quan
trong nhận thức, quan niệm của người viết, đề tài anh hùng, lãnh tụ nói
chung, Bác Hồ nói riêng, được nhìn nhận, tái hiện ở những phương diện
không hoàn toàn giống nhau hòng đem lại cho người đọc một cái nhìn
toàn diện và chân xác về vĩ nhân dân tộc. Sự gặp gỡ giữa đặc tính văn
chương và lịch sử, truyền thống và hiện đại trong một số tiểu thuyết sau
năm 1975 viết về tuổi trẻ của Bác trên một số phương diện nghệ thuật cơ
bản mà chúng tôi đề cập dưới đây đã phần nào khẳng định sự chuyển
biến về mặt thi pháp của văn học thiếu nhi Việt Nam đương đại.
1. Sự hòa quyện giữa bình thường và phi thường, gần gũi và cao khiết
So với giai đoạn trước, con người trong truyện và thơ cho trẻ em sau
năm 1975 được nhìn nhận một cách toàn diện, mới mẻ hơn. Ngoài những
phẩm chất cao cả, siêu việt, người viết còn tô đậm chất đời thường, phần
nhân tính phổ quát ở họ. Không còn xa lạ, chói chang trong vầng hào
quang thần tượng mà gần gũi như kiểu “một người lạ đã quen biết”, nhờ
thế, nhân vật dễ được sự đón nhận, đồng cảm và yêu thích của trẻ nhiều
hơn. Hai tiểu thuyết Búp sen xanh (BSX) và Bông sen vàng (BSV)2 của
Sơn Tùng là một thể nghiệm thành công cho khuynh hướng tích cực,
hiện đại này.
* TS. Trường Đại học Sư phạm Huế.
1 Sơn Tùng (2005), Búp sen xanh (in lần thứ 14), Nxb. Kim Đồng, Hà Nội.
2 Sơn Tùng (2007), Bông sen vàng, Nxb. Thông Tấn, Hà Nội.
Hình tượng Bác Hồ trong 107
Xuất phát từ quan niệm “viết văn tức là đi chép việc, cống hiến cho
bạn đọc, nên viết về Bác thì phải quan tâm sưu tầm những câu chuyện về
Bác”, cách xây dựng hình tượng nhân vật trung tâm của nhà văn trong
hai tác phẩm đã được Nguyên Ngọc chỉ ra: “Sơn Tùng không viết những
điều vĩ đại, phi thường của Hồ Chí Minh, mà viết những góc riêng tư,
nhân văn của Cụ”3. Với quan niệm, cách làm ấy, tác giả đã nhận thấy sự
thống nhất giữa hai tính cách thoạt nhìn ngỡ như là đối lập trong nhân
vật. Trước hết là cách khắc họa hình tượng theo lối truyền thống - tái
hiện những nét đặc trưng về ngoại hình, nội tâm có tính chất dự báo một
con người, một nhân cách lớn của tương lai như: bẩm sinh thông minh,
sáng láng: “Có cái bụng sáng hơn đèn”, “mau biết đến cả việc mà người
lớn lắm khi chưa kịp nghĩ tới”, “có thiên tư đặc biệt từ năm lên ba”; giỏi
lập luận: “Nói cách chi nghe đều xuôi cả”; có thiên tư “lãnh noãn tự tri”
(ấm lạnh tự biết – tức không chờ phải nói mà lòng tự biết nói); có triển
vọng “ngôn hành tương cố” (nói đi đôi với làm); ham học hỏi, hiểu biết:
“Đã hỏi thì hỏi đến nơi”, “có thể mặc áo vá, để đầu trần, đi chân đất, ăn
cháo, ăn rau, nhưng cháu không thể nhịn học, nhịn xem sách, nhịn nghe
những chuyện bổ ích”; có năng khiếu hội họa, văn học: “Biết nhận xét,
biết thưởng thức nghệ thuật, có năng khiếu nghệ thuật thật sự”, “một
thi nhân chân cảm”; lắm tài: “Luyện được cả giống mèo cá để trước
miệng mà không kêu, không sấn vô cắp chạy”; bạo dạn hơn cả người
lớn: “Một mình đi đêm nỏ sợ ma”; sớm có óc “kiến kim chi cổ” v.v
Còn ngoại hình thì như một tiên đồng giáng thế: “Cậu ấy người thanh
mảnh, mười ngón tay thon dài như mười búp măng, da trắng như trứng
gà bóc, mặt vuông tượng, hai con mắt sáng như hai ông sao, lông mày
dài hơn mắt, đúng là mày ngài mắt phượng, trán trượng phu. Môi lại đỏ
chon chót như nhuộm phẩm điều, mũi cao thon thon, nhưng không nhọn,
không quắm như mũi tây đoan”. Quả là “một đứa bé chưa đến tuổi lên
mười mà có một phong thái, một khí phách lớn”. Điều đó khiến cho bao
người lớn phải bất ngờ, nghi hoặc, bối rối xen lẫn yêu thương, thán phục
và tràn đầy hi vọng: “Đây là Nguyễn Sinh Côn hay là Hoài Văn Hầu
Trần Quốc Toản bóp nát quả cam, tay cầm lá cờ thêu sáu chữ: “Phá
cường địch báo Hoàng ân” từ miền lịch sử Bình Than hiện về chất vấn
3 Nhà văn Sơn Tùng (2009), “Nếu không làm được phúc thì đừng gieo họa”, Văn nghệ, Số
12 (21/ 3), trang 4.
