IV. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu trên các mẫu được chuẩn
bị theo cách được sử dụng thông thường (mẫu
hai mảnh vỏ, chân bụng, giáp xác còn nguyên nội
tạng và mẫu chân đầu đã bỏ nội tạng) cho thấy
sự ô nhiễm cadimi ở các loài động vật thân mềm
và giáp xác được tiêu dùng phổ biến ở thành phố
Nha Trang ở thời điểm lấy mẫu là tương đối thấp
và dưới mức cho phép được qui định bởi Châu Âu
và Việt Nam. Bên cạnh đó kết quả còn cho thấy
hàm lượng cadimi trong nhóm hai mảnh vỏ và chân
bụng ở mùa mưa cao hơn mùa khô. Đây là các dữ
liệu có giá trị cho việc đánh giá phơi nhiễm và đánh
giá nguy cơ của người dân thành phố Nha Trang
đối với cadimi do ăn các loài động vật thân mềm
và giáp xác.
6 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 467 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hàm lượng cadimi trong các loài động vật thân mềm và giáp xác ở Nha Trang - Nguyễn Thuần Anh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 3
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
HÀM LƯỢNG CADIMI TRONG CÁC LOÀI ĐỘNG VẬT THÂN MỀM
VÀ GIÁP XÁC Ở NHA TRANG
CADMIUM CONCENTRATIONS IN MOLLUSCS AND CRUSTACEANS
IN NHA TRANG
Nguyễn Thuần Anh1
Ngày nhận bài: 16/6/2013; Ngày phản biện thông qua: 12/4/2013; Ngày duyệt đăng: 13/8/2014
TÓM TẮT
Mục đích của nguyên cứu này nhằm cung cấp những thông tin có giá trị cho việc đánh giá phơi nhiễm và đánh giá
nguy cơ của người dân thành phố Nha Trang đối với cadimi do tiêu thụ các loài động vật thân mềm và giáp xác. Hàm
lượng cadimi được khảo sát trong các loài động vật thân mềm và giáp xác được tiêu dùng phổ biến từ tháng 5/2008
đến tháng 1/2009 bằng phương pháp ICP-MS. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng hàm lượng cadimi nằm trong khoảng
0.012-0.073 mg.kg-1 và dưới giới hạn tối đa của Qui định về an toàn thực phẩm của Việt Nam (46/2007/QD-BYT) và Châu
Âu (1881/2006/EC).
Từ khóa: động vật thân mềm, giáp xác, cadimi, kim loại nặng, Nha Trang
ABSTRACT
The aim of this study was to provide useful information for exposure evaluation and risk assessment of Nha trang
consumers to cadmium contaminants due to molluscous and crustaceous consumption. Cadmium contamination levels
have been investigated by Inductively Coupled Plasma- Mass Spectrometry (ICP-MS) from May 2008 to January 2009
in some molluscs and crustaceans popularly consumed. This study shows that cadmium concentations in molluscs and
crustaceans in locall markets in Nha trang are range from 0.012 to 0.073 mg.kg-1 and within the maximum limit of
regulatory of Vietnam (46/2007/QD-BYT) and European community (1881/2006/EC).
Keywords: Molluscs, crustaceans, cadmium, heavy metals, Nha Trang
1 TS. Nguyễn Thuần Anh: Khoa Công nghệ thực phẩm - Trường Đại học Nha Trang
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cadimi (Cd) là một trong số các kim loại nặng
có tính tích lũy và gây hại cho sức khỏe con người
ngay cả khi tồn tại ở dạng vết (Järup và cs, 1998;
ATSDR, 1999; Liu và cs, 2008). Cadimi có trong
môi trường do các hoạt động của tự nhiên (như hoạt
động của núi lửa, sự rửa trôi của đất) hoặc do
hoạt động của con người (sự đốt than và đốt các
sản phẩm dầu lửa, sự cải tạo đất, sự đốt rác sinh
hoạt) (Bisson và cs, 2005). Cadimi ảnh hưởng
chủ yếu lên thận, ngoài ra còn tác động lên phổi,
máu, gây độc lên xương do làm rối loạn quá trình
chuyển hóa canxi và gây rối loạn chức năng gan
(JECFA, 1989). Trung tâm nghiên cứu ung thư quốc
tế đã xếp cadimi vào nhóm các chất gây ung thư
cho người dựa trên các nghiên cứu trên động vật và
các nghiên cứu ở những người nhiễm cadimi do các
hoạt động nghề nghiệp (IARC, 1993). Cadimi nhiễm
vào cơ thể người qua đường hô hấp và đường ăn
uống (Dab và cs, 1999; EFSA, 2009).
