Hiệu quả của bổ sung đa vi chất dinh dưỡng và tẩy giun đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ thấp còi, 12 - 36 tháng tuổi người dân tộc Vân Kiều và PAKOH

Nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả của tẩy giun sớm và bổ sung đa vi chất trên trẻ suy dinh dưỡng thấp còi, dân tộc Pakoh và Vân Kiều (Quảng Trị). Kết quả nghiên cứu cho thấy sau 6 tháng can thiệp. Tẩy giun và bổ sung đa vi chất cho trẻ suy dinh dưỡng thấp còi có tác dụng tăng cân nặng, chiều cao, giảm suy dinh dưỡng thể nhẹ cân và thấp còi của trẻ. Bổ sung đa vi chất có hiệu quả tốt hơn tẩy giun đơn thuần. Can thiệp phối hợp bổ sung đa vi chất và tẩy giun có tác dụng hiệp đồng làm tăng hiệu quả tăng cân nặng, chiều cao của trẻ và giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng nhẹ cân và thấp còi. Can thiệp cho trẻ dưới 24 tháng tuổi có tác dụng tốt hơn so với trẻ > 24 tháng tuổi. Chương trình phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em cần quan tâm bổ sung đa vi chất sớm kết hợp tẩy giun cho trẻ ở những vùng nhiễm giun và tỷ lệ suy dinh dưỡng cao.

pdf9 trang | Chia sẻ: Mịch Hương | Ngày: 29/03/2025 | Lượt xem: 24 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả của bổ sung đa vi chất dinh dưỡng và tẩy giun đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ thấp còi, 12 - 36 tháng tuổi người dân tộc Vân Kiều và PAKOH, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
140 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC HIỆU QUẢ CỦA BỔ SUNG ĐA VI CHẤT DINH DƯỠNG VÀ TẨY GIUN ĐẾN TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG CỦA TRẺ THẤP CÒI, 12 - 36 THÁNG TUỔI NGƯỜI DÂN TỘC VÂN KIỀU VÀ PAKOH Trần Thị Lan1, Nguyễn Xuân Ninh2, Lê Thị Hương3 1Tổ chức Cứu trợ Trẻ em; 2Viện Dinh Dưỡng; 3Viện Đào tạo Y học dự phòng - Y tế công cộng, trường Đại học Y Hà Nội Nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả của tẩy giun sớm và bổ sung đa vi chất trên trẻ suy dinh dưỡng thấp còi, dân tộc Pakoh và Vân Kiều (Quảng Trị). Kết quả nghiên cứu cho thấy sau 6 tháng can thiệp. Tẩy giun và bổ sung đa vi chất cho trẻ suy dinh dưỡng thấp còi có tác dụng tăng cân nặng, chiều cao, giảm suy dinh dưỡng thể nhẹ cân và thấp còi của trẻ. Bổ sung đa vi chất có hiệu quả tốt hơn tẩy giun đơn thuần. Can thiệp phối hợp bổ sung đa vi chất và tẩy giun có tác dụng hiệp đồng làm tăng hiệu quả tăng cân nặng, chiều cao của trẻ và giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng nhẹ cân và thấp còi. Can thiệp cho trẻ dưới 24 tháng tuổi có tác dụng tốt hơn so với trẻ > 24 tháng tuổi. Chương trình phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em cần quan tâm bổ sung đa vi chất sớm kết hợp tẩy giun cho trẻ ở những vùng nhiễm giun và tỷ lệ suy dinh dưỡng cao. Từ khóa: suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em, đa vi chất, tẩy giun sớm Địa chỉ liên hệ: Lê Thị Hương, Viện Đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội. Email: hathuhuong@yahoo.com Ngày nhận: 06/01/2013 Ngày được chấp thuận: 26/4/2013 