2. Kiến nghị
Cần có sự kết hợp giữa chính quyền địa
phương, các cơ quan chuyên môn và người khai
thác trong việc thực thi các giải pháp liên quan
đến quy hoạch, chính sách và kỹ thuật nhằm phát
triển nghề khai thác tôm hùm gống theo hướng
bền vững.
Cần có các nghiên cứu tổng thể về hiện trạng
khai thác tôm hùm giống trên phạm vi cả nước để
làm cơ sở cho việc xây dựng và ban thành các quy
định, văn bản liên quan nhằm quản lý nghề khai thác
tôm hùm giống phát triển theo hướng bền vững.
6 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 161 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiện trạng khai thác tôm hùm giống tại vịnh Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 51
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
HIỆN TRẠNG KHAI THÁC TÔM HÙM GIỐNG
TẠI VỊNH VÂN PHONG, TỈNH KHÁNH HÒA
STATUS OF SEED LOBSTERS FISHING IN VAN PHONG BAY,
KHANH HOA PROVINCE
Vũ Như Tân1, Trần Văn Dũng2
Ngày nhận bài: 22/4/2013; Ngày phản biện thông qua: 25/9/2013; Ngày duyệt đăng: 02/6/2014
TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện trong năm 2012 – 2013 nhằm đánh giá hiện trạng của nghề khai thác tôm hùm giống tại
vịnh Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành điều tra, thu mẫu và phỏng vấn 243 hộ trong
tổng số 618 hộ khai thác tôm hùm giống trong vịnh Vân Phong. Kết quả nghiên cứu cho thấy tôm hùm giống chủ yếu được
khai thác bằng hình thức lưới mành (72,02%), bẫy (21,81%) và lặn (6,17%). Các loài tôm hùm giống được khai thác chủ
yếu cho nghề nuôi thương phẩm là tôm hùm bông (Panulirus ornatus) và tôm hùm xanh (P. Homarus). Mùa khai thác chính
bắt đầu vào tháng 10 đến tháng 4 năm sau, tập trung vào các tháng 12, 1 và 2. Sản lượng tôm giống khai thác đạt 369.119
con với giá trị ước tính trên 76 tỷ đồng. Tuy nhiên, nhiều bất cập còn tồn tại trong nghề khai thác tôm hùm giống ở địa
phương như kích cỡ giống quá nhỏ, tỷ lệ hao hụt cao, phương pháp khai thác chưa theo hướng bền vững, tác động tiêu cực
đến nguồn lợi san hô và ô nhiễm môi trường. Nghiên cứu cũng đề xuất một số giải pháp liên quan đến kỹ thuật, quy hoạch
và chính sách nhằm góp phát triển nghề khai thác tôm hùm giống theo hướng bền vững.
Từ khóa: khai thác, tôm hùm giống, hiện trạng, vịnh Vân Phong, bẫy, lưới mành, lặn
ABSTRACT
The survey was conducted between 2012 and 2013 in order to evaluate the status of seed lobsters exploitation in
Van Phong bay, Khanh Hoa province. In this survey, 243 samples in the total of 618 seed lobsters exploiting households in
Van Phong bay were investigated and interviewed by common survey methods. The result showed that lobster juveniles are
mainly caught by the methods of seine net (72.02%), traps (21.81%) and diving (6.17%). The major species exploited for
grow-out culture here were ornate spiny lobster (Panulirus ornatus) and scalloped spiny lobster (P. Homarus). The major
harvesting season is from October to April of the following year, focusing on December, January and February. The number
of estimately harvested seed lobsters was 369.119 lobsters with the values of over 76 billion VND. However, there have
still been many problems in the lobsters exploiting industry in the local areas such as small size, high mortality rate, using
unsustainable exploiting methods, affecting the coral resources and environmental pollution. The study also put forward a
large number of solutions related to techniques, plans and policies in order to develop the seed lobster fi shing industry in
the local areas conformable to the sustainable.