Các loài động vật thân mềm và giáp xác được
tiêu dùng phổ biến được chọn làm đối tượng để
đánh giá mức độ ô nhiễm cadimi vì chúng được coi
là nguồn thực phẩm quan trọng cung cấp protein,
khoáng và axit béo không no như omega 3 nhưng
lại có khả năng tích tụ các chất ô nhiễm, đặc biệt là
kim loại nặng (Miquel, 2001).
Việc thực hiện nghiên cứu này là cần thiết để
xác định hàm lượng cadimi trong các loài động vật
thân mềm và giáp xác được tiêu dùng phổ biến
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2014
4 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Kết quả nghiên cứu của Nguyen và cs (2010) cho thấy, chỉ có 2% và 3% động vật thân mềm và giáp xác
được mua ở cảng và siêu thị nên không cấu thành nên mẫu thành phần. Với các tỷ lệ mua ở nhà hàng (10%),
chợ tạm (30%) và chợ (55%) sẽ cấu thành nên cơ cấu lấy mẫu. Cụ thể, 10% hải sản được mua ở nhà hàng thì
số mẫu được lấy ở nhà hàng là 1; 30% hải sản được mua ở chợ tạm nên số mẫu được lấy ở chợ tạm là 2 và
55% hải sản được mua ở chợ nên số mẫu được lấy ở chợ là 3 (hình 1). Vậy tổng số 6 mẫu (1 mẫu ở nhà hàng,
2 mẫu ở chợ tạm và 3 mẫu ở chợ) (200 g/1 mẫu) được gộp lại và đồng hóa để có được mẫu đồng nhất (1200 g)
đem phân tích. Nguồn gốc và phân bố của 6
mẫu thành phần như sau: 1 mẫu thành phần ở
nhà hàng Biển Ngọc, 2 mẫu thành phần ở chợ
tạm và 3 mẫu thành phần ở chợ Xóm Mới. Năm
đợt lấy mẫu được tiến hành ở 2 mùa: mùa khô
(tháng 5 và 7 năm 2008) và mùa mưa (tháng
9, 11 năm 2008 và tháng 1 năm 2009). Số mẫu
hỗn hợp để phân tích cadimi là 20 mẫu.
ở thành phố Nha Trang, một thành phố đại diện cho
thành phố ven biển miền Trung trong tiêu thụ các
loài thủy hải sản này. Nghiên cứu góp phần cung
cấp nguồn số liệu cho việc đánh giá nguy cơ của
người tiêu dùng đối với cadimi do tiêu thụ các loài
động vật thân mềm và giáp xác để từ đó có cơ sở
đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm an toàn
thực phẩm cho người tiêu dùng.
II. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Kế thừa kết quả khảo sát của Nguyen và cs
(2010), 19 loài động vật thân mềm và giáp xác
được tiêu dùng phổ biến (ốc nhảy, ốc hương, ốc
vú nàng, ốc bàn tay, ốc đụn, mực ống, vẹm xanh,
hàu, điệp, ngao dầu, ngao vân, sò lông, ngao
móng tay, sò huyết, bàn mai, cua, moi, ghẹ, tôm)
đã được chọn lựa để lấy mẫu và xác định hàm
lượng cadimi. 4 mẫu hỗn hợp (hai mảnh vỏ, chân
đầu, chân bụng và giáp xác) đã được chuẩn bị để
làm giảm số mẫu mà không làm giảm độ chính
xác của kết quả (WHO, 1985). Tỷ lệ các loài động
vật thân mềm và giáp xác trong mỗi hỗn hợp mẫu
thành phần được kế thừa từ số liệu của cuộc điều
tra tiêu thụ (Nguyen và cs, 2010) và được trình
bày ở bảng 1.