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Suy dinh dưỡng ở trẻ em vẫn phổ biến ở mức ý nghĩa với sức khỏe cộng đồng trên nhiều quốc gia trên Thế giới trong đó có Việt Nam. Bệnh suy dinh dưỡng gây nhiều hậu quả không tốt đến phát triển trí tuệ và thể lực những năm sau này [1]. Một trong những nguyên nhân chủ yếu của thiếu dinh dưỡng là thiếu ăn. Kèm theo ăn thiếu trẻ em ở các nước đang phát triển còn hay bị mắc các nhiễm khuẩn như viêm hô hấp, rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy, nhiễm giun sán đường ruột... các bệnh này lại càng làm nặng thêm vấn đề suy dinh dưỡng và thiếu vi chất dinh dưỡng [2]. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 2002, có đến 230 triệu trẻ em từ 0 - 4 tuổi bị nhiễm giun [3]. Nhiễm ký sinh trùng đường ruột là yếu tố nguy cơ của suy dinh dưỡng và thiếu vi chất dinh dưỡng [4]. Ngoài việc tuyên truyền nâng cao kiến thức và thực hành cho người mẹ, cho người chăm sóc trẻ, tạo nguồn thực phẩm sẵn có những nghiên cứu về hiệu quả bổ sung vi chất dinh dưỡng đã cho thấy những kết quả tốt đến phát triển thể lực, chiều cao của trẻ, giảm tỷ lệ thiếu các vi chất dinh dưỡng. Dựa trên những kết quả này, các tổ chức quốc tế WHO/ UNICEF đã đưa ra các khuyến nghị phòng chống cho nhiều nước áp dụng [2]. Bên cạnh việc hướng dẫn bổ sung vi chất dinh dưỡng, WHO còn hướng dẫn tẩy giun cho trẻ ở những vùng có tỷ lệ nhiễm giun cao. Đề tài nghiên cứu nhằm mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của bổ sung đa vi chất dinh dưỡng và tẩy giun đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ 12 - 36 tháng tuổi, bị suy dinh dưỡng thấp còi, dân tộc Vân Kiều và Pakoh huyện Đakrông, tỉnh Quảng Trị. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Thiết kế nghiên cứu Thử nghiệm can thiệp cộng đồng có đối chứng. TCNCYH 82 (2) - 2013 141 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2. Đối tượng Trẻ 12 - 36 tháng tuổi bị suy dinh dưỡng thấp còi (HAZ < -2SD); không bị các bệnh bẩm sinh, bệnh mạn tính, nhiễm khuẩn cấp tại thời điểm tuyển chọn; không thiếu máu nặng (Hb > 70 g/L); Được bố mẹ đồng ý tham gia nghiên cứu. 3. Cỡ mẫu Tính theo công thức n = Z2(α, β) = (2S2)/(µ1- µ2)2. Trong đó: n: cỡ mẫu; S: độ lệch chuẩn của µ; α = 0,05; β = 0,1; Z2(α, β) = 10,5; µ1 - µ2: sự khác biệt mong muốn so với nhóm chứng. Với chiều cao: S = 0,65 cm; sự khác biệt µ1 - µ2 = 0,38 cm => n = 63. Nếu áp dụng công thức tính cho sự khác biêth về Hb: S = 9g/dl µ1 - µ2 = 5,5g/dl => n = 60. Vậy sẽ chọn n = 63 để đại diện cho nghiên cứu, dự phòng 10% trẻ bỏ cuộc, n = 70 trẻ/nhóm nghiên cứu. 4. Chọn mẫu Từ kết quả sàng lọc trên 680 trẻ về nhân trắc, xét nghiệm giun, có 452 trẻ suy dinh dưỡng thấp còi, trong đó 144 trẻ suy dinh dưỡng thấp còi và bị nhiễm giun; 308 trẻ suy dinh dưỡng thấp còi không bị nhiễm giun. Chọn ngẫu nhiên theo đơn vị thôn (26 thôn trong số 36 thôn của 4 xã thuộc huyện Đakrông, tỉnh Quảng Trị) được 284 trẻ, phân ra 4 nhóm sau: Nhóm chứng: (CTR, n = 73) suy dinh dưỡng thấp còi không bị nhiễm giun, chỉ hưởng các chăm sóc thường quy tại địa