Keywords: exploiting, seed lobster, status, Van Phong bay, trap, seine net, diving
1 ThS. Vũ Như Tân: Viện Khoa học và Công nghệ khai thác thủy sản - Trường Đại học Nha Trang
2 ThS. Trần Văn Dũng: Viện Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Vùng biển Khánh Hòa có nhiều điều kiện
tự nhiên thuận lợi cho nghề khai thác tôm hùm
giống và nuôi tôm hùm thương phẩm (với chiều
dài 385km đường bờ biển khúc khuỷu và các đảo
ven bờ) [4]. Khánh Hòa là một trong ba tỉnh (cùng
với Bình Định và Phú Yên) có sản lượng khai thác
tôm hùm giống cao nhất cả nước [6]. Khu vực này
có nền đáy đá, nhiều hang hốc, rạn san hô, nhiều
đảo, vịnh kín gió, môi trường ổn định, rất phù hợp
cho tôm hùm sinh sống giai đoạn ấu trùng và con
non. Trong đó, vịnh Vân Phong là một trong những
khu vực thuận lợi nhất cho nghề khai thác tôm
hùm giống.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2014
52 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Nghề khai thác tôm hùm giống ở Khánh Hòa
nói chung và vịnh Vân Phong nói riêng bắt đầu từ
đầu những năm 1990 [8]. Đến nay, sản lượng và
giá trị của nghề khai thác và nuôi tôm hùm giống
liên tục tăng. Trong vụ khai thác tôm hùm giống
2005 - 2006, tổng số tôm hùm bông và tôm hùm
xanh khai thác được trên cả nước là 2.412.075 con
giống nhưng đến vụ 2007 - 2008 số lượng lên đến
3.009.967 con giống [6]. Nhu cầu về tôm hùm giống
sử dụng cho nuôi thương phẩm liên tục tăng nhanh:
năm 1999 nhu cầu về tôm hùm giống chỉ mới 0,5
triệu con nhưng đến năm 2003 nhu cầu đã tăng lên
tới trên 3,5 triệu con [9]. Cùng với đó, số lồng nuôi
tôm hùm thương phẩm ở Việt Nam đã tăng nhanh từ
năm 1999 và đạt đỉnh cao vào năm 2006 với khoảng
49.000 lồng cho sản lượng khoảng gần 1.900 tấn,
tương đương với khoảng 90 triệu đô la Mỹ [6]. Năm
2011, số lượng lồng nuôi tôm hùm ở Khánh Hòa lên
đến 27.700 lồng với sản lượng và giá trị hàng năm
ước đạt gần 1.000 tấn và trên 1.000 tỷ đồng [3].
Nghề khai thác tôm hùm giống phát triển đã có
những đóng góp tích cực đối với cộng đồng dân cư
ven biển vịnh Vân Phong. Nhiều ngành nghề phụ
trợ ra đời cùng với sự phát triển của nghề khai thác
tôm hùm giống và nuôi tôm hùm thương phẩm như
nghề sản xuất ngư cụ, khai thác cá tạp và nhiều
dịch vụ nuôi trồng thủy sản khác. Sự phát triển của
những ngành nghề này đã tạo công ăn việc làm,
tăng thu nhập và cải thiện đời sống của nhiều cộng
đồng cư dân ven biển vịnh Vân Phong.
Tuy nhiên, do nguồn tôm hùm giống cung cấp
cho nuôi thương phẩm hiện nay vẫn phụ thuộc hoàn
vào nguồn lợi tự nhiên. Lợi nhuận cao mang lại từ
nghề khai thác tôm hùm giống đã dẫn đến người
dân khai thác ồ ạt, tự phát, không theo quy hoạch,
sử dụng các phương pháp khai thác không bền
vững. Hậu quả là đã gây ảnh hưởng xấu đến nguồn
lợi thủy sản nói chung và nguồn lợi tôm hùm giống
nói riêng. Tỷ lệ tôm giống hao hụt cao, ô nhiễm môi
trường và ảnh hưởng đến hệ sinh thái ven bờ là
những tác động tiêu cực thấy rõ từ nghề khai thác
tôm hùm giống. Nghiên cứu được thực hiện nhằm
đánh giá hiện trạng nghề khai thác tôm hùm giống ở
vịnh Vân Phong, trên cơ sở đó đề xuất một số giải
pháp phát triển theo hướng bền vững.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện trong năm 2012
và 2013 thông qua việc điều tra hiện trạng nghề
khai thác tôm hùm giống tại vịnh Vân Phong. Số
liệu thứ cấp được thu từ các báo cáo và tài liệu từ
các cơ quan chức năng địa phương và thông tin đã
xuất bản. Số liệu sơ cấp được thu thập thông qua
phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA) và
phương pháp điều tra qua phiếu (QS).