Bảng 1. Tỷ lệ các loài động vật thân mềm và giáp xác trong mỗi hỗn hợp mẫu thành phần
Hỗn hợp mẫu Tên khoa học % trong hỗn hợp Khối lượngmẫu
Số lượng cá thể
được lấy ở nơi bán
Hai mảnh vỏ
Perna viridis
Anadara granosa
Anadara subcrenata
Comptopallium radula
Solen grandis
Meretrix meretrix
Crassostrea belcheri
Pinna bicolor
Meretrix lusoria
Tổng
32,6
3,9
9.1
11,7
4,3
10,9
12,5
3,5
11,5
100
65,1
7,8
18,1
23,4
8,7
21,9
25,0
7,1
22,9
200
7
4
5
4
3
5
4
2
5
Giáp xác
Penaneus monodon
Acetes erythraeus
Scylla paramamosain
Portunus sanguinolentus
Tổng
41,1
6,3
8,2
44,2
100
82,0
12,0
17,0
89,0
200
5
20
2
2
Chân bụng
Cellana testudinaria
Tectus pyramis
Strombus luhuanus
Lambis lambis
Babylonia arealata
Tổng
14,1
9,0
41,9
12,2
20,6
100
28,2
18,0
88,4
24,4
41,0
200
4
3
8
4
6
Chân đầu Loligo edulis Hoyle 100 200 3
Hình 1. Cấu thành nên mẫu thành phần tùy theo nơi bán
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 5
Theo hướng dẫn chuẩn bị mẫu của Cộng đồng
chung Châu Âu 333/2007/EC (EC, 2007), các mẫu
phân tích các loài hai mảnh vỏ, chân bụng và giáp
xác là các phần ăn được bao gồm cả nội tạng,
riêng mẫu phân tích các loài chân đầu phải loại bỏ
nội tạng.
Các mẫu xác định cadimi được sấy khô trong tủ
Memert (Đức) ở 1050C đến khối lượng không đổi.
Sau đó 0,5 g mẫu khô được vô cơ hóa với 5 ml HNO3
và 2ml H2O2 trong lò vi sóng MWS2 - BERGHOF
(Đức). Hàm lượng cadimi được xác định bằng
phương pháp ICP-MS (Varian, MS - 820). Các mẫu
trắng và phân tích đôi được thực hiện để kiểm soát
độ tin cậy của quá trình phân tích. Độ lệch được
khảo sát bằng cách xác định hiệu suất thu hồi. Sự
khác biệt của hàm lượng cadimi được đánh giá
bằng ANOVA với phép thử Tukey bằng phần mềm
SPSS verson 16. Sự khác biệt được coi là có ý
nghĩa thống kê khi p < 0.05.
Hàm lượng cadimi (mg/kg) trong mẫu ướt được
tính như sau: B = Ck. A/100 (B (mg/kg): hàm lượng
cadimi (mg/kg) trong mẫu ướt, Ck: Hàm lượng
cadimi (mg/kg) trong mẫu khô, A: hàm lượng
chất khô trong mẫu ướt đem phân tích (%)) với
A = S .100/P (P: khối lượng mẫu ướt (g), S: khối
lượng mẫu khô (g))
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Hàm lượng cadimi trong các loài hai mảnh vỏ,
chân bụng, giáp xác và chân đầu xác định được
trong các tháng lấy mẫu đại diện cho hai mùa mưa
và mùa khô được trình bày trong bảng 2.
