- ASXH là hệ thống các biện pháp và dịch vụ xã hội nhằm giúp cá nhân, tập thể và
cộng đồng vươn tới các tiêu chuẩn tốt đẹp của cuộc sống, sức khỏe và mội quan hệ
cá nhân và xã hội giúp phát triển tối đa các khả năng và tăng phúc lợi hài hòa với
nhu cầu của gia đình và cộng đồng3.
- Ở các nước đang phát triển, nó liên quan đến các vấn đề nghèo đói, thất học, bệnh
tật, thất nghiệp, suy dinh dưỡng, nhà ở. và các vấn đề khác của xã hội.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giới thiệu nghề Công tác Xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CFSI
Thuật ngữ “NVCTXH thực hành tổng quát” là người có kiến thức và kỹ năng sâu
rộng, họ dựa trên một số quan điểm, lý thuyết và các mô hình để thực hành nghề nghiệp.
Họ có thể chuyển từ lĩnh vực thực hành này sang lĩnh vực thực hành khác. Đối lập với
thực hành tổng quát là thực hành chuyên sâu về một lĩnh vực nào đó.
Mục đích: Để đáp ứng được yêu cầu công việc giải quyết vấn đề ở nhiều cấp độ can
thiệp, từ vi mô đến vĩ mô, nên NVCTXH cần có khả năng trợ giúp được nhiều loại thân
chủ ở nhiều tình huống, vì vậy họ cần có kiến thức, kỹ năng tổng quát.
Thực hành CTXH tổng quát: là sự thực hành song song cùng một lúc với gia đình
và cộng đồng. Hoàn cảnh của cá nhân, vẫn làm việc với cá nhân, vận động nguồn lực
của cộng đồng để hỗ trợ cá nhân.
Những quan điểm liên quan đến thực hành CTXH tổng quát: làm việc với từng cá
nhân, sau đó phát triển ra làm việc với nhóm và cộng đồng.
- Trong quá trình thực hành CTXH tổng quát, NVCTXH phải có đầu óc tự đánh giá
tự nhận xét về những dịch vụ hỗ trợ cho thân chủ: có hiệu quả, phù hợp với thân
chủ có những thay đổi trên tinh thần xây dựng, tích cực. NVCTXH có thể
cải thiện hoặc tìm kiếm những dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của thân chủ.
- Làm việc trực tiếp với hệ thống thân chủ: qua hệ trực tiếp của hệ thống thân chủ
(cá nhân, nhóm, cộng đồng, tổ chức) và NVCTXH.
- NVCTXH giúp thân chủ nối kết với các nguồn lực hỗ trợ.
- NVCTXH thúc đẩy, góp ý cho những cơ quan, tổ chức thay đổi để đáp ứng nhu
cầu đa dạng của thân chủ
- NVCTXH có thể nghiên cứu có thể làm được điều này, sử dụng thông tin nghiên
cứu để đi vận động, biện hộ cho quyền lợi của thân chủ.
Ví dụ: với trường hợp một đứa trẻ mồ côi và phải được tìm một người nhận làm con nuôi.
Muốn được điều này, tòa án phải chính thức tuyên bố rằng điều này sự thật. Thời gian đợi
toà án tuyên bố rất lâu. NVCTXH thấy được điều đó, NVCTXH sẽ đưa ra những thông
tin trong quá trình làm việc với trẻ trình lên người làm chính sách họ sẽ có điều kiện,
biết được để thay đổi chính sách sao cho phù hợp với đứa trẻ: có quyết định sớm hơn, có
ảnh hưởng tích cực đến nhiều đứa trẻ khác cùng hoàn cảnh.
2. Các mô hình can thiệp của CTXHthực hành
Trọng tâm
can thiệp
Lĩnh vực Vai trò và nhiệm vụ
Cộng đồng
Các tổ chức
Xã hội
Sự phát triển xã hội
Giảm nghèo
Cứu trợ sau thiên tai
Các dịch vụ xã hội
Đánh giá nhu cầu trong phát
triển xã hội và lên kế hoạch
can thiệp.
Sự phát triển cộng đồng và hành
động của cộng đồng để huy động
và phát triển nguồn lực
Truyền thông vận động và
thương thuyết với và thay mặt
cho những nhóm người/cộng
đồng dễ bị tổn thương/có hoàn
cảnh khó khăn.