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 3/2011 108
các ông!”. Cậu bé ấy sẽ là "người gánh trọng trách của thế kỉ sau”; “là
thế hệ được trao chìa khóa vàng mở cửa thế kỉ XX ở đất nước này”.
Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó, tác giả BSX, BSV sẽ không tạo được chỗ
đứng riêng bởi tác phẩm chỉ là sự nối dài không mấy cách tân so với
những người đi trước. Ấn tượng sâu đậm mà Nguyễn Sinh Côn để lại
trong độc giả là những suy nghĩ, hành động, tình cảm rất đỗi con người.
Cũng hiếu động, “nghịch trổ trời” như bao đứa trẻ cùng trang lứa: “Trèo
cau lấy bẹ để làm thuyền”, “trèo cây thị hái quả ương”, “leo cả lên hồi
nhà tìm chim sẻ đã sẩy chân giẫm lên bệ bát cổ của bà, làm vỡ một lúc
chục cấy (cái) đĩa bạt trúc hóa rồng”, rủ bạn trốn học đi câu cá, hay rủ
đám trẻ trong xóm đi trêu chó để chúng sủa om sòm, bị láng giềng đến
nhà la mắng cả bà ngoại v.v (BSX). Người đọc sẽ thú vị và cảm thấy
gần gũi khi gặp ở đây một cậu bé Côn hồn nhiên, thơ ngây trong trò chơi
con trẻ: “Côn núp trong bóng tối chạy ra “vồ” vào lưng mẹ, “hừ” một
tiếng! Chị cử Sắc hơi giật mình. Côn cười sằng sặc”, trong những cái
mẹo chợt nghĩ ra với mong muốn mang lại cho mẹ niềm vui bất ngờ:
“Côn ghé vào nhà Đầu - Trái - Bưởi, mượn bộ quần áo vá nhiều miếng,
lại còn lấy dây buộc túm chéo một cách lôi thôi. Côn mặc trùm nó ra
ngoài bộ quần áo đang mặc trong người. Đầu đội cái nón mê, đeo bên
hông một cái bị cũ kĩ, mặt mũi, bàn tay, bàn chân bôi lọ lem luốc, tay
cầm gậy đi về nhà. Côn cũng vờ đi cà nhắc một cách thiểu não”, trong
những lời “nói nũng với cha”, trong lối sống hòa đồng, giản dị: “Còn bé
thơ, con một ông cử nhân, một ông thầy học nổi tiếng mà cậu đối xử, ăn
ở bình dân với mọi người hàng xóm, láng giềng”, trong từng cách ứng xử
tế nhị với bạn bè: “Chơi với bạn có lúc đã quên để tâm về bạn còn đang
thua thiệt hơn mình mà mình cứ nhâng nhâng tuy không cố ý thì cũng là
vô tâm”, trong cái nết thực thà, tốt bụng với mọi người: “Học được chữ
cũng đem chia chữ cho bạn, vô kinh đô cũng lo lắng đem phần quà
chuyện lạ về cho bà, cho dì, cho chị, cho bạn ở quê nhà”... Côn cũng là
cậu bé giàu lòng thương người, thường “làm phúc cho người nghèo, lén
xúc gạo, khoai lát đem cho”, dạt dào tình cảm, hay xúc động: “đọc sách
Nhị thập tứ hiếu cũng trào nước mắt”, sống chân thành, thủy chung bè
bạn: “Tình đồng môn có khi hơn cả tình đồng tộc”, hiếu thảo vô cùng với
mẹ cha và biết lo lắng, thương yêu em rất mực... Chỉ một chi tiết rất bình
thường trong BSX, người đọc cũng nhận ra sự chín chắn, sớm trưởng
thành ở cậu bé còn trong tuổi đánh khăng, đánh đáo này: “Con con có
thèm chè ngọt cha ạ. Nhưng con nỏ thích ăn ở dọc đường mô. Về nhà
mệ nấu chè cho con ăn, thích hơn”. Những tháng năm vào đời trên đất
Hình tượng Bác Hồ trong 109
cảng Sài Gòn, “làm việc gò xương sống, vẹo xương sườn, mà còn bị đòn
roi, đá đít, bạt tai chẳng khác gì thân trâu ngựa”, tình yêu đầu đời đã
chớm nở ở Thành, bất chấp sự thù địch, khắc nghiệt của hoàn cảnh
không “hơn kiếp con vật là bao nhiêu”. Điều đó bộc lộ rất rõ qua những
câu nói nghẹn ngào với Út Huệ: “Tôi không ở đây nữa Mai sớm, tôi
đi xa”, qua tâm trạng của chàng trai xứ Nghệ khi con tàu sắp rời
Bến Nhà Rồng: “Anh Ba bất chợt nhìn Út Huệ, nhìn con tàu. Anh rùng
mình. Một luồng giá lạnh từ đỉnh đầu xuống gan bàn chân như phân chia
con người anh làm hai”. Sự song hành, hòa quyện giữa hai phẩm chất
bình thường - phi thường đó, nói như nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội
Châu, là “điều đáng quý” ở nhân vật. Nhờ vậy mà Côn (cũng như
Nguyễn Tất Thành sau này) luôn có được một phong thái đặc biệt: hòa
vào mọi lớp người mà vẫn không lẫn.