phương Nhóm tẩy giun: (TG, n = 70) suy dinh dưỡng thấp còi và bị nhiễm giun, được tẩy giun bằng 1 liều Mebendazole 500mg khi bắt đầu can thiệp Nhóm đa vi chất: (ĐVC, n = 72) suy dinh dưỡng thấp còi không bị nhiễm giun, được bổ sung gói đa vi chất 1gói/ngày x 7 ngày x 26 tuần. Nhóm Đa vi chất + Tẩy giun: (TG + ĐVC, n = 69) suy dinh dưỡng thấp còi và bị nhiễm giun, được tẩy giun 1 liều Mebendazole 500mg, được bổ sung gói đa vi chất: 1 gói/ ngày x 7 ngày/tuần x 26 tuần. Trẻ của 4 nhóm nghiên cứu (kể cả nhóm chứng) được cung cấp mỗi ngày 1 gói cháo ăn liền trong suốt thời gian 26 tuần nghiên cứu. 5. Vật liệu nghiên cứu Thuốc Mebendazole 500mg (Fugacar) được sử dụng, liều duy nhất cho trẻ 12 - 36 tháng theo hướng dẫn của Bộ Y tế năm 2007 [5]. Đa vi chất do viện Dinh dưỡng sản xuất, đóng gói 10 gam/gói, có thành phần chính gồm 4 - 5 g protein, 300 - 400 IU vitamin A, 0,02 - 0,03 mg vitamin B1, 1,5 - 2 mg vitamin C, 100 - 120 mg Calcium, 6 - 9 mg sắt, 3,2 - 3,7 mg kẽm. Gói cháo ăn liền do công ty Hà Nội Food sản xuất trọng lượng 50 gram/gói có 176 KCal; 2,5g Protein, 3g Lipid, 35,5g Glucid. 6. Theo dõi và giám sát can thiệp Hàng tuần cán bộ y tế xã phối hợp với y tế thôn bản tổ chức đi thăm từng hộ gia đình, phối hợp cấp phát mỗi trẻ 7 gói cháo ăn liền, 7 gói đa vi chất cho trẻ. Y tế thôn bản và cán bộ y tế xã hướng dẫn sử dụng gói đa vi chất, theo dõi số lượng gói được sử dụng và tình trạng bệnh tật của trẻ. Hai tuần một lần, nghiên cứu viên cùng với giám sát viên tuyến huyện đi thăm hộ gia đình, kiểm tra ghi chép sổ của y tế thôn bản, thảo luận với cán bộ y tế thôn và xã để xác minh các thông tin được ghi chép vào các sổ theo dõi là chính xác và trung thực, đồng thời hướng dẫn các y tế thôn bản và giám sát viên tuyến xã và huyện những thông tin còn chưa được rõ ràng. 7. Phân tích số liệu Những trẻ sử dụng > 80% số gói đa vi chất, có đủ các chỉ số đánh giá ban đầu, kết thúc nghiên cứu được đưa vào tính toán hiệu 142 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC quả. Chỉ số hiệu quả (CSHQ, %) = (A-B)/A%, trong đó A là tỷ lệ trước can thiệp (T0); B là tỷ lệ sau can thiệp (T6). Hiệu quả can thiệp (Hiệu quả thực): HQCT = CSHQCT - CSHQchứng.. Test ANOVA, test χ2 và T-test ghép cặp được dùng để kiểm định sự khác biệt giữa các giá trị trung bình, các tỷ lệ % và sự khác biệt trước và sau can thiệp. 8. Đạo đức nghiên cứu: đề tài thực hiện theo đúng hồ sơ cho phép của Hội đồng đạo đức viện Dinh dưỡng. III. KẾT QUẢ 1. Đặc điểm của đối tượng khi bắt đầu can thiệp Tại thời điểm T0, 284 trẻ suy dinh dưỡng thấp còi được chọn và phân bổ vào 4 nhóm nghiên cứu. Tại thời điểm T6, có 13 trẻ bỏ cuộc (8 trẻ không đồng ý lấy máu, 5 trẻ không uống đủ số ngày). Trẻ bỏ cuộc có đặc điểm nhân trắc, sinh hóa tại thời điểm T0 tương tự với những trẻ còn lại. Số liệu của 271 trẻ hoàn thiện nghiên cứu được đưa vào phân tích hiệu quả can thiệp. Bảng 1 cho thấy cả 4 nhóm nghiên cứu đều có các chỉ số về tuổi, cân nặng, chiều cao, WAZ, HAZ, WHZ - score tương đương nhau (p > 0,05). Tỷ lệ suy dinh dưỡng