Trên cơ sở số hộ khai thác tôm hùm giống ở
vịnh Vân Phong (618 hộ) theo báo cáo nhanh của
Phòng Kinh tế huyện Vạn Ninh, tiến hành điều tra
ngẫu nhiên 243 hộ khai thác theo công thức của
Yamane [10]. Những thông tin chính được thu thập
gồm: Địa điểm, mùa vụ, hình thức, cường độ khai
thác; thành phần loài, kích cỡ con giống; những vấn
đề còn tồn tại của nghề khai thác tôm hùm giống.
Sản lượng tôm hùm giống khai thác được tính theo
phương pháp ước tính sản lượng của FAO [5]. Tiêu
chuẩn đánh giá chất lượng tôm hùm giống dựa trên
quyết định số 2383/2008/QĐ-BNN-NTTS của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn [1]. Trên cơ
sở đó, đề xuất một số giải pháp phát triển nghề khai
thác tôm hùm giống ở địa phương theo hướng bền
vững. Các số liệu sau khi thu thập được xử lý trên
phần mềm Microsoft Excel 2003.
Hình 1. Khu vực nghiên cứu
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Thông tin về người khai thác tôm hùm giống
Khu vực vịnh Vân Phong có 618 hộ khai thác
tôm hùm giống được phân bố ở các xã như Vạn
Thạnh, Đại Lãnh, thị trấn Vạn Giã, Vạn Thắng. Hầu
hết người khai thác đều trong độ tuổi lao động. Với
độ tuổi trung bình khoảng 40, hầu hết người khai
thác tôm hùm có sức khỏe tốt. Tuy nhiên, trình độ
học vấn thấp là một trong những trở ngại trong việc
phát triển bền vững nghề khai thác tôm hùm giống
tại địa phương.
Hình 2. Trình độ học vấn của người khai thác
tôm hùm giống tại vịnh Vân Phong (n = 243)
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 53
Kết quả điều tra cho thấy hầu hết người khai
thác tôm hùm giống có trình độ học vấn cấp 1 và
2 (52,26% và 32,51%). Trong khi đó, trình độ học
vấn cấp 3 chỉ gấp 1,5 lần so với số người mù chữ
(9,05% so với 6,17%). Ngoài ra, không ai có trình
độ từ trung cấp trở lên hoặc có chứng chỉ, bằng cấp
về chuyên ngành khai thác thủy sản. Điều này gây
ra những trở ngại lớn trong việc tiếp cận và sử dụng
các phương tiện khai thác tiên tiến, bền vững, các
văn bản quy định của cơ quan chức năng về khai
thác và sử dụng bền vững nguồn lợi tự nhiên ở địa
phương nói chung và tôm hùm giống nói riêng.
2. Địa điểm khai thác
Vịnh Vân Phong là khu vực khai thác tôm hùm
giống chủ yếu của ngư dân các xã Vạn Thạnh, Đại
Lãnh, Vạn Thắng, thị trấn Vạn Ninh, Vạn Hưng và
Ninh Phước với diện tích khoảng 80.000 ha. Khu
vực này có địa hình phong phú bao gồm hệ thống
đảo, bán đảo, vịnh sâu và kín gió. Đặc biệt đây là
khu vực có hệ sinh thái đa dạng như rừng nhiệt đới,
rừng ngập mặn, động thực vật biển nông ven bờ
kết hợp với nền đáy đá, san hô, nhiều hang hốc
là nơi thích hợp cho tôm hùm sinh sống giai đoạn
hậu ấu trùng và giai đoạn tôm con. Do vậy, đây là
địa điểm có tiềm năng rất lớn để khai thác tôm hùm
giống cho nghề nuôi thương phẩm. Các địa điểm
tập trung khai thác thác trên vịnh Vân Phong được
minh họa ở hình 3 là: Khu vực biển xung quanh Hòn
Lớn (5), Hòn Săng (6), Hòn Ong (7), ven biển xã
Vạn Thắng và Hòn Bịp (1), ven biển thị trấn Vạn
Giã (2), ven biển xã Vạn Hưng (3), ven biển xã Ninh
Phước (4). Bên cạnh đó, còn một số khu vực cũng
là ngư trường của nghề khai thác tôm hùm giống
nhưng tập trung với số lượng ít hơn như: Hòn Đỏ,
Hòn Mai, Hòn Tai và ven biển xã Ninh Thủy.