Trong Cha và con (CVC)4 của Hồ Phương, cậu thiếu niên Nguyễn
Sinh Côn như khôn trước tuổi. Những suy nghĩ của cậu thể hiện sự
chững chạc, giàu lòng nhân ái, sớm có những trở trăn rất người lớn:
"Trong đêm nghe tiếng khóc từ xa vọng lại, nghe rất não nề, ai oán. Côn
ngồi lặng đi... Tiếng khóc xé ruột kia đã làm cho cậu rối cả tâm can. Cậu
nằm bên bà, mắt cứ chong chong gần như suốt đêm. Đó chính là tiếng
khóc của những bà, những chị có chồng, có con bị bắt đi phu”. Đi xem
cải lương, nhìn cô gái sắm vai Kiều Nguyệt Nga hao hao như Phượng
Quý, bao hình ảnh của những ngày tháng ở Huế hiện về vẹn nguyên,
sống động trong lòng cậu: "Ôi, tưởng đã quên... Phải, tưởng rằng đã
quên... Cả một trời Dương Nổ và Huế bỗng như oà mở trên đầu, trước
mặt Côn với biết bao kỉ niệm ngọt bùi xưa kia với cha, mẹ, với anh
Khiêm,... và tất cả các bạn khác nữa, mà trong đó hiển nhiên không thể
thiếu Phượng Quý... Phượng Quý ơi, bây giờ bạn ở đâu, đang làm gì?
Cha ơi, lúc này cha đang sống trong mọi nỗi buồn đau khổ - con biết -
nhưng cha đang ở đâu, còn ở Huế hoặc họ đã đuổi khéo cha đi khỏi kinh
thành?" Sự phối kết giữa ngôn ngữ đối thoại và độc thoại, việc sử dụng
lăng kính đời thường để tái hiện chân dung nhân vật là một nét độc đáo
trong bút pháp trần thuật của tiểu thuyết thiếu nhi đương đại, một tiếng
nói đa thanh, cởi mở, dân chủ của văn xuôi thời Đổi mới.
Cũng với BSX, BSV, Sơn Tùng đã làm mới một quan niệm đã có từ
trước: Nhân cách, tương lai con người được hình thành từ một nền tảng
4 Hồ Phương (2007), Cha và Con, Nxb. Kim Đồng, Hà Nội.
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 3/2011 110
vững vàng. Nền tảng ấy chính là gia đình, dòng tộc và môi trường văn
hóa - lịch sử in hằn dấu ấn thời đại. Một thiên bẩm không phải ở một thế
giới xa xôi huyền bí nào mà từ trong nòi giống của các bậc hiền tài ấy tạo
thành; rồi sớm được nuôi dưỡng, dạy dỗ, lớn lên có chí học, chí hành
mới thành vĩ nhân được. Nguyễn Sinh Côn là minh chứng sinh động cho
quan niệm này. Cậu bé ấy được sinh ra trong một gia đình “vừa có gia
phong, vừa có gia giáo”, “giàu chữ lại giàu cả nhân đức nữa”, “có một
nếp sống thanh cao và trí tuệ”. Mẹ cậu - người phụ nữ “thảo hiền, thương
người như thể thương thân. Có một miếng ăn ngon, bà cũng bớt ra chia
sớt với bà con láng giềng. Ai đứt bữa, ai tối lửa tắt đèn, bà chìa tay giúp
đỡ trong tình lá lành đùm lá rách” - luôn lấy câu “giấy rách giữ lấy lề” để
khuyên dạy con mình: “Từ trước tới giờ mẹ tôi không cho anh em tôi
nhận bất cứ món quà nào dầu nhiều dầu ít của ai khi chưa được cha mẹ
cho phép”. Ông Nguyễn Sinh Sắc, cha Côn, là một người nghiêm khắc
mà độ lượng: “Ái chi năng vật lao hồ. Đôn hậu dĩ sùng lễ” (yêu con há lẽ
không hướng cho con biết chịu khó, biết làm dày nền phúc và tôn trọng
điều lễ). Sớm nhận ra những điều đáng quý ở con mình nên ông đã hết
lòng “chú ý rèn cho Côn sớm phát triển thiên tư”, “dưỡng tử giáo độc
thư, thư trung hữu kim ngọc” (nuôi con phải biết dạy con đọc sách, vì
trong sách có vàng ngọc), “chuyên tâm cho việc dạy cháu Côn học với
trọng trách: dưỡng tinh súc nhuệ” (nuôi dưỡng sự tinh anh, dùi mài nhuệ
khí để rồi gánh vác việc lớn). Ông cũng là người luôn luôn tâm niệm
“phải tạc ngay vào tâm trí các con những bức tranh lịch sử bi tráng của
quê hương, của đất nước ở cái thời mà ta chứng kiến, ta nghe, ta lượm lặt
gom góp được” để khơi gợi ở con trẻ tình cảm và trách nhiệm đối với đất
nước, dân tộc. Chính gia đình là khởi thủy tạo nên tính cách của mỗi
người, đã tạo khắc vào con người những nguyên tắc đầu tiên của cuộc
đời. Tinh hoa gia đình thanh cao và cả cái dấu ấn dân tộc hào hùng đã
hợp thành dưỡng chất nuôi lớn nhân cách của Bác ngay từ thuở còn thơ.