theo các thể cũng không khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm. Tỷ lệ suy dinh dưỡng nhẹ cân dao động từ 68,1% đến 75,4%; 100% duy dinh dưỡng thấp còi và tỷ lệ suy dinh dưỡng gầy còm dao động từ 7,4% đến 13,8%. Bảng 1. Đặc điểm nhân trắc của trẻ tại thời điểm bắt đầu can thiệp (T0) Chỉ số CTR (n1 = 69) TG (n2 = 65) ĐVC (n3 = 69) TG + ĐVC (n4 = 68) Giá trị trung bình (X ± SD) Tháng tuổi 27,0 ± 6,7 26,1 ± 7,0 27,2 ± 7,0 27,5 ± 6,8 Cân (kg) 9,4 ± 1,2 9,3 ± 1,4 9,4 ± 1,2 9,4 ± 1,3 Cao (cm) 79,1 ± 4,8 78,5 ± 5,4 78,3 ± 4,8 79,0 ± 5,0 WAZ -2,37 ± 0,70 -2,44 ± 0,74 -2,42 ± 0,70 -2,40 ± 0,74 HAZ -2,97 ± 0,72 -3,03 ± 0,75 -3,23 ± 0,70 -3,05 ± 0,62 WHZ -1,07 ± 0,76 -1,14 ± 0,81 -0,92 ± 0,81 -1,03 ± 0,77 Tỷ lệ suy dinh dưỡng n (%) Suy dinh dưỡng nhẹ cân 47 (68,1) 49 (75,4) 50 (72,5) 48 (70,6) Suy dinh dưỡng thấp còi 69 (100) 65 (100) 69 (100) 68 (100) Suy dinh dưỡng gầy còm 8 (11,6) 9 (13,8) 6 (8,7) 5 (7,4) * CTR: nhóm chứng; TG: tẩy giun; ĐVC: đa vi chất; TG + ĐVC: tẩy giun + đa vi chất. p > 0,05 giữa các nhóm, ANOVA cho X ± SD,χ2 test cho tỷ lệ %. TCNCYH 82 (2) - 2013 143 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2. Hiệu quả của can thiệp đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ Bảng 2. Hiệu quả can thiệp đến thay đổi (T6-T0) tình trạng dinh dưỡng của trẻ Chỉ số CTR (n1 = 69) TG (n2 = 65) ĐVC (n3 = 69) TG + ĐVC (n4 = 68) Tăng cân 0,81 ± 0,39 0,82 ± 0,41 1,06 ± 0,51**;++ 1,32 ± 0,36***; +++;## Tăng cao 3,66 ± 0,94 3,78 ± 0,98 5,16 ± 0,99 ***, +++ 5,26 ± 1,13***, +++ Tăng WAZ -0,02 ± 0,34 0,02 ± 0,42 0,19 ± 0,41**, + 0,40 ± 0,29***,+++,## Tăng HAZ 0,01 ± 0,32 0,05 ± 0,49 0,43 ± 0,26***, +++ 0,43 ± 0,29***, +++ Tăng WHZ 0,06 ± 0,46 0,05 ± 0,56 0,01 ± 0,62 0,29 ± 0,44#,c * CTR: nhóm chứng; TG: tẩy giun; ĐVC: đa vi chất; TG + ĐVC: tẩy giun + đa vi chất. Số liệu = X ± SD; **: p < 0,01; ***: p < 0,001 vs. CTR; +: p < 0,05; ++: p < 0,01; +++: p < 0,001 vs. TG; #:p < 0,05; ##: p < 0,01 vs. ĐVC (ANOVA test); c: p < 0,001 vs. T0 cùng nhóm (T- ghép cặp). Bảng 2 cho thấy nhóm tẩy giun có xu hướng tăng cao hơn về chiều cao, các chỉ số Z score so với nhóm chứng, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Nhóm bổ sung đa vi chất đơn thuần đã tăng cân nặng, tăng chiều cao, các chỉ số Z score tốt hơn có ý nghĩa so với nhóm chứng (p < 0,01). Bổ sung đa vi chất đơn thuần cũng cải thiện các chỉ số nhân trắc tốt hơn có ý nghĩa so với nhóm tẩy giun đơn thuần ở hầu hết các chỉ số nhân trắc. Không thấy khác biệt về thay đổi chỉ số WHZ score so với nhóm chứng và tẩy giun. Kết hợp tẩy giun và đa vi chất cải thiện cân nặng, chiều cao và các chỉ số Z - Score tốt hơn nhóm chứng và tẩy giun đơn thuần ở hầu hết các chỉ số (trừ WHZ); tốt hơn nhóm đa vi chất đơn thuần ở 3 chỉ số (tăng cân nặng, tăng WAZ và WHZ) nhưng chưa thấy khác biệt có ý nghĩa với chỉ số tăng chiều cao và tăng HAZ . 