Nghiên cứu và cố vấn về chính
Dự án “Nâng cao năng lực cho NVCTXH cơ sở ở Tp.HCM” - tháng 7/2012 Trang 18
Giới thiệu nghề Công tác Xã hội
SDRC - CFSI
Trọng tâm
can thiệp
Lĩnh vực Vai trò và nhiệm vụ
sách nhằm hỗ trợ và hướng
dẫn cộng đồng, các cấp chính
quyền thúc đẩy phát triển xã
hội.
Cá nhân
Gia đình
Nhóm
Trẻ em/ bảo vệ trẻ em
Bảo trợ xã hội
Phòng ngừa các tệ nạn xã hội
Giáo dục
Y tế
Tư pháp người chưa thành
niên
Đánh giá nhu cầu xã hội và lập
kế hoạch can thiệp.
Tham vấn cho cá nhân, và làm
việc theo nhóm nhằm thúc đẩy
sự thay đổi.
Quản lý ca đối với những
trường hợp phức tạp
Giáo dục xã hội nhằm tăng
cường khả năng giải quyết vấn
đề.
Vận động và thương thuyết
cho những người có hoàn cảnh
khó khăn.
Phát triển dịch vụ
Nghiên cứu và phát triển chính
sách.
3. Các yêu cầu về phẩm chất đạo đức, kiến thức, kỹ năng đối với nhân viên CTXH
- Yêu cầu về đạo đức: CTXH là hoạt động chịu ảnh hưởng rất nhiều của mối quan
hệ tương tác với con người do vậy hoạt động của nghề nghiệp này mang tính chất
khá phức tạp. Chất lượng và hiệu quả của thực hành CTXH được quyết định một
phần bởi phẩm chất đạo đức của người NVCTXH.
- Có thể kể tới những phẩm chất đạo đức sau đây cần có ở họ:
Cần có sự cảm thông và tình yêu thương con người, sự sẵn sàng giúp đỡ
người khác.
Cần có niềm đam mê nghề nghiệp, sự cam kết với nghề nghiệp. Sự tâm
huyết nghề nghiệp giúp cho họ có niềm tin, có ý chí để vượt qua những giai
đoạn khó khăn trong quá trình giúp đỡ đối tượng.
Trung thực là một yếu tố đạo đức quan trọng mà NVCTXH cần có.
Thái độ cởi mở cũng được xem như một yếu tố nhân cách cần có đối với
NVCTXH, bởi đó là yếu tố tiên quyết tạo nên niềm tin và sự chia sẻ từ phía
đối tượng đối với NVCTXH.
Cần có tính kiên trì, nhẫn nại. Trong hoạt động trợ giúp không phải ca trợ
giúp nào cũng thành công như mong muốn của họ. Không ít trường hợp sự
thất bại của đối tượng cũng bị xem như sự thất bại của chính họ.
Dự án “Nâng cao năng lực cho NVCTXH cơ sở ở Tp.HCM” - tháng 7/2012 Trang 19
Giới thiệu nghề Công tác Xã hội
SDRC - CFSI
Cần có lòng vị tha, sự rộng lượng. Làm việc với những đối tượng thường có
những vấn đề, đặc biệt vấn đề liên quan tới đạo đức như vi phạm pháp luật,
mại dâm, ma túy...
Cần là con người luôn có quan điểm cấp tiến và hoạt động hướng tới sự thay
đổi trong trật tự xã hội.
Cần là người người tỏ ra cương trực, sẵn sàng từ chối sự gian lận trong
người quản lý.
- Yêu cầu về kiến thức: NVCTXH cần có kiến thức khá rộng. Bên cạnh họ cần có
những kiến thức nghề nghiệp họ còn cần tới những kiến thức liên quan khác phục
vụ cho công việc của mình. Có thể liệt kê những kiến thức mà NVCTXH cần có
như sau:
Chính sách xã hội
Tâm lý học
Xã hội học
Kiến thức bổ trợ khác như kinh tế, pháp luật...