Đây cũng chính là một chủ ý của các tác giả nhằm tô đậm quan niệm rất
mới mẻ nhưng cũng rất xưa cũ của văn hóa, văn học dân tộc: vĩ nhân,
bên cạnh những điều phi thường, cũng chính là một con người bằng
xương bằng thịt, được kết tinh từ truyền thống gia đình, tình làng nghĩa
xóm, sức mạnh cộng đồng và thời đại.
Tương tự như thế, Hồ Phương, trong CVC, cũng đã dành nhiều trang
viết tâm huyết, sắc sảo để làm nổi bật vai trò, sự ảnh hưởng tích cực của
cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc trong quá trình bồi đắp, phát huy những
phẩm chất tốt đẹp của cậu bé Côn để hình thành nhân cách, lí tưởng, bản
Hình tượng Bác Hồ trong 111
lĩnh chính trị ở Nguyễn Tất Thành sau này. Xuất phát từ một quan niệm
rất mới mẻ: Nghĩa vụ của đấng sinh thành chủ yếu là dẫn đường, nâng đỡ
chứ không bao giờ để con cái phải biến thành cái cây bị còi cọc, cớm
nắng vì cái bóng của mình, nên cách rèn cặp con cái của ông cũng rất
hiện đại so với đương thời - chú trọng giáo dục thực tiễn thay vì dùng
hình phạt để bắt buộc trẻ phải suốt ngày nấu sử sôi kinh. Những buổi
đàm đạo chuyện văn chương, thế sự với các văn nhân, chí sĩ yêu nước,
ông thường cho con hầu trà, hầu rượu rồi gợi ý để Côn bàn thảo về quan
điểm của họ, qua đó bộc lộ cái chí, tâm và trí của mình. Những chuyến
“tháp tùng” cha đi dạy học và giao du, thăm viếng nhiều nơi, bằng nhiều
phương tiện khác nhau cũng đã có tác dụng rất lớn trong việc mở mang
tầm nhìn và sức nghĩ ở Côn.
Sinh thời, Hồ Chủ tịch đã từng nói: "Một pho tượng hay một lâu đài
cũng phải có cái nền đất vững chắc mới đứng vững được. Nhưng người
ta dễ nhìn thấy pho tượng và lâu đài mà không chú ý đến cái nền - như là
chỉ nhìn thấy cái ngọn mà không nhìn thấy cái gốc"5. Tâm đắc với lời
dạy của Người, trong các sáng tác của mình, Sơn Tùng và Hồ Phương đã
mang lại cho người đọc một quan niệm, một cái nhìn khá mới mẻ: Con
người là sự tổng hòa của nhiều phương diện, nhiều mối quan hệ xã hội.
Chú trọng mặt này hay hạ thấp mặt kia cũng tạo ra sự bất cập, thiếu toàn
diện trong chân dung một nhân cách lớn - đặc biệt là nhân cách Con -
Người - Vĩ - Nhân như Hồ Chí Minh. “Khi Bác là một tượng đài cao
ngất giữa non sông đất nước, thì tuổi thơ trong sáng của Người chính là
cái nền. Khi Bác là một ngọn cờ vời vợi giữa bầu trời bao la, thì tuổi thơ
trong sáng của Người chính là cái gốc. Khi Hồ Chủ tịch là một biển cả
mênh mông của tình yêu con người, thì chính vì thời niên thiếu của Bác
đã hội tụ biết bao tinh hoa của Dân tộc”6.
Sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa nguyên tắc hư cấu, sáng tạo - đặc
quyền của nghệ thuật ngôn từ - với tinh thần tôn trọng tối đa sự thật lịch
sử khi khắc chạm hình tượng nhân vật trung tâm Nguyễn Sinh Côn -
Nguyễn Tất Thành đã đem lại những đổi mới thực sự tích cực trong quan
niệm nghệ thuật về con người của cả ba tiểu thuyết. Điều đó vừa cho
thấy sự cách tân, bức phá trong tư duy nghệ thuật cùng kĩ thuật viết cho
thiếu nhi của văn xuôi đương đại, vừa khẳng định tình cảm, trách nhiệm
5 Hồ Chí Minh: Tuyển tập, TậpII, trang 480.
6 Lời bàn của Đào Phan trong Bông sen vàng, Sđd, trang 319.
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 3/2011 112
của nhà văn đối với độc giả tuổi bé. Lời của nhân vật Đào Tấn cũng
chính là tôn chỉ của Sơn Tùng khi xây dựng hình tượng Bác Hồ thời niên
thiếu xuyên suốt hai tác phẩm BSX, BSV: “Tôi đã viết ra nhân vật, tôi
phải có bổn phận với nhân vật của tôi”. Cách làm tập thể của tác giả
trong quá trình viết BSV đã phần nào cho thấy điều ấy: Lần dò từ Nghệ
An ra Hà Nội, rồi vào Huế và Phan Thiết, cho đến cả Sài Gòn trước và
sau giải phóng, để tìm tòi các nhân chứng trực tiếp hoặc gián tiếp biết
thời niên thiếu của Bác. Chính trách nhiệm trước lịch sử, trách nhiệm với
những đứa con tinh thần của mình ở người viết đã một lần nữa khẳng
định quyết tâm khám phá chân lí cuộc sống, đặc biệt là những mê cung
vi tế thuộc về con người. Đây là một nhân tố tích cực góp phần thúc đẩy
sự cất cánh của văn học thiếu nhi hôm nay bởi nó tỏ ra thích ứng với sự
thay đổi trong nhu cầu cũng như thị hiếu tiếp nhận của bạn đọc.