71 91,7 67,7 92,3 60,9 91,3 45,6 88,2 30 40 50 60 70 80 90 100 110 Tỷ lệ (% ) CTR TG ĐVC TG + ĐVC Nhẹ cân Thấp còi Biểu đồ 1. Tỷ lệ suy sinh dưỡng nhẹ cân, thấp còi khi kết thúc can thiệp 144 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Biểu đồ 1 cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi và suy dinh dưỡng nhẹ cân của các nhóm ở cuối can thiệp, suy dinh dưỡng thấp còi giảm được 8,3% (nhóm chứng), các nhóm khác giảm nhiều hơn và đạt 11,8% (nhóm tẩy giun + đa vi chất), tuy nhiên sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê. Suy dinh dưỡng nhẹ cân cũng còn tỷ lệ khá cao cho các nhóm nghiên cứu, nhóm tẩy giun + đa vi chất có tỷ lệ thấp nhất (45,6%) sau đó đến các nhóm đa vi chất, tẩy giun và cao nhất là nhóm chứng (71%). Biểu đồ 2 cho thấy hiệu quả can thiệp thực của các dạng can thiệp tới suy dinh dưỡng thể nhẹ cân theo nhóm tuổi. Hiệu quả can thiệp tăng dần từ tẩy giun đơn thuần 14,5%, bổ sung đa vi chất đơn thuần 20,3%, cao nhất là phối hợp tẩy giun + đa vi chất 39,7%. Khi so sánh theo nhóm tuổi < 24 tháng và ≥ 24 tháng, hiệu quả can thiệp cho thấy nhóm tuổi nhỏ có hiệu quả tốt hơn có ý nghĩa (p < 0,01) so với nhóm tuổi lớn, hiệu quả can thiệp càng cao khi tuổi càng nhỏ. Nhóm tuổi nhỏ: hiệu quả can thiệp là 35,6%; 40,1%, và 35,1% cho các nhóm tẩy giun, đa vi chất và tẩy giun + đa vi chất; trong khi nhóm tuổi lớn hơn có hiệu quả can thiệp là 0,1%; 8,7%; và 30,9%. Biểu đồ 2. Hiệu quả của 3 nhóm can thiệp tới tỷ lệ suy dinh dưỡng nhẹ cân, theo nhóm tuổi 35,6 0,1 14,5 40,1 8,7 20,3 35,1 30,9 39,7 0 10 20 30 40 50 H iệ u qu ả ca n th iệ p th ự c (% ) TG ĐVC TG + ĐVC < 24 tháng ≥ 24 tháng Chung 0,1 8,1 4,8 8,4 4,4 5,8 16,4 5,9 8,9 0 5 10 15 20 H iệ u qu ả ca n th iệ p th ự c (% ) TG ĐVC TG + ĐVC < 24 tháng ≥ 24 tháng Chung Biểu đồ 3. Hiệu quả của 3 nhóm can thiệp tới lệ suy dinh dưỡng thấp còi, theo nhóm tuổi TCNCYH 82 (2) - 2013 145 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Biểu đồ 3 cho thấy hiệu quả can thiệp thực của các dạng can thiệp tới suy dinh dưỡng thể thấp còi, theo nhóm tuổi. Hiệu quả can thiệp của các can thiệp tẩy giun và bổ sung đa vi chất tốt hơn trên nhóm trẻ dưới 24 tháng tuổi so với nhóm trên 24 tháng tuổi (trừ nhóm tẩy giun đơn thuần): Nhóm trẻ dưới 24 tháng tuổi có hiệu quả can thiệp lần lượt là 0,1%; 8,4% và 16,4% trong khi đó nhóm trẻ trên 24 tháng tuổi có hiệu quả can thiệp là 8,1%; 4,4% và 5,9% theo thứ tự cho các nhóm tẩy giun, đa vi chất và tẩy giun + đa vi chất. IV. BÀN LUẬN Chọn mẫu và phân nhóm can thiệp: Đối tượng cho nghiên cứu can thiệp của chúng tôi là trẻ suy dinh dưỡng thấp còi, lứa tuổi 12 - 36 tháng, trong đó có nhóm trẻ ở lứa tuổi 12 - 24 tháng là lứa tuổi chưa được chỉ định tẩy giun đại trà ở Việt Nam. 284 trẻ suy dinh dưỡng thấp còi của 26 thôn bản, được chia ra 4 nhóm trẻ ngẫu nhiên theo đơn vị thôn. Do vậy có 2 nhóm được tẩy giun là nhóm tẩy giun đơn thuần và nhóm tẩy giun + đa vi chất; 2 nhóm không bị nhiễm giun là nhóm chứng (CTR) và nhóm bổ sung đa vi chất đơn thuần. Với thiết kế như vậy có thể đánh giá được hiệu quả của tẩy giun đơn thuần, hiệu quả của bổ sung đa vi chất đơn thuần và hiệu quả của phối hợp tẩy giun và đa vi chất trên trẻ suy dinh dưỡng thấp