- Yêu cầu về kỹ năng đối với nhân viên xã hội
Trong tiến trình trợ giúp đối tượng giải quyết vấn đề, NVCTXH cần có những kỹ
năng cụ thể về đảm bảo hiệu quả công việc, tuỳ theo chức năng và hoạt động. Sau
đây là một số kỹ năng cụ thể:
Kỹ năng lắng nghe tích cực
Kỹ năng thu thập, phân tích thông tin
Kỹ năng nhận xét, đánh giá
Kỹ năng thiết lập mối quan hệ với đối tượng
Kỹ năng quan sát đối tượng
Kỹ năng diễn giải vấn đề, thuyết trình trước quần chúng
Kỹ năng giúp đối tượng tìm hiểu nguyên nhân của vấn đề
Kỹ năng đưa ra các giải pháp và dự đoán hiệu quả sử dụng
Kỹ năng kiểm soát cảm xúc cá nhân như giữ được bình tĩnh, tự tin trước mọi
tình huống
Kỹ năng làm việc với nhiều tổ chức khác nhau, kể cả những tổ chức chính
phủ và phi chính phủ
Kỹ năng biện hộ cho nhu cầu của đối tượng
Kỹ năng giao tiếp
Kỹ năng tư vấn
Kỹ năng tham vấn.
Dự án “Nâng cao năng lực cho NVCTXH cơ sở ở Tp.HCM” - tháng 7/2012 Trang 20
Giới thiệu nghề Công tác Xã hội
SDRC - CFSI
Bài 3: TRIẾT LÝ, GIÁ TRỊ, NGUYÊN TẮC
ĐẠO ĐỨC NGHỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI
CTXH xuất phát các lý tưởng nhân văn và dân chủ, các giá trị của nó dựa trên cơ sở tôn trọng
sự bình đẳng, phẩm giá, và sự xứng đáng của mọi dân tộc. Từ những ngày khởi đầu của nó cách
đây một thế kỷ, CTXH thực hành nhằm vào việc đáp ứng nhu cầu và phát triển tiềm năng của
con người. Nhân quyền và công bằng xã hội là động lực và sự biện giải cho hoạt động CTXH.
Trong sự liên đới với những người bị thiệt thòi, nghề CTXH cố gắng giảm thiểu sự nghèo khó và
giải phóng những người bị tổn thương hay bị áp bức để thúc đẩy sự hòa nhập xã hội (đúng như
định hướng giải phóng con người của Chủ nghĩa Xã hội). Các giá trị của CTXH được thể hiện
trong các quy điều đạo đức nghề nghiệp quốc gia và quốc tế.
I. TRIẾT LÝ CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI
1. Các quan điểm cơ bản trong Công tác xã hội
Theo Thelma Lee-Mendoza (2008) triết lý về CTXH có nguồn gốc từ xã hội. CTXH
dựa trên niềm tin rằng mọi người đều có giá trị và phẩm giá. Mọi cá nhân đều có giá trị,
bởi vì họ có khả năng đưa ra lý do, phân tích lý trí và chọn lựa. Các cá nhân đều có
phẩm giá và tồn tại với sự tồn tại của chính họ.
Quan điểm nghề nghiệp của ngành CTXH là những quan điểm về con người, về mục
đích cho sự an sinh của họ và những biện pháp đi đến mục đích đó. Có 6 quan điểm cơ
bản của CTXH:
- Cá nhân là mối quan tâm hàng đầu của xã hội
- Giữa cá nhân và xã hội có mối quan hệ phụ thuộc.
- Mỗi bên đều có trách nhiệm với nhau.
- Con người có những nhu cầu cơ bản giống nhau, nhưng mỗi người là độc nhất
không giống người khác
- Mỗi người cần được phát huy hết tiềm năng của mình và cần được thể hiện trách
nhiệm của mình đối với xã hội thông qua việc tích cực tham gia vào các hoạt động
xã hội.
- Xã hội có trách nhiệm tạo điều kiện để khắc phục những trở ngại đối với sự phát
huy của cá nhân, những trở ngại ấy chính là sự mất cân bằng trong quan hệ giữa cá
nhân và xã hội.
CTXH là một nghề mang lại sự đổi mới cho xã hội, chứ không phải là hoạt động từ
thiện, do đó khi hành nghề người NVCTXH phải ý thức được thái độ nghề nghiệp một
cách vững vàng về các quan điểm và nguyên tắc nghề nghiệp.