Bảng 2. Hàm lượng cadimi trong các loài động vật thân mềm và giáp xác
được tiêu dùng phổ biến tại Nha Trang năm 2008 và 2009
Nhuyễn thể Tháng Hàm lượng Cd (khối lượng ướt) (mg/kg) Độ lệch chuẩn (%)
Hai mảnh vỏ
5 0,032 4,7
7 0,032 3,6
9 0,068 1,3
11 0,073 1,2
1 0,073 1,1
Giáp xác
5 0,019 5,4
7 0,019 6,7
9 0,026 4,0
11 0,034 2,9
1 0,032 3,2
Chân bụng
5 0,033 3,6
7 0,033 3,0
9 0,064 1,6
11 0,072 1,1
1 0,067 1,7
Chân đầu
5 0,012 8,9
7 0,013 8,6
9 0,013 6,2
11 0,013 4,6
1 0,013 6,6
Sự khác biệt của hàm lượng cadimi giữa các tháng đã được đánh giá ANOVA với phép thử Tukey bằng
phần mềm SPSS 16. và được trình bày ở bảng 3.
Bảng 3. Sự khác biệt của hàm lượng cadimi theo tháng (sử dụng One-Way ANOVA)
Loài Tháng5 và 7
Tháng
5 và 9
Tháng
5 và 11
Tháng
5 và 1
Tháng
7 và 9
Tháng
7 và 11
Tháng
7 và 1
Tháng
9 và 11
Tháng
9 và 1
Tháng
11 và 1
Hai mảnh vỏ - + + + + + + + + -
Giáp xác - + + + + + + + + -
Chân bụng - + + + + + + + + +
Chân đầu - - - - - - - - - -
+: khác nhau có ý nghĩa ở mức 5% (p 0,05)
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2014
6 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Kết quả ở bảng 2 và bảng 3 cho thấy, hàm
lượng cadimi trong các loài hai mảnh vỏ, chân bụng
và giáp xác trong các tháng lấy mẫu phân tích là
khác nhau có ý nghĩa thống kê (p < 0,05), ngoại
trừ tháng 5 và tháng 11, tháng 11 và tháng 1. Trong
cùng một thời điểm (tháng) lấy mẫu thì hàm lượng
cadimi trong các loài hai mảnh vỏ và chân bụng cao
hơn trong các loài giáp xác và chân đầu. Hàm lượng
cadimi trong các loài chân đầu thấp nhất và không
khác nhau có ý nghĩa thống kê ở các tháng lấy mẫu
(p > 0,05). Hàm lượng cadimi trong ba tháng của
mùa mưa (tháng 9, 10/2008 và 1/2009) cao gần gấp
đôi mùa khô (tháng 5 và 7). Điều này có thể là do
quá trình rửa trôi các kim loại nặng từ đất sau những
trận mưa lớn làm tăng lượng cadimi trong nước vào
mùa mưa. Theo Pierce (2007), hàm lượng cadimi
tập trung phần lớn ở ống tiêu hóa.
Kết quả so sánh hàm lượng cadimi được xác
định trong nghiên cứu này với các nghiên cứu thực
hiện ở Việt Nam và Châu Á được trình bày ở bảng 4.
Bảng 4. Hàm lượng cadimi (mg.kg-1 khối lượng ướt) trong các loài động vật thân mềm và giáp xác
được tiêu dùng phổ biến ở Việt Nam và Châu Á
Nghiên cứu này
Hàm lượng
cadimi
Động vật
thân mềm
và giáp xác
Năm
Các nghiên cứu khác ở Việt nam và Châu Á
Động vật thân mềm
và giáp xác Nước Hàm lượng cadimi Tham khảo
Vẹm 2000 Việt Nam 0,09 Đào Việt Hà, 2002
Sò 2005 Việt Nam 2,13* Lê Thị Vinh và cs, 2005
Hàu 2005 Việt Nam 0,4 - 3,1* Lê Thị Vinh, 2006
Hàu 2006 Việt Nam 0,27 - 0,3 Lê Thị Vinh, 2006
Vẹm 209 Việt Nam 0,06 Ngô Đăng Nghĩa và cs, 2008
Hai mảnh vỏ 2006 Việt Nam 0,244 - 0,980 NAFIQAD, 2006
Nghêu 2006 Việt Nam 0,993 Hsia và Huiyi, 2008
Nghêu 2007 Việt Nam 0,01 Hsia và Huiyi, 2008