còi. Về hiệu quả của tẩy giun: So với nhóm chứng, nhóm tẩy giun đơn thuần có xu hướng tốt hơn tới tăng cân nặng, chiều cao, các chỉ số Z score, tuy sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Tương tự, chỉ số hiệu quả của tẩy giun cũng đạt 14,5% với suy dinh dưỡng nhẹ cân, và 4,8% với suy dinh dưỡng thấp còi. Hiệu quả chưa có ý nghĩa thống kê với tăng cân, tăng chiều cao của nhóm tẩy giun so với nhóm chứng. Điều này có thể giải thích bằng một số yếu tố liên quan: khẩu phần ăn của nhóm tẩy giun và nhóm chứng đều trong tình trạng nghèo nàn, thiếu nhiều chất dinh dưỡng (số liệu được công bố trong báo cáo khác), do vậy tẩy giun đơn thuần chưa đủ thúc đẩy tăng trưởng cân nặng chiều cao của trẻ. Mặt khác, tại địa bàn nghiên cứu, các yếu tố liên quan của nhiễm giun: môi trường, điều kiện vệ sinh, tập quán và thói quen ăn uống sinh hoạt của người dân còn lạc hậu, tái nhiễm giun xảy ra rất nhanh chóng. Một số nghiên cứu cho thấy nếu không thay đổi điều kiện môi trường, chỉ 6 tuần sau trẻ đã bị tái nhiễm như trước khi tẩy giun [6]. Nghiên cứu của chúng tôi có hạn chế là không đánh giá mức độ tái nhiễm của trẻ sau can thiệp, do vậy không khẳng định được sau bao lâu thì trẻ bị nhiễm giun trở lại. Tại những vùng nhiễm giun cao, như địa bàn nghiên cứu của chúng tôi, cần thử nghiệm áp dụng tẩy giun với khoảng cách gần hơn (ví dụ 4 tháng 1 lần) như WHO đưa ra khuyến nghị [3]. Hiệu quả của bổ sung đa vi chất: Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy bổ sung đa vi chất đơn thuần có hiệu quả tốt hơn có ý nghĩa (p < 0,01) so với nhóm chứng, cả về tốc độ tăng cân nặng, tăng chiều cao và cải thiện các chỉ số Z score. Bổ sung đa vi chất đơn thuần cũng cho hiệu quả tốt hơn ý nghĩa so với nhóm tẩy giun đơn thuần ở hầu hết các chỉ số nhân trắc, trừ chỉ số WHZ score. Kết quả này của chúng tôi, phù hợp với kết quả của một số tác giả khác ở Việt Nam, bổ sung đa vi chất trên trẻ suy dinh dưỡng thấp còi hoặc trẻ nhỏ nguy cơ suy dinh dưỡng và thiếu vi chất dinh dưỡng cao nói chung. Các kết quả nghiên cứu chứng minh, gói đa vi chất sử dụng tại gia đình, trộn với bát bột hoặc cháo là một giải pháp hợp lý, có thể phát triển 146 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC trên diện rộng ở nước ta, tại các vùng nông thôn khó khăn [7, 8]. Kết quả của chúng tôi còn chứng minh: hiệu quả của bổ sung đa vi chất tốt hơn với trẻ lứa tuổi 12 - 24 tháng so với nhóm trẻ ≥ 24 tháng. Hiệu quả can thiệp thực của đa vi chất trên nhóm trẻ 12 - 24 tháng là 40,1% và 8,4% trong khi nhóm tuổi 24 - 36 tháng chỉ đạt 8,7% và 4,4%, cho suy dinh dưỡng nhẹ cân và suy dinh dưỡng thấp còi. Kết quả của chúng tôi có ý nghĩa rất quan trọng trong chiến lược can thiệp phòng chống suy dinh dưỡng bằng bổ sung vi chất sớm. Chính sách can thiệp sớm cũng được WHO khuyến nghị cho các nước áp dụng, các can thiệp bổ sung đa vi chất có thể tiến hành cho trẻ từ 6 tháng tuổi, thậm chí một số vi chất cần được bổ sung sớm hơn nếu có dấu hiệu thiếu rõ ràng. Trong những năm tới, nếu điều kiện kinh phí chưa cho