Các quan điểm nghề nghiệp của CTXH được xây dựng trên nền tảng triết lý mang
tính khoa học. Những giá trị triết học CTXH là :
Dự án “Nâng cao năng lực cho NVCTXH cơ sở ở Tp.HCM” - tháng 7/2012 Trang 21
Giới thiệu nghề Công tác Xã hội
SDRC - CFSI
2. Các quy điều đạo đức trong ngành CTXH
Các tiêu chuẩn đạo đức chung của các NVXH được dựa trên Quy tắc Đạo đức Quốc
tế dành cho NVCTXH chuyên nghiệp được IFSW thông qua vào năm 1976. ISFW đưa
ra Các tiêu chuẩn Đạo đức Quốc tế theo năm hạng mục chung: các tiêu chuẩn chung về
ứng xử đạo đức, các tiêu chuẩn CTXH ứng xử với thân chủ, các tiêu chuẩn CTXH ứng
xử tại các cơ quan và các tổ chức, các tiêu chuẩn CTXH ứng xử với các đồng nghiệp, và
các tiêu chuẩn ứng xử nghề nghiệp.
Mục đích của các quy điều đạo đức trong ngành CTXH là quy định các trách nhiệm
và hành vi cần có ở NVCTXH với thân chủ của mình, với đồng nghiệp và với xã hội
- Vai trò và trách nhiệm của nhân viên xã hội:
Phẩm chất, năng lực và trách nhiệm phù hợp với công việc.
Luôn có ý thức rèn luyện khả năng và nâng cao trình độ chuyên môn
Rèn luyện trên 3 mặt : kiến thức, thái độ và kỹ năng
Liêm chính
Luôn học tập để đổi mới chính mình
- Trách nhiệm đối với thân chủ:
Thân chủ là mối quan tâm hàng đầu.
Cố gắng hết sức để phát huy tối đa khả năng tự quyết của thân chủ
Đảm bảo sự riêng tư của thân chủ
- Trách nhiệm đối với đồng nghiệp:
Tôn trọng, bình đẳng
Trách nhiệm liên đới với các thân chủ của đồng nghiệp.
GIAÙ TRÒ TRIEÁT LYÙ CUÛA CTXHÙ Á Ù Û
Mỗi con người được xem
là một người với phẩm
giá và giá trị
Con người sống lệ thuộc
lẫn nhau. Quyền và
nhĩa vụ chi phối các
tương tác
Mỗi cá nhân có
trong mình một
tiềm năng để
vươn lên và
thành đạt
Con người có
chung những nhu
cầu cho sự phát
triển và lớn lên
của mỗi cá nhân
Xã hội có nhiệm vụ
giúp đỡ những người
không có phương tiện
để biến các tiềm năng
của họ thành hiện thực
Dự án “Nâng cao năng lực cho NVCTXH cơ sở ở Tp.HCM” - tháng 7/2012 Trang 22
Giới thiệu nghề Công tác Xã hội
SDRC - CFSI
- Trách nhiệm đối với xã hội :
NVCTXH làm việc vì lợi ích xã hội, thể hiện sự hòa hợp giữa các cấp độ giá
trị: giá trị của xã hội, giá trị của nghề nghiệp, giá trị của cơ quan làm việc,
giá trị của thân chủ và giá trị của chính mình.
II. CÁC GIÁ TRỊ CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI (DuBois, Brenda and Miley, Karla
Krogsrud, 2005: 50)
1. Khái niệm các giá trị
Được định nghĩa là những sự hình thành các hành vi được yêu thích của các cá nhân
hoặc nhóm xã hội, những giá trị đó là những hành vi được mong muốn.
Các giá trị này bao hàm một sự yêu thích bình thường đối với các phương tiện và kết
quả bất kỳ, và các điều kiện của cuộc sống, thường được đi kèm với cảm giác mạnh mẽ,
có một khía cạnh về cảm xúc hay cảm giác về những giá trị này và những giá trị này
thường đưa đến hành động.
Là một tiêu chuẩn hay các chuẩn mực được tổ chức bởi một phần đáng kể của xã hội
được phản ánh qua các kiểu mẫu của hành vi được thể chế hóa, và dẫn dắt những người
tham gia hành động trong quan hệ tương tác với nhau trong khuôn khổ của hiểu biết
thông thường mặc dù đó không phải là hệ thống được kiểm soát có chủ ý hay được tham
khảo một cách hợp lý.