Nghêu 2008 Việt Nam 0,01 - 0,063 Hsia và Huiyi, 2008
Vẹm 2005-2006 Malaysia 0,07 (0,04 - 0,12) Hsia và Huiyi, 2008
Vẹm 2007 Thái Lan 0,1 (0,002 - 0,79) Hsia và Huiyi, 2008
Loài hai
mảnh vỏ
0,056
(0,032- 0,073) Nghêu 2007 Thái Lan 0,12 (0,02 - 0,35) Hsia và Huiyi, 2008
Sò 2005-2006 Malaysia 0,33 (0,06 - 0,81) Hsia và Huiyi, 2008
Sò 2004 Singapore 0,542 (0,136 - 0,794) Hsia và Huiyi, 2008
Hai mảnh vỏ 2007 Indonesia 1,234 - 2,404 Soegianto và Supriyanto, 2008
Tôm 2006 Việt nam 0,013 - 0,033 NAFIQAD, 2006
Tôm 2006 Việt nam 0,003 Hsia và Huiyi, 2008
Tôm 2007 Việt nam 0,051 Hsia và Huiyi, 2008
Tôm 2006 Mianmar > 0,005, < 0,04 Hsia và Huiyi, 2008
Tôm 2006 Thái Lan < 0,01 Hsia và Huiyi, 2008
Tôm 2005-2006 Malaysia 0,01 (< 0,0048 - 0,07) Hsia và Huiyi, 2008
Tôm 2005 2006 Malaysia 0,01 (< 0,0048 - 0,02) Hsia và Huiyi, 2008
Tôm 2005 2006 Malaysia 0,02 (< 0,0048 - 0,04) Hsia và Huiyi, 2008
Tôm 2005 2006 Malaysia 0,04 (0,01 - 0,1) Hsia và Huiyi, 2008
Giáp xác -- Ấn độ nd - 0,12 Sivaperumal và cs, 2007
Cua -- Trung Quốc 0,795 - 0,506 Ip và cs, 2005
Tôm -- Trung Quốc 0,835 - 0,637 Ip và cs, 2005
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 7
So sánh kết quả của nghiên cứu này với
các giới hạn hàm lượng cadimi của Bộ Y tế Việt
Nam 46/2007/QD-BYT và qui định của Châu Âu
1881/2006/EC (bảng 5) cho thấy, hàm lượng
cadimi trong các loài động vật thân mềm và
giáp xác sử dụng phổ biến xác định được trong
nghiên cứu này không cao và đều nằm dưới giới
hạn tối đa.
Tôm 2001 Indonesia 0,05 - 0,03 Soegianto và Hamami, 2007
Loài giáp xác 0,026 (0,019 -0,034) Tôm 2002 Indonesia 0,01 Soegianto và Hamami, 2007
Mực 2006 Việt nam 0,134 Hsia và Huiyi, 2008
Mực 2007 Việt nam 0,01 Hsia và Huiyi, 2008
Mực 2008 Việt nam 0,21 - 0,621 Hsia và Huiyi, 2008
Mực 2008 Việt nam 1,132 - 1,396 Hsia và Huiyi, 2008
Mực 2007 -2008 Mianmar > 0,005, < 0,04 Hsia và Huiyi, 2008
Mực 2007 - 2008 Mianmar > 0,005, < 0,04 Hsia và Huiyi, 2008
Mực 2005 -2006 Malaysia 0,1 (0,02 - 0,21) Hsia và Huiyi, 2008
Mực 2004 Singapour 0,166 (0,096 - 0,246) Hsia và Huiyi, 2008
Mực 2005 Thái Lan 0,18 (0,04 - 0,54) Hsia và Huiyi, 2008
Mực 2005 Thái Lan 0,31 (0,04 - 0,94) Hsia và Huiyi, 2008
Loài chân đầu 0,013 (0,012 - 0,013) Mực 2005 Thái Lan 0,36 (0,02 - 0,9) Hsia và Huiyi, 2008
Chân bụng -- Ấn độ nd - 0,47 Sivaperumal và cs, 2007
Loài chân bụng 0,054 (0,033- 0,072) Bào ngư -- Việt nam 0,04 - 0,077 Ngô Đăng Nghĩa và cs, 2008
Chân bụng -- Việt nam 0,04 - 0,62 Lê Thị Vinh, 2006
nd: không phát hiện, *: mg/kg khối lượng khô
Bảng 5. So sánh kết quả hàm lượng cadimi trung bình trong động vật thân mềm và giáp xác
được xác định trong nghiên cứu hiện tại với các giới hạn qui định
Loài
Cd (mg/kg)
Hàm lượng Cd trong nghiên cứu
Giới hạn Cd tối đa
EC1 Codex2 Việt Nam3
Hai mảnh vỏ 0.056 ± 0.02 1 1 1
Chân bụng 0.054 ± 0.017 1 1 1