Dẫu cùng có một mục tiêu chung là tạo cho người đọc một cái nhìn
mới mẻ nhưng cũng đầy trân trọng, yêu kính lãnh tụ, nhưng mỗi nhà văn
lại lựa chọn một cách đặt vấn đề, cách tái tạo hình tượng không hoàn
toàn giống nhau. BSX tái hiện lại tuổi trẻ của Bác qua cả ba giai đoạn;
mỗi giai đoạn đều có một cái kết giàu tính chất “tiên cảm”: Khép lại
“Thời thơ ấu” là “tiếng gió hú trên núi. Mọi người đăm đăm nhìn theo
bóng Phan Bội Châu đang rảo bước trên con đường mịt mù mưa gió”;
với “Thời niên thiếu” là hình ảnh “những áng mây nhuộm nắng ban mai
bay ra biển xa xăm” và “Tuổi hai mươi” là cuộc chia tay trên Bến Nhà
Rồng với tình yêu thầm kín và lòng mong mỏi của người con gái Sài
Gòn – Út Huệ, gương mặt người thương và cả khuôn mặt Việt Nam
“choán choáng lấy trái tim anh!” Trọng tâm của BSV là viết về thời niên
thiếu của Bác ở Huế. CVC tập trung vào khoảng thời gian gia đình ông
Sắc dắt díu nhau vào Huế lần hai, khi ấy Côn đã 13 tuổi và bắt đầu được
gọi bằng cái tên Nguyễn Tất Thành. Chính nơi này Bác đã có một tuổi
thơ êm đềm, nhưng cũng không ít chấn động với liên tiếp hai cái tang
của mẹ và em trai. Nếu BSV khẳng định sâu sắc thêm một quy luật từng
hé mở trong BSX: Nhân cách hình thành từ tuổi thơ của cậu bé Nguyễn
Sinh Côn chính là "cái gốc" đầy nhân bản cho cốt cách thanh cao của
Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này, thì Hồ Phương quan niệm: "Tôi cố gắng
viết sao cho người đọc không có cảm giác Bác Hồ như thần thánh từ lúc
còn là trẻ thơ”. Tác giả CVC từng tâm sự: "Tôi không đến nỗi quá ngần
ngại là đã có nhiều người viết về Bác. Bởi cứ nghĩ: trong văn chương,
mỗi người đều có những suy nghĩ riêng và những rung động cùng những
sáng tạo nghệ thuật riêng. Mọi sự trùng lặp về tài liệu không bao giờ có
Hình tượng Bác Hồ trong 113
thể giết chết được cảm hứng cùng những khám phá hoặc phá bỏ những
cái nhìn khác nhau của tác giả". Sự cảm phục, nhưng không lí tưởng hoá
lãnh tụ dân tộc đã giúp các tác giả tái hiện sinh động hình tượng, làm cho
người đọc nhớ đến Bác, gần gũi thêm với Bác với một cảm xúc trong
sáng, rất người. Nhờ quan niệm và phong cách khác nhau như thế, hình
tượng Bác Hồ kính yêu đã được nhìn nhận từ nhiều chiều nên khá toàn
vẹn, sinh động, hấp dẫn...
2. Những cách tân trong lựa chọn và thể hiện các chi tiết nghệ thuật
Chi tiết là điểm tựa của thế giới hình tượng ngôn từ, nhất là những
sáng tác thuộc thể loại tự sự. Chọn được những chi tiết đắc địa sẽ là điều
kiện để tác phẩm “bám” được trong tâm trí người đọc. Với văn học cho
thiếu nhi, chi tiết càng mới mẻ, hấp dẫn càng có tác dụng kích thích hứng
thú của trẻ. Hiểu rõ điều đó, trong ba tiểu thuyết của mình, Sơn Tùng và
Hồ Phương đã rất dụng công tìm kiếm, tạo dựng hệ thống chi tiết giàu
tính thẩm mĩ, nhiều ám gợi.
Đọc BSX, BSV, CVC, có một chi tiết ám ảnh không dứt tâm trí người
đọc, gợi ra ở họ nhiều liên tưởng, suy ngẫm mới lạ, đó là đôi mắt của cậu
bé Nguyễn Sinh Côn và sau này là người thanh niên Nguyễn Tất Thành.