- Các giá trị được xem như là:
Những hướng dẫn cho hành vi
Phát sinh từ kinh nghiệm của cá nhân
Được điều chỉnh khi có nhiều kinh nghiệm được tích lũy
Phát triển theo tự nhiên
Các giá trị của CTXH tập trung vào ba lĩnh vực chung: các giá trị về con người, các
giá trị về CTXH trong mối quan hệ với xã hội, và các giá trị về ứng xử chuyên môn.
- Các giá trị về con người
Những giá trị chung của nghề nghiệp phản ánh các ý tưởng cơ bản của các NVXH về
bản chất của nhân loại và bản chất của sự thay đổi, “các giá trị cốt lõi của dịch vụ,
công bằng xã hội, phẩm giá và giá trị của con người, tầm quan trọng của các mối quan
hệ, tính nguyên vẹn và năng lực của con người”. Đánh giá phẩm giá và giá trị của tất
cả mọi người bất kể ở giai đoạn nào trong cuộc đời, di sản văn hóa, lối sống và những
sự tín ngưỡng của họ là điều cần thiết khi thực hiện công tác xã hội. Các NVCTXH
ủng hộ các quyền tiếp cận các dịch vụ và tham gia đưa ra quyết định của các thân chủ.
Họ kết hợp các nguyên tắc tự quyết định, không phán xét, đảm bảo tính bí mật trong
khi làm việc với các thân chủ.
- Các giá trị mối quan hệ với xã hội
Các NVCTXH đấu tranh cho công bằng xã hội và đánh giá quá trình dân chủ. Các
NVCTXH đảm đương trách nhiệm đấu tranh cho sự không công bằng và bất công xã
hội. Họ phải cam kết thực hiện theo đúng nghề nghiệp để làm cho cuộc sống, sự ứng
xử trong xã hội nhân đạo hơn và đáp được nhiều hơn các nhu cầu của con người.
Nâng cao các chương trình xã hội và cải tiến các chính sách xã hội phản ánh hoạt
động của NVXH.
- Các giá trị ứng xử nghề nghiệp
Dự án “Nâng cao năng lực cho NVCTXH cơ sở ở Tp.HCM” - tháng 7/2012 Trang 23
Giới thiệu nghề Công tác Xã hội
SDRC - CFSI
Các giá trị hướng các hoạt động chuyên môn của các NVCTXH theo các nỗ lực của
họ với các hệ thống thân chủ. Các NVCTXH đánh giá sức mạnh và năng lực và công
việc cộng tác với các thân chủ để phát triển các giải pháp sáng tạo. Các NVCTXH cũng
đánh giá chất lượng thực hiện nhiệm vụ của mình đồng thời cần liên tục kiểm nghiệm lại
hiệu quả hoạt động của mình. Thêm vào đó, NVCTXH cũng chịu trách nhiệm về những
hành vi đạo đức và luôn có ý thức phát triển chuyên môn.
2. Những vấn đề khó xử về Giá trị - những sự xung đột hay mâu thuẫn giữa các giá
trị
NVCTXH bị ảnh hưởng bởi các hệ thống giá trị khác nhau. Những hệ thống này bao
gồm các giá trị cá nhân của chính người nhân viên hoạt động xã hội đó, các giá trị của các
nhóm mà họ tham gia vào như nhóm tôn giáo, xã hội và văn hóa, và giá trị nghề nghiệp của
mình. (Mendoza, 1999: 20).
- Khi NVCTXH gặp phải những mâu thuẫn giữa các giá trị cá nhân/văn hóa và
nghề nghiệp.
- Khi các giá trị của thân chủ không tương thích với các giá trị của NVCTXH
- Khi giá trị của thân chủ được xem là bất lợi cho chính phúc lợi của bản thân họ
hay là những vấn đề khó xử liên quan đến KH.
- Một vài ghi chú:
CTXH thực hành thường gặp những tình huống khó xử về giá trị. CTXH là
một khoa học và nghệ thuật - NVCTXH thường đưa ra quyết định dựa trên
các giá trị hơn là dựa vào kiến thức (ví dụ như giả định giá trị dựa vào
nguyên tắc của quyền tự quyết)
Không có sự tuyệt đối trong việc ứng dụng các nguyên tắc thực hành CTXH
- chỉ có các hướng dẫn đơn giản
Tầm quan trọng của sự đánh giá chuyên nghiệp (kiến thức + các giá trị).