Giáp xác 0.026 ± 0.006 0,5 0,5 0,5
Chân đầu 0.013 ± 0.001 1 1 --
1: EC/1881/2006, 2 : CAC, 2001; CAC, 2004; WHO, 2006, 3: MS/46/2007
IV. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu trên các mẫu được chuẩn
bị theo cách được sử dụng thông thường (mẫu
hai mảnh vỏ, chân bụng, giáp xác còn nguyên nội
tạng và mẫu chân đầu đã bỏ nội tạng) cho thấy
sự ô nhiễm cadimi ở các loài động vật thân mềm
và giáp xác được tiêu dùng phổ biến ở thành phố
Nha Trang ở thời điểm lấy mẫu là tương đối thấp
và dưới mức cho phép được qui định bởi Châu Âu
và Việt Nam. Bên cạnh đó kết quả còn cho thấy
hàm lượng cadimi trong nhóm hai mảnh vỏ và chân
bụng ở mùa mưa cao hơn mùa khô. Đây là các dữ
liệu có giá trị cho việc đánh giá phơi nhiễm và đánh
giá nguy cơ của người dân thành phố Nha Trang
đối với cadimi do ăn các loài động vật thân mềm
và giáp xác.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2014
8 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Đào Việt Hà, 2002. Hàm lượng kim loại trong vẹm xanh (Perna viridins) ở đầm Nha Phu, Khánh Hòa. Kỷ yếu hội thảo khoa
học “Biển Đông”, 16-19/9/2002, Nha Trang. Việt Nam: 638-642.
2. Ngô Đăng Nghĩa và cs, 2008. Nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường và hoạt động nuôi đến vấn đề an toàn thực phẩm thủy
sản của vẹm xanh và ốc hương trong hệ thống nuôi kết hợp. Đề tài cấp Bộ. Trường Đại học Nha Trang.
3. Lê Thị Vinh, 2005. Ảnh hưởng của hạt NIX ở Nhà máy đóng tàu Hyundai - Vinashin đến hàm lượng kim loại nặng trong hàu
Saccostrea cucullata, vịnh Vân Phong. Tạp chí Khoa học và Kỹ Thuật: 216-223.
4. Lê Thị Vinh, Nguyễn Hồng Thu, Phạm Hữu Tâm và Dương Trọng Kiểm, 2005. Hàm lượng kim loại nặng trong nghêu lụa ở
vùng biển ven bờ Bình Thuận. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, tập 5, số 4: 58-63
5. NAFIQAD (National Agro - forestry and Fisheries Quality Assurance Department), 2006. Báo cáo kết quả xác định hàm
lượng kim loại nặng trong một số loài động vật thân mềm và giáp xác năm 2006, 3.
Tiếng Anh
6. ATSDR (Agency for Toxic Substances and Disease Registry), 1999. Toxicological profi les for Cadmium. U.S Department of
Health and Human Services, Public Health Services, 439. htpp://www.atsdr.cdc.gov/toxprofi les/tp5.html.
7. Bisson M, Diderich R, Houeix N, Hulot C, Lacroix G, Lefevre JP, Leveque S, Magaud H, Morin A, Pepin G, Pichard A,
2005. Cadmium et ses dérivés. INERIS - Fiche de données toxicologiques et environnementales des substances chimiques.
8. EC (European Community), 2007. Comission Regulation (EC - European Community) No 333/2007/EC of 28 March 2007
laying down the methods of sampling and analysis for the offi cial control of the levels of lead, cadmium, mercury, inorganic
tin, 3-MCPD and benzo (a) pyrene in foodstuffs. Offi cial Journal of the European Union, 29 March 2007: 29-38.
9. EC (European Community). Commission Regulation (EC - European Community) No 1881/2006/EC of 19 December 2006
setting maximum levels for certain contaminants in foodstuffs. Offi cial Journal of the European Union, 20 December 2006: 5-24.
10. Hsia T L, Huiyi S, 2008. Technical compilation of heavy metals, pesticide residues, histamine and drug residues in fsh
and fi sh pProducts in Southeast Asia. Japanese Trust Fund II Project on Research and Analysis of Chemical Residues and
Contamination in Fish and Fish Products 2004 - 2008, 212. shsafetyinfo.com/timelinefi le/Technical%20
Compilation%20(Printed).pdf .
11. IARC, 1993. Beryllium, Cadmium, Mercury and Exposures in the glass manufacturing industry. Summary of data reported
and evaluation. International Agency for Research on Cancer (IARC) Monographs on the Evaluation of the Carcinogenic
Risks to humans, vol 58, 21.
12. Ip CCM, Li XD, Zhang G, Wong CSC, Zhang WL, 2005. Heavy metal and Pb isotopic compositions of aquatic organisms in
the Pearl River Estuary, South China. Environmental Pollution, 138: 494-504.
13. Jarup L, Berglund M, Elindec CG, Nordberg G, Vahter M, 1998. Health effects of cadmium exposure - a review of the
literature and a risk estimate. Scandinavian Journal of Work, Environment và Health, 24, 1, 52.
14. JECFA, 1989. WHO Food Additives series 24, Cadmium, prepared by the thirty third meeting of the joint FAO/WHO Expert
Committee on Food Additives (JECFA). World Health Organization: Geneva, 39.
15. Liu J, Goyer RA, Waalkes MP, 2008. Toxic effects of metals, in Klaassen CD (ed): Casarett và Doull’s Toxicology: The Basic
Science of Poisons. New York: McGraw-Hill. Seventh edition: 931-980.
16. Miquel MG, 2001. Rapport sur Les effets des métaux lourds sur l’environnement et la santé. Offi ce parlementaire
d’évaluation des choix scientifi ques et technologiques, 365. .
17. Ngo DN, Bjørn TL, Trang ST, Nguyen TS and Amund M, 2009. Heavy metals in the farming environment and in some
selected aquaculture species in the Van Phong Bay and Nha Trang Bay of the Khanh Hoa Province in Vietnam. Bulletin of
Environmental Contamination and Toxicology, 82, 1: 75-79.
18. Nguyen T.A, Tran T.L., Carpentier François-Gilles, Roudot Alain-Claude, Parent Massin Dominique. 2010. Survey of
shellfi sh consumption in south coastal Vietnam (Nha Trang). Proceedings of the 7th international conference on Molluscan
Shellfi sh Safety, 14th-19th June. Nante, France.
19. Pierce GJ, Stowasser G, Hastie LC, Bustamante P, 2007. Geographic, seasonal and ontogenetic variation in cadmium and
mercury concentrations in squid (Cephalopoda: Teuthoidea) from UK waters. Ecotoxicology and Environmental Safety, 11.
20. Sivaperumal P, Sankar TV, Viswanathan Nair PG, 2007. Heavy metal concentrations in fi sh, shellfi sh and fi sh products from
internal markets of India vis-a-vis international standards. Food Chemistry, 102, 3: 612-620.
21. Soegianto A, Hamami, 2007. Trace metal concentrations in shrimp and fi sh collected from Gresik Coastal Waters, Indonesia.
Science Asia, 33: 235-238.
22. Soegianto A, Supriyanto A, 2008. Concentration of pathogenic bacteria and trace metals in bivalves mollusk Anadara granosa
(Bivalvia: Arcidae) harvested from East Java Coast, Indonesia. Les Cahiers de Biologie Marine, 49: 201-207.
23. WHO (World Health Organization), 1985. Guidelines for the study of dietary intakes of chemical contaminants. Geneva,
WHO, Offset publication No 87, 102.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so_3_2014_01_nguyen_thuan_anh_5561_2024531.pdf