Không hẹn mà gặp, cả hai tác giả khi khắc chạm hình tượng Bác Hồ thời
niên thiếu đều chú trọng đặc tả đôi mắt để từ đó hé lộ dần thế giới nội
tâm đằng sau “cửa sổ tâm hồn” của nhân vật - đôi mắt bừng sáng một
nhân cách vĩ đại: “Muốn hiểu lòng dạ người con gái thì hãy ngắm miệng
lúc cô ta cười. Muốn biết người con trai có chí lớn thì nhìn vào đôi mắt
lúc anh ta bắt gặp sự bất ngờ... Cháu Côn có đôi mắt ấy” (BSV). Trong
tiểu thuyết của Sơn Tùng, đôi mắt cậu bé Côn nói với chúng ta rất nhiều
điều trong thinh lặng, bởi nó là tổng hòa nhiều sắc độ tình cảm: khi mơ
màng lắng cả tâm hồn ngây thơ vào câu chuyện cha kể, đẫm lệ khi đọc
sách Nhị thập tứ hiếu, nghẹn ngào khi cầm tờ Chiếu Cần Vương với sự
cảm phục vô bờ vị vua (Hàm Nghi) tuổi nhỏ mà phải sớm gánh vác trọng
trách giang sơn. Đó cũng là một ánh mắt nảy lửa vì căm thù thực dân
xâm lược, vì uất hận trước sự hèn nhược của triều đình phong kiến nhà
Nguyễn. Đôi mắt ấy đẹp hơn hẳn qua lời nhận xét của các bậc tiền bối:
"Cháu có đôi mắt hội hoạ ... Cháu có đôi mắt tinh tường vô cùng". Nói
như thầy giáo Lê Văn Miến trong BSX - một người thầy mà Thành luôn
kính vì đức, trọng vì tài – thì anh là con người “hiền đức tại tâm, anh hoa
tại mục” (đức lớn ở lòng, sự thông minh hiện lên trong mắt).
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 3/2011 114
Với CVC, Hồ Phương lại chú trọng sự song hành giữa sáng mắt - sáng
lòng của người thiếu niên chí lớn trên những dặm đường thiên lí cùng
cha. Thành đã có sự thay đổi, trưởng thành trong cách nhìn, cách nghĩ:
"Có nhiều người ghét Tây, nhưng cũng có những kẻ... mang ơn Tây".
Cũng qua những chuyến đi ấy, càng ngày Thành càng thấy dân ta đã,
đang và sẽ còn chịu nhiều khổ cực một khi chưa đánh đuổi bọn đế quốc
xâm lược. Thực chất của cái chính sách “khai hóa” đầy mị dân, thâm độc
của thực dân Pháp cũng không thể nào vượt qua được đôi mắt tinh tường
của anh.
Ngoài sự chăm chuốt đặc tả ngoại hình, hành động, ở BSX, Sơn Tùng
còn hướng sự chú ý đến các chi tiết của không gian tâm trạng để làm nổi
bật mối tương cảm giữa vạn vật, đất trời với lòng người: ngày bà ngoại
mất, “một đám mây như dải băng trắng trôi qua ngọn núi Độc Lôi, che
khuất mặt trời. Bóng râm trùm xuống một vùng xâm xẩm tối”. Ngày
hoàng triều có biến, “hai anh em ngồi thẫn thờ nhìn về cổ thành. Nắng
quái chiều hôm trắng nhợt vắt dài trên lầu Ngũ Phụng như một dải băng
tang”. Đó còn là điệp âm của tiếng chim quốc: day dứt trong thơ Bà
Huyện Thanh Quan, khắc khoải trong đêm hè lặng vắng, buồn bã, tê tái
cùng lữ khách trên những dặm dài gió bụi. Tiếng chim như nỗi lòng đau
nước, thương nhà của muôn dân nô lệ, trong đó có trái tim nhạy cảm của
cậu bé Côn. Đặc biệt là chi tiết giàu tính biểu trưng, nhiều hàm nghĩa gắn
với nhan đề tác phẩm: Búp sen xanh. Hương sen ngào ngạt ngày bé Côn
cất tiếng khóc chào đời. Sen hiện diện “giữa đất trời khô cháy bao la”,
“làm dịu bầu nóng hạ”. Sen - món quà đầu đời mà người anh Nguyễn
Sinh Khiêm “nói chệch âm vì chưa thật rõ tiếng” dành tặng cho em bằng
cả tấm lòng mình. Sen theo Côn vào những giấc ngủ trẻ thơ, là tặng vật
“ngan ngát quê hương” của người bạn đầu trần chân đất với niềm mong
mỏi “Côn mang theo để nhớ hương sen quê nhà”. Sen cũng gắn với
những rung động đầu đời trong sáng, đẹp đẽ, rất đỗi con người của chàng
thanh niên Nguyễn Tất Thành những ngày tháng “đời thợ” ở Bến Nhà
Rồng: “Anh Ba mở choàng mắt. Bất chợt anh có cảm giác gương mặt Út
Huệ như một búp sen từ đầm sen quê nhà hiện lên”; “Gương mặt người
con gái Sài Gòn chập chờn trước mắt anh như một búp sen quê hương”.
Hình ảnh hoa sen, hương sen hiện diện suốt từ đầu đến cuối tác phẩm,
trong những không - thời gian khác nhau đã góp phần đắc lực thể hiện
nhân cách, lí tưởng của nhân vật: một người con luôn gắn với nguồn cội
dân tộc, lắng đọng trong mình bao tinh chất của truyền thống cha ông.
Hình tượng Bác Hồ trong 115
Đó chính là sức mạnh tinh thần để nhân vật “đứng vững dáng Con Người
giữa cuộc đời khổ ải”.