3. Phương thức khai thác
Tôm hùm giống trong vịnh Vân Phong được
khai thác bằng ba phương pháp chủ yếu là lưới
mành, bẫy và lặn bắt. Trong đó, phương pháp bẫy
thường sử dụng các dụng cụ như san hô, gỗ, cao su
và kết hợp với lưới. Trong quá trình khai thác, người
dân thường kết hợp sử dụng ánh sáng với hình thức
khai thác bằng lưới mành và bẫy nhằm gia tăng hiệu
quả khai thác.
Hình 3. Khu vực tập trung khai thác trên vịnh Vân Phong
Hình 4. Các phương pháp khai thác tôm hùm giống
tại vịnh Vân Phong (n = 243)
Tùy theo điều kiện tự nhiên cụ thể tại mỗi vùng,
người dân tiến hành sử dụng các loại ngư cụ khác
nhau để khai thác. Trong đó, hình thức khai thác
bằng lưới mành được người dân sử dụng nhiều nhất
chiếm 72,02% (175 hộ), tiếp theo là bẫy 21,81% (53
hộ), trong khi đó, chỉ có 6,17% số hộ khai thác bằng
hình thức lặn.
Mỗi phương pháp khai thác có ưu nhược điểm
riêng. Tùy thuộc vào độ sâu, sóng gió và vị trí trong
vịnh mà các hộ tiến hành sử dụng các phương pháp
khai thác khác nhau. Phương thức khai thác bằng
lưới mành (2a = 5 mm, chiều dài 150 m, chiều cao
4 – 6 m) kết hợp với ánh sáng đèn neon (hoặc đèn
cao áp) được sử dụng ở những vùng có sóng gió
nhỏ hơn cấp 6 và độ sâu dưới 15 m. Phương thức
khai thác bằng bẫy có thể áp dụng khai thác trên toàn
vịnh, ở độ sâu thấp khoảng từ 5 đến 10 m. Phương
pháp lặn bắt thường áp dụng cho những vùng có độ
sâu thấp dưới 5 m. Vào mùa vụ chính (từ tháng 10
đến tháng 4 năm sau), các hộ thường sử dụng cả ba
hình thức khai thác, trong khi đó, vào mùa phụ (tháng
5 - 9), phương pháp lặn bắt được áp dụng phổ biến.
Hình thức khai thác bằng lưới mành cho hiệu quả
cao hơn hai phương pháp còn lại. Tuy nhiên, kích
thước tôm hùm giống khai thác nhỏ (7 - 9 mm CL).
Tôm có màu trắng nên khó quan sát.
Tôm hùm khai thác theo hình thức bẫy thường
khỏe hơn so với tôm khai thác bằng lưới mành, nhưng
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2014
54 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
sản phẩm khai thác vẫn là tôm trắng (7 - 9 mm CL).
Ngoài ra, việc khai thác san hô làm bẫy còn ảnh
hưởng nghiêm trọng đến môi trường và nguồn lợi
san hô tự nhiên.
Hình thức lặn bắt thường thu được tôm giống
có kích thước lớn nhất (15 - 20 mm CL) - tôm bọ
cạp. Tôm có chất lượng tốt nhất so với các hình
thức đánh bắt khác.