3. Các hướng dẫn trong việc giải quyết những vấn đề khó xử về giá trị
- Nhận biết được sự hiện hữu của những mâu thuẫn về giá trị. Nhận thức này
thường khó mà có được. Những câu hỏi về đạo đức thường mơ hồ và làm ta cảm
thấy không thoải mái.
- Tự nhận thức bản thân thì KHÔNG đủ, NVCTXH nên “đưa ra các giá trị của bản
thân” anh ta cho thân chủ thảo luận và cho phép thân chủ “tranh cãi” theo hình
thức của một tình huống có sự tác động qua lại của cả hai bên.
- Lưu ý những giá trị của NVCTXH có thể không phải là điều mà thân chủ quan
tâm nhất, do vậy, trong việc chia sẻ giá trị bản thân, NVCTXH có thể ảnh hưởng
(điều khiển) thân chủ.
- Trong việc ra quyết định, khi cần phải chia sẻ giá trị của chính bản thân với thân
chủ, NVCTXH phải thực hiện một sự đánh giá chuyên môn về những giá trị sẽ có
tính xây dựng và hữu ích nhất cho thân chủ.
- Khi các giá trị cá nhân của một NVCTXH mâu thuẫn với các giá trị của chuyên
môn CTXH trong lúc cung cấp các dịch vụ cho thân chủ, lời khuyên chung là nên
sử dụng các giá trị nghề nghiệp theo quy chuẩn đạo đức và xem chúng như là kim
chỉ nam.
- Các thân chủ nên được khuyến khích khám phá các giá trị bản thân của riêng họ
và liên hệ đến các hành động có chọn lựa khác trong hệ thống giá trị riêng của họ.
Thân chủ cần được bảo vệ theo cách chọn lựa các giá trị ưu tiên mà có thể ảnh
Dự án “Nâng cao năng lực cho NVCTXH cơ sở ở Tp.HCM” - tháng 7/2012 Trang 24
Giới thiệu nghề Công tác Xã hội
SDRC - CFSI
hưởng đến sự tự lựa chọn giá trị bản thân của thân chủ. Ví dụ thân chủ nói muốn
tự tử, NVCTXH cần phân tích cho thân chủ về sự lựa chọn này có ảnh hưởng gì
đến sự sống còn của bản thân và sự ảnh hưởng đến người khác ra sao.
- CÁC GIÁ TRỊ ĐƯỢC ƯU TIÊN
Bảo vệ sự sống (nhu cầu sinh tồn cơ bản của cá nhân và/hoặc xã hội)
Duy trì sự tự quyết, độc lập, và tự do
Nuôi dưỡng sự công bằng về cơ hội và sự bình đẳng trong việc tiếp cận
Cải thiện chất lượng cuộc sống tốt hơn
Củng cố quyền được bảo vệ sự riêng tư và bí mật của mỗi cá nhân
Nói sự thật và trình bày đầy đủ mọi thông tin liên quan
Thực hành theo đúng với luật lệ và quy định đã được tự nguyện chấp nhận.
III. CÁC NGUYÊN TẮC CỦA CTXH
Các nguyên tắc của CTXH được xây dựng trên cơ sở nền tảng triết lý và giá trị của
CTXH, các nguyên tắc này được xem là kim chỉ nam cho hành động tương tác của
NVXHvới đối tượng trong quá trình trợ giúp. Sau đây là những nguyên tắc của CTXH
trong quá trình tiến hành hoạt động trợ giúp.
- Chấp nhận đối tượng
Khái niệm chấp nhận thân chủ là một khái niệm khá trừu tượng, nhưng có thể biến
thành hành động cụ thể qua việc sử dụng các kỹ thuật. Chấp nhận đòi hỏi việc tiếp nhận
thân chủ, theo nghĩa bóng và nghĩa đen, không tính toán, không thành kiến và không đưa
ra phán quyết nào về hành vi của anh ta. Nguyên tắc chấp nhận thân chủ dựa trên nến tảng
của giả định triết học mỗi cá nhân đều có giá trị bẩm sinh, bất kể địa vị xã hội hay hành vi
của anh ta. Thân chủ được chú ý và nhìn nhận là một con người dù anh ta có thể phạm tội.