3. Đặc sắc của hình tượng nhân vật từ chất liệu ngôn từ
Xuất phát từ mục đích làm nổi rõ mối liên hệ giữa sự hình thành, hoàn
thiện nhân cách một vĩ nhân với cội nguồn dân tộc như đã nói ở trên, trong
cả ba tiểu thuyết, Sơn Tùng và Hồ Phương đã chủ động khai thác thế
mạnh của ngôn ngữ dân gian để khắc họa tính cách nhân vật. Sự gia tăng
chất liệu văn học bình dân như một thủ pháp “lắp ghép” nhuần nhuyễn vào
cấu trúc tác phẩm là một cách tân đáng ghi nhận của người viết.
Trải dài trên một không gian rộng lớn suốt từ Bắc chí Nam, bằng vốn
sống dồi dào của một người từng trải, tác giả CVC đã tái hiện sinh động,
nhuần nhuyễn ảnh hưởng qua lại giữa quá trình trưởng thành của nhân
vật trung tâm Nguyễn Sinh Côn - Nguyễn Tất Thành với cái nôi văn hóa
của mỗi vùng miền, đặc biệt là lời ăn tiếng nói, phong tục tập quán của
nhiều tầng lớp người khác nhau. Với BSX, BSV, tần suất những sáng tác
văn học truyền miệng khá cao và thực sự phát huy lợi điểm của chúng.
Có những câu tục ngữ, ca dao được sử dụng nguyên văn: “Sinh con sáng
dạ làu làu - Nhớ mẹ ngày trước chăm lau đĩa đèn”, “Sinh con quý tử khó
nuôi - Trồng cây ngon trái lắm người lăm le”, “Nhà có phúc sinh con
giỏi lội - Nhà có tội sinh con hay trèo”, “Con dại cái mang”, “Con hư tại
mẹ, cháu hư tại bà”, “Rồng chầu ngoài Huế - Ngựa tế Đồng Nai - Nước
sông trong sao lại chảy hoài - Thương người nho sĩ lạc loài đến đây”,
(BSX); “Oan hồn thì hồn hiện”, “Nghe như vịt nghe sấm”, “Một miếng
khi đói bằng một gói khi no”, “Mồ côi cha ăn cơm với cá, mồ côi mẹ vét
lá đầu đường”, “Bao giờ bánh đúc có xương - Bao giờ mẹ ghẻ lại thương
con chồng”, “Cha già con cọc”, “Không ai giàu ba họ, chẳng ai khó ba
đời”, “Dẫu thơm dẫu đẹp hoa lài - Đàn bà con gái chớ cài lên khăn”,
“Người hiền nuôi sói hóa nai - Người ác nuôi thỏ lại lai lợn lòi”, “Sống
mỗi người một nết, chết mỗi người một bệnh”, “Đưa con vô Nội mất con
- Phò mã tốt áo chẳng còn cố tri”, (BSV). Có trường hợp được tái tạo
lại, dưới dạng lời dẫn gián tiếp - một thành phần trong đối thoại của nhân
vật: “Chúc cháu đi được trơn bọt ngọt lạch, chân cứng đá mềm” (BSX);
“Con nòi của giống, ông cha nói nỏ có sai”, “Cậu là con nhà khoa bảng,
con nhà thầy, nhà quan mà đến nhà tui, phận bần hàn ni là rồng đến nhà
tôm”, “Anh em mình nhỏ đầu nên dễ chui, hai anh nhể”, “Con phải nhớ
câu: “Nhịn miệng thết khách”. Không ai lại làm cái việc: “Đãi khách nhẹ
dầu tăm, mình ăn gắp nặng đũa”. Những kẻ vô tâm mới cắm đầu ăn cho
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 3/2011 116
no bụng mình chẳng nghĩ đến phần ai. Nhà mình tuy ít của, nhưng biết
có miếng ăn chia cho đều, có cái tình thì thương cho khắp. Của ăn thì
hết, của cho thì còn. Con nhớ kĩ cái điều ấy” (BSV) Có trường hợp
nôm na, chân mộc, nhưng cũng không ít phát ngôn rất hàm súc, thâm
thúy của người tài cao, học rộng: “Ẩm thủy tư nguyên” (uống nước nhớ
nguồn), “Hữu chí giả, sự cánh thành” (người có chí thì việc ắt sẽ nên).
Có câu dẫn ra để minh định, đồng tình, nhưng cũng có lúc nó là nguyên
cớ cho sự tranh biện, bộc lộ chính kiến: “Mẹ ơi, cái tục lệ coi bông hoa
lài như cô gái không đứng đắn, nó thế nào ấy? Lại còn gán cho những
người đàn bà con gái cài hoa lài lên khăn cho thơm cũng bị coi là người
hư hỏng? Sao các cụ, các thầy lại thích uống trà ướp hoa lài? Ồ! Tục lệ
ấy ngẫm thấy không hay mà còn dở nữa mẹ ạ” (BSV).
Những đại diện ưu tú của văn học truyền khẩu này vẫn tồn tại đẳng
lập với vốn ngôn từ uyên thâm của Nho gia cũng như ngôn ngữ sắc cạnh,
mới mẻ của đời sống hiện đại. Chất dân gian đan xen một cách hợp lí,
đúng lúc, với dung lượng vừa phải góp phần thể hiện rõ tính cách nhân
vật, khẳng định căn cốt của sự hình thành tư cách và phẩm giá con người
phải từ cội nguồn truyền thống. Người đọc cũng dễ nhận thấy quan niệm
nghệ thuật tiến bộ của tác giả: Con người, nhất là những bậc vĩ nhân,
luôn là sự lắng kết tinh hoa văn hóa cộng đồng; đó là điểm tựa của niềm
tin, của lẽ sống, của lí tưởng... Nhờ vậy, lúc nào, ở đâu trong tâm hồn họ
cũng hiện diện rõ ràng một gương mặt đất nước, quê hương. Nguyên
nhân thành công của kĩ thuật hòa phối tinh diệu các phong cách ngôn
ngữ này là bởi cả nhân vật lẫn người viết “luôn luôn gần người biết đi
dưới ánh sáng của nhân dân” (BSV). Chính vì thế, tính giáo dục được
nâng lên một mức cao hơn nhưng vẫn rất dung dị, phù hợp với tầm đón
nhận của người đọc.
Sự hiện diện lớp ngôn ngữ truyền thống đã tạo ra những thay đổi rất
lớn về mặt kết cấu, cốt truyện. Trong BSX, bên cạnh hệ thống tục ngữ, ca
dao nói trên, Sơn Tùng còn đưa vào không ít những truyện thần thoại, cổ
tích, truyền thuyết dân gian (Thạch Sanh, Mị Châu - Trọng Thủy, Tống
Trân Cúc Hoa, Lạc Long Quân và Âu Cơ, Truyền thuyết Tướng cụt
đầu,), những câu hát ru, những bài đồng dao của trẻ con. Ở BSV, mạch
truyện giãn nở, khi ra xa, lúc về gần nhờ hàng loạt những câu chuyện,
những huyền tích: sự tích Chử Đồng Tử, các tích trong Tả truyện, những
bài vè dân gian, những câu đồng dao ngộ nghĩnh, những điệu hành vân,
điệu hò mái nhì man mác v.v Đây cũng là nhân tố để tác giả tô đậm
Hình tượng Bác Hồ trong 117
tính cách của cậu bé Nguyễn Sinh Côn: Một con người luôn khát khao
học hỏi, ham hiểu biết, một nhân cách lớn được bồi đắp nên bằng chính
dưỡng chất của nguồn cội dân tộc.
* *
*
Tiến trình văn học Việt Nam sau năm 1975 nói chung, tiểu thuyết cho
thiếu nhi nói riêng, thể hiện rất rõ quy luật kế thừa và cách tân của hoạt
động sáng tác văn hóa nghệ thuật. Quy luật này cho thấy sự chủ động,
sáng tạo cùng ý thức trách nhiệm của nhà văn khi tiếp cận những mảng
hiện thực đã cũ hoặc khá nhạy cảm với quyết tâm bổ sung, làm mới
thành tựu văn học dân tộc. Tìm sự mới lạ dâng hiến độc giả nhỏ tuổi qua
đề tài Bác Hồ - một đề tài không còn nhiều tính thời sự, lại đã có không
ít những thành tựu được ghi nhận, để các em càng kính yêu, càng thấy
gần gũi hơn với Bác là một sự dũng cảm giàu tính nhân văn và rất đáng
trân trọng của người viết.
Khác với các sáng tác giai đoạn trước, tiểu thuyết viết về Bác Hồ cho
thiếu nhi hơn ba thập kỉ qua đã tiếp cận hình tượng nhân vật trong sự đa
dạng, phong phú về tâm lí, tính cách. Vượt lên những khuôn mẫu, lối mòn
công thức, nhà văn nhìn nhận và khai thác mọi vấn đề trong chiều sâu mới,
chân thực, toàn diện, khách quan hơn. Không chỉ hướng tới những vấn đề
có ý nghĩa lớn lao như lịch sử, cộng đồng, người viết còn quan tâm nhiều
hơn đến từng biểu hiện chân thực, sinh động của thế giới nội tâm, chú trọng
cả những cái bình thường lẫn phi thường trong nhân cách của Bác thuở
thiếu thời. Chính quan niệm con người đời thường - thế tục đã góp phần đắc
lực để đổi mới thi pháp, mang lại chất văn xuôi - một phẩm chất tiêu biểu
của truyện đương đại, tạo ra sự cộng hưởng giữa chức năng giáo dục và
chức năng thẩm mĩ của văn học dành cho trẻ em hôm nay. Sức hấp dẫn của
các tiểu thuyết này không chỉ là do bút pháp phác họa hình tượng theo lối
tả thực cổ điển hay dày công tạo dựng một cốt truyện chỉn chu, giàu kịch
tính mà còn là vì chúng đã lí giải một cách thuyết phục mối quan hệ giữa
cội nguồn truyền thống với sự hình thành bản lĩnh, nhân cách, vẻ đẹp tâm
hồn Bác ngay từ thời thơ trẻ; nhờ thế đã tạo nên những rung động sâu xa,
bền vững nơi bạn đọc xuất phát từ những nhận thức, tình cảm và trách
nhiệm đúng đắn, tích cực đối với cha ông, Tổ quốc mình./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32139_107785_1_pb_4785_2012738.pdf