4. Mùa vụ khai thác
Tôm hùm giống được khai thác quanh năm
nhưng tập trung từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau
(vụ chính). Trong đó, các tháng 12 đến tháng 2
cho số lượng con giống khai thác cao nhất. Vào
vụ khai thác chính, cả 3 hình thức khai thác đều
được áp dụng, trong khi chỉ có hình thức lặn được
sử dụng trong mùa khai thác phụ (từ tháng 5 đến
tháng 9).
Số ngày khai thác trong tháng có sự khác nhau
tùy thuộc hình thức khai thác. Đối với hình thức bẫy,
ngư dân thả bẫy từ tháng 9 cho đến tháng 4 hoặc
tháng 5 năm sau. Hình thức bẫy có số ngày khai
thác trong tháng lớn nhất 30 ngày, trong khi con
số này của hình thức lưới mành và lặn bắt lần lượt
là 18 ± 2,8 ngày và 15 ± 3,5 ngày. Thông thường,
những ngày biển động, lượng tôm hùm giống vào
bẫy hay lưới mành cao hơn so với ngày biển lặng.
Sự phân bố hình thức khai thác theo các tháng có
sự khác nhau được trình bày ở hình 4.
Hình 5. Tỉ lệ phần trăm hình thức khai thác theo mùa vụ
5. Thành phần loài và kích cỡ khai thác
Các loài tôm hùm giống khai thác được ở vịnh
Vân Phong chủ yếu là tôm hùm bông (Panulirus
ornatus) chiếm 65%, tôm hùm xanh (P. homarus)
chiếm 35%. Hầu hết người dân sử dụng hai loại tôm
này để ương nuôi thành tôm thương phẩm. Thành
phần khai thác mỗi loài cũng rất khác nhau và tùy
thuộc theo từng thời điểm.
Hình 6. Thành phần loài tôm hùm giống khai thác
ở vịnh Vân Phong
6. Sản lượng và giá trị
Kết quả khảo sát sản lượng và giá trị được trình bày ở bảng 1 và bảng 2.
Bảng 1. Ước lượng sản phẩm khai thác tôm hùm giống ở vịnh Vân Phong
TT Phương thức khai thác CPUE Số ngày hoạt động tiềm năng(ngày/năm) Số hộ khai thác
BAC
(%) Sản lượng
1 Lưới mành 15 142 175 85 316.838
2 Bẫy 5 186 53 90 44.361
3 Lặn 3 220 15 80 7.920
Tổng (con) 369.119
Bảng 2. Ước lượng giá trị khai thác tôm hùm giống ở vịnh Vân Phong
Loại tôm Tỉ lệ tôm giống (%) Số lượng từng loại Đơn giá Thành tiền (đồng)
Tôm hùm bông 65 239.927 280.000 67.179.567.000
Tôm hùm xanh 35 129.192 70.000 9.043.440.000
Tổng 76.223.007.000
Từ bảng 1 và 2 cho thấy, năng suất khai thác tôm
hùm giống phụ thuộc vào từng hình thức khai thác.
Hình thức lưới mành cho năng suất 10 - 20 con/tàu/
ngày, tiếp theo là bẫy 4 - 7 con/1000 bẫy/ngày và lặn
bắt được từ 2 đến 4 con/người lặn/ngày. Kích cỡ khai
thác tôm giống có sự phụ thuộc vào loại ngư cụ khai
thác. Trong đó, lưới mành và bẫy chủ yếu thu được
tôm trắng (7 - 9 mm CL) trong khi hình thức lặn chủ
yếu thu được tôm bọ cạp (15 - 20 mm CL).
Giá bán tôm hùm giống có sự biến động lớn
tùy thuộc vào loài, mùa vụ khai thác và nhu cầu nuôi
hàng năm, sản lượng tôm hùm xuất khẩu. Tôm hùm
bông có giá cao (150 - 330 ngàn đồng/con), trong
khi tôm hùm xanh có giá từ 40 - 80 ngàn đồng/con.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 55
Trong vụ khai thác 2012 - 2013, sản lượng
khai thác tôm hùm giống ở vịnh Vân Phong ước đạt
369.119 con, tương đương với khoảng 76 tỷ đồng.