Chấp nhận không có nghĩa là tha thứ cho hành vi xã hội không thể chấp nhận, nhưng là
quan tâm và có thiện chí với con người phía sau hành vi.
Đối tượng phục vụ của ngành CTXH là con người, đặc biệt là nhóm người yếu thế,
nhóm người có hoàn cảnh và nhu cầu cơ bản chưa được đáp ứng. Mỗi con người, dù là
bình thường hay bất bình thường họ đều có nhân phẩm, có giá trị riêng và có quyền được
tôn trọng, bình đẳng. Chính vì vậy trong các hoạt động trợ giúp, NVCTXH cần có thái độ
tôn trọng phẩm giá con người và chấp nhận họ. Việc chấp nhận những hành vi, quan điểm
hay giá trị của đối tượng không có nghĩa là đồng tình với những hành vi, suy nghĩ của họ.
Sự tôn trọng hay chấp nhận ở đây ám chỉ sự ghi nhận sự tồn tại và không phán xét những
hành vi hay suy nghĩ của họ.
Chấp nhận thân chủ với tất cả những phẩm chất tốt hoặc xấu, điểm mạnh hay điểm
yếu, không xem xét đến hành vi của anh ta. Thái độ này có ý nghĩa rất gần với câu dạy
của hầu hết các tôn giáo “Yêu người phạm lỗi, ghét hành vi tội”. Nguyên tắc này diễn đạt
thái độ thân thiện đối với thân chủ một sự rộng lượng và mong muốn giúp đỡ.
Sự thực hiện nguyên tắc này giúp cho NVCTXH tạo được lòng tin từ đối tượng, qua
đó thúc đẩy sự hợp tác và chia sẻ của họ, đó là nền tảng cho thiết lập mối quan hệ tương
tác trong quá trình giúp đỡ.
- Tạo điều kiện để đối tượng tham gia giải quyết vấn đề
Nguyên tắc để đối tượng tham gia giải quyết vấn đề là một trong những nguyên tắc cơ
bản trong hoạt động của NVCTXH. Vấn đề là của đối tượng, họ hiểu hoàn cảnh và khả
năng của mình hơn ai hết nếu được sự trợ giúp. Và vì vậy họ cần là người tham gia chủ
Dự án “Nâng cao năng lực cho NVCTXH cơ sở ở Tp.HCM” - tháng 7/2012 Trang 25
Giới thiệu nghề Công tác Xã hội
SDRC - CFSI
yếu từ khâu đánh giá vấn đề tới ra quyết định, lựa chọn giải pháp, thực hiện giải pháp
cũng như lượng giá kết quả của giải pháp đó. Việc để đối tượng tham gia vào hoạt động
giải quyết vấn đề sẽ giúp cho họ học hỏi cách thức từ đó họ tăng cường khả năng đối phó
với tình huống có vấn đề. NVCTXH chỉ đóng vai trò xúc tác, vai trò định hướng trong
quá trình trợ giúp đối tượng thực hiện giải pháp cho vấn đề của họ mà không làm thay,
làm hộ chủ yếu khích lệ họ có niềm tin để tự giải quyết vấn đề.
- Tôn trọng quyền tự quyết của đối tượng
Mỗi cá nhân có quyền quyết định về các vấn đề thuộc về cuộc đời, những quyết định của
người khác hướng dẫn họ nhưng không nên áp đặt trên họ. Trong các tình huống,
NVCTXH không nên quyết định, chọn lựa hay lên kế hoạch cho thân chủ, ngược lại thân
chủ có thể được hướng dẫn và họ có khả năng tự quyết định về mình.
Trong một số trường hợp đặc biệt đối tượng không tự quyết định được như trường hợp
trẻ còn quá nhỏ, người có rối loạn tâm thần NVCTXH cần lấy ý kiến từ người bảo trợ của
họ. Trong trường hợp quyết định của đối tượng có nguy cơ tổn hại tới tính mạng của bản
thân đối tượng hay của người khác thì NVCTXH cũng không cần phải chấp thuận quyết
định của đối tượng mà cần thông báo cho đối tượng về quy định của luật pháp.