phép, chương trình quốc gia nên tập trung đa vi chất can thiệp cho trẻ ở những vùng khó khăn có tỷ lệ suy dinh dưỡng cao, nhằm hạ nhanh tỷ lệ suy dinh dưỡng. Về hiệu quả của kết hợp tẩy giun và bổ sung đa vi chất: Một trong những điểm mới trong nghiên cứu của chúng tôi là đánh giá hiệu quả của biện pháp kết hợp tẩy giun và bổ sung đa vi chất sớm cho trẻ thấp còi (12 - 36 tháng tuổi), tại vùng dân tộc Pakoh và Vân Kiều, nơi có tỷ lệ suy dinh dưỡng và nhiễm giun cao. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi đã cho thấy kết hợp 2 biện pháp cho hiệu quả hiệp đồng, tốt hơn rõ rệt so với từng biện pháp can thiệp đơn lẻ tẩy giun hoặc bổ sung đa vi chất. Các chỉ số tăng cân nặng, tăng chiều cao, thay đổi các chỉ số Z-score WAZ, HAZ, WHZ (bảng 3) đều tốt hơn có ý nghĩa thống kê (p < 0,001) so với nhóm chứng và nhóm tẩy giun đơn thuần. Trong khi so với nhóm đa vi chất đơn thuần, nhóm kết hợp 2 biện pháp tẩy giun + đa vi chất cũng tốt hơn rõ rệt (p < 0,01) ở chỉ số tăng cân nặng, tăng WAZ và tương đồng về chỉ số tăng chiều cao và tăng HAZ score. Tác giả Trần Thuý Nga và cộng sự năm 2010 cũng công bố tác dụng hiệp đồng của tẩy giun và đa vi chất trên trẻ em lứa tuổi tiểu học. Các tác giả đã bổ sung bánh quy tăng cường vi chất trong thời gian 4 tháng kết hợp với tẩy giun cho trẻ 6 - 8 tuổi. Tác giả thấy rằng bổ sung kết hợp đa vi chất làm tăng hiệu quả của tẩy giun. Tỷ lệ tái nhiễm giun ở nhóm kết hợp với đa vi chất giảm thấp hơn rõ rệt so với nhóm không được bổ sung đa vi chất. Từ đó tác giả khuyến nghị có thể sử dụng bánh quy đa vi chất trong phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng ở trẻ em học đường, đồng thời góp phần giảm tái nhiễm giun ở lứa tuổi này [5]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với một số nghiên cứu khác tại Ấn Độ, Nepal, Kenya [9, 10, 11]. V. KẾT LUẬN Tẩy giun và bổ sung đa vi chất cho trẻ suy dinh dưỡng thấp còi có tác dụng tăng cân nặng, chiều cao, giảm suy dinh dưỡng thể nhẹ cân và thấp còi của trẻ. Bổ sung đa vi chất có hiệu quả tốt hơn tẩy giun đơn thuần. Can thiệp phối hợp bổ sung đa vi chất và tẩy giun có tác dụng hiệp đồng làm tăng hiệu quả tăng cân nặng, chiều cao của trẻ và giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng nhẹ cân và thấp còi. Can thiệp cho trẻ dưới 24 tháng tuổi có tác dụng tốt hơn so với trẻ trên 24 tháng tuổi. Khuyến nghị Chương trình phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em cần quan tâm bổ sung đa vi chất sớm kết hợp tẩy giun cho trẻ ở những vùng nhiễm giun và tỷ lệ suy dinh dưỡng cao. Lời cảm ơn Nhóm nghiên cứu chúng tôi xin chân thành cảm ơn cán bộ Y tế, hộ gia đình và bà mẹ TCNCYH 82 (2) - 2013 147 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC huyện Đăk Rông, tỉnh Quảng Trị đã tạo điều kiện thuận lợi và tình nguyện tham gia nghiên cứu này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Black RE, Allen LH, Bhutta

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhieu_qua_cua_bo_sung_da_vi_chat_dinh_duong_va_tay_giun_den_t.pdf
Tài liệu liên quan