7. Một số tồn tại trong nghề khai thác tôm hùm giống
Mặc dù mang lại hiệu quả kinh tế cao nhưng
nghề khai thác tôm hùm giống tại địa phương cũng
có những tác động tiêu cực đến nguồn lợi tôm hùm
và môi trường tự nhiên. Việc khai thác san hô để
làm bẫy đã ảnh hưởng đến nguồn lợi san hô, cá rạn
và hệ sinh thái ven bờ. Tỷ lệ hao hụt trong quá trình
ương nuôi thường lớn dao động 20 đến 50% [3].
Ngoài ra, nghề khai thác tôm hùm giống cũng ảnh
hưởng đến cảnh quan môi trường trong vịnh Vân
Phong, mâu thuẫn lợi ích với nhiều hoạt động kinh
tế khác như du lịch, vận tải biển, khai thác hải sản,
bãi tắm, nuôi lồng bè, Ngư cụ thải bỏ, dầu cặn,
rác thải sinh hoạt từ nghề khai thác tôm hùm giống
là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường tại các
vùng bãi biển vốn đã được quy hoạch phát triển các
hoạt động du lịch, làm xấu cảnh quan môi trường
tự nhiên.
8. Một số giải pháp phát triển nghề khai thác tôm
hùm giống theo hướng bền vững
Để phát triển nghề khai thác tôm hùm gống
theo hướng bền vững, cần có sự kết hợp giữa
chính quyền địa phương, các cơ quan chuyên
môn và người khai thác trong việc thực thi các giải
pháp liên quan đến quy hoạch, chính sách và kỹ
thuật. Trước hết, cần quy hoạch mùa vụ khai thác
tôm hùm giống trong năm. Nên khai thác tôm bọ
cạp (30 - 50 mm TL) thay vì tôm trắng nhằm góp
phần giảm hao hụt, nâng cao tỷ lệ sống trong quá
trình nuôi. Nên khoanh vùng khai thác luân phiên,
tránh khai thác tập trung tại một khu vực nhất định
gây cạn kiệt nguồn lợi tôm hùm giống. Đồng thời,
không sử dụng bẫy san hô trong quá trình khai
thác nhằm hạn chế tác động tiêu cực đến nguồn
lợi và hệ sinh thái san hô tự nhiên. Hình thức lặn
bắt cũng nên hạn chế nhằm giảm nguy cơ tai nạn
cho người khai thác. Hạn chế khai thác tôm bố
mẹ vào mùa sinh sản nhằm bảo tồn nguồn lợi tôm
hùm tự nhiên. Chính quyền địa phương và các cơ
quan chức năng cần tăng cường các biện pháp
tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức người
dân trong việc khai thác và sử dụng nguồn lợi tôm
hùm giống. Đồng thời nắm vững và thực thi các
chính sách liên quan đến bảo vệ nguồn lợi và môi
trường vùng nuôi tôm hùm. Bên cạnh đó, cần xây
dựng mô hình đồng quản lý hoặc quản lý nghề cá
dựa vào cộng đồng để đảm bảo việc khai thác tôm
hùm giống mang tính bền vững.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Từ kết quả điều tra khảo sát thực trạng nghề
khai thác tôm hùm giống tại vịnh Vân Phong, nghiên
cứu đã chỉ ra rằng:
Nghề khai thác tôm hùm giống ở đây có thể sử
dụng các ngư cụ thô sơ, tự chế như bẫy san hô kết
hợp lưới, lưới mành kết hợp ánh sáng, nghề lặn bắt.
Trong đó, lưới mành chiếm tỷ lệ cao nhất 72,1%.
Nghề khai thác tôm hùm giống có thể coi là
nghề lao động giản đơn, chủ yếu dùng sức người,
lấy công làm lãi.
Hầu hết ngư dân là những người có học vấn
thấp thậm chí không biết chữ (6,2%), trình độ cấp
tiểu học chiếm tỷ lệ cao (52,3%).
Thời gian khai thác tôm hùm giống ở đây diễn
ra hầu như quanh năm nhưng khai thác tập trung từ
tháng 10 đến tháng 4 năm sau, đánh bắt cả vào thời
gian ôm trứng của tôm bố mẹ.
Đối tượng khai thác tôm hùm giống ở đây chủ
yếu là tôm hùm bông, tôm hùm xanh. Hai loài này
được người nuôi tôm thương phẩm tiêu thụ.
Thành phần sản phẩm khai thác chia làm 2 loại:
tôm hùm trắng và tôm hùm bọ cạp trong đó chủ yếu
là tôm hùm trắng có kích cỡ nhỏ (7 - 9 mm CL).
Sản lượng và giá trị tôm hùm giống khai thác
ở vịnh Vân Phong ước đạt 369.119 con và trên 76
tỷ đồng.
Nhiều bất cập còn tồn tại trong nghề khai thác
tôm hùm giống tại vịnh Vân Phong liên quan đến
vấn đề ô nhiễm môi trường, suy giảm nguồn lợi tôm
hùm giống và sự phát triển bền vững của nghề tại
địa phương.
Một số giải pháp bước đầu được đưa ra nhằm
hạn chế tác động tiêu cực và phát triển nghề khai
thác tôm hùm giống.
2. Kiến nghị
Cần có sự kết hợp giữa chính quyền địa
phương, các cơ quan chuyên môn và người khai
thác trong việc thực thi các giải pháp liên quan
đến quy hoạch, chính sách và kỹ thuật nhằm phát
triển nghề khai thác tôm hùm gống theo hướng
bền vững.
Cần có các nghiên cứu tổng thể về hiện trạng
khai thác tôm hùm giống trên phạm vi cả nước để
làm cơ sở cho việc xây dựng và ban thành các quy
định, văn bản liên quan nhằm quản lý nghề khai thác
tôm hùm giống phát triển theo hướng bền vững.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2014
56 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2008. Quyết định số 2383/2008/QĐ-BNN-NTTS ngày 6 tháng 8 năm 2008 về việc
ban hành Quy định tạm thời về nuôi tôm hùm.
2. Phòng Kinh tế thành phố Nha Trang, 2011. Báo cáo Kết quả thực hiện Kế hoạch tháo dỡ bẫy nhử tôm hùm đặt trái phép trên
vùng biển vịnh Nha Trang.
3. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Khánh Hòa, 2011. Báo cáo thường niên.
4. Nguyễn Duy Toàn, 2007. Bài giảng Địa lý kinh tế nghề cá. Trường Đại học Nha Trang.
Tiếng Anh
5. FAO, 2004. Safety in sampling. Methodological notes in FAO Fisheries Technical Paper 454.
6. Hung Lai Van and Tuan Le Anh, 2008. Lobster seacage culture in Vietnam. In: Spiny lobster aquaculture in the Asia–Pacifi c
region (ed.: Kevin C. Williams) Proceedings of an international symposium held at Nha Trang, Vietnam: 10-17.
7. Long Nguyen Van and Hoc Dao Tan, 2008. Census of lobster seed captured from the central coastal waters of Vietnam for
aquaculture grow-out, 2005 - 2008. In: Spiny lobster aquaculture in the Asia -Pacifi c region (Ed: Kevin C. Williams): 52-58.
8. Thuy Nguyen Thi Bich and Ngoc Nguyen Bich, 2004. Current status and exploitation of wild spiny lobsters in Vietnamese
waters. In: Spiny lobster ecology and exploitation in th e South China Sea region (ed.: Kevin C.Williams): 13-16.
9. Tuan Le Anh and Mao Nguyen Dinh, 2004. Present Status of Lobster Cage Culture in Vietnam. In: Spiny lobster ecology
and exploitation in the South China Sea region (ed.: Kevin C.Williams). Proceedings of a workshop held at the Institute of
Oceanography, Nha Trang, Vietnam, July 2004: 21-25.
10. Yamane, T., 1967. S tatistics: An Introductory Analysis, 2nd Ed., New York: Harper and Row.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hien_trang_khai_thac_tom_hum_giong_tai_vinh_van_phong_tinh_k.pdf