Nguyên tắc Tự quyết định, giống như sự tự do, cũng có những giới hạn của nó, nó
không mang nghĩa tuyệt đối. Quyết định của thân chủ được đặt trong mốt số những qui
định như hậu quả của quyết định đó không được gây tác hại đến người khác và hại đến
chính thân chủ. Hơn nữa hành vi tự quyết phải nằm trong những chuẩn mực hành vi mà
xã hội có thể chấp nhận. Mỗi hành vi tự quyết còn có nghĩa là thân chủ lãnh trách nhiệm
thực thi quyết định đó và đón nhận hoặc gánh các lấy kết quả theo sau quyết định.
Thực hiện nguyên tắc này cũng là cách mà NVCTXH giúp cho đối tượng trở nên tự
tin, nâng cao khả năng đưa ra quyết định đúng đắn trong cuộc sống.
- Đảm bảo tính cá nhân hóa
Con người có những nhu cầu cơ bản giống nhau, nhưng mỗi người do hoàn cảnh
khác nhau. Mỗi người lại có những tính cách khác nhau và những mong muốn nguyện
vọng không giống nhau. Mỗi gia đình cũng có những đặc điểm riêng với nếp sống,
truyền thống gia đình. Người ta thường có câu "Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh".
Từng cộng đồng có những vấn đề riêng của họ, có nhu cầu riêng của cộng đồng. Mỗi
cộng đồng cũng có đặc điểm văn hóa vùng miền, đặc điểm địa lý, kinh tế xã hội khác
nhau. Việc cá biệt hóa trường hợp của đối tượng (cá nhân, gia đình hay cộng đồng) giúp
NVCTXH đưa ra phương pháp giúp đỡ thích hợp với từng trường hợp cụ thể.
Việc đảm bảo tính khác biệt trong trợ giúp đối tượng thể hiện ở việc tìm hiểu và phát
hiện những nét đặc thù của trường hợp đó, linh hoạt trong giải quyết vấn đề, không áp
dụng cách giải quyết giống nhau cho các trường hợp. Giải pháp cho mỗi trường hợp cần
được cân nhắc trên cơ sở nhu cầu, đặc điểm, khả năng và nguồn lực mà họ có.
Thực hiện nguyên tắc này trong hoạt động của mình sẽ cho phép NVCTXH đảm bảo
lợi ích thiết thực của các nhóm đối tượng, đáp ứng đúng nhu cầu của đối tượng và rèn
luyện khả năng ứng phó linh hoạt trong giải quyết vấn đề, khắc phục sự bảo thủ, quan
liêu, cứng nhắc trong quá trình trợ giúp.
- Đảm bảo tính riêng tư, kín đáo các thông tin về trường hợp của đối tượng
Kín đáo hay giữ bí mật thông tin là một trong những nguyên tắc cơ bản không chỉ
ngành CTXH sử dụng mà nhiều ngành khác cũng áp dụng như: ngành luật, tài chính, y
tế Nó thể hiện sự tôn trọng những vấn đề riêng tư của đối tượng và không được chia
sẻ những thông tin của đối tượng với người khác khi chưa có sự đồng ý của đối tượng.
Nếu NVCTXH quán triệt tốt nguyên tắc này sẽ tạo điều kiện để đối tượng chân thành
Dự án “Nâng cao năng lực cho NVCTXH cơ sở ở Tp.HCM” - tháng 7/2012 Trang 26
Giới thiệu nghề Công tác Xã hội
SDRC - CFSI
cởi mở, bộc lộ những cảm xúc, tâm trạng và những khó khăn của họ. NVXH chỉ chia sẻ
thông tin khi được đối tượng đồng ý. Đảm bảo tính riêng tư của trường hợp còn thể hiện
ở việc bảo mật lưu trữ hồ sơ. NVCTXH cần lưu trữ hồ sơ của đối tượng cẩn thận, có
khóa tủ hay có mật khẩu trong máy tính. Khi tham vấn hay phỏng vấn cần đảm bảo
không gian yên tĩnh và riêng tư cho cuộc trò chuyện, NVCTXH tránh trao đổi hay hỏi
chuyện về những vấn đề mang tính tế nhị của đối tượng ở những chỗ đông người. Trong
hoạt động đào tạo hay trao đổi thảo luận ca cần đảm bảo sự khuyết danh khi bàn luận về
trường hợp cụ thể. NVCTXH tránh quay phim chụp ảnh khi đối tượng không đồng ý,
cũng không nên sử dụng băng hình hay ghi âm trong khi trò chuyện với đối tượng nếu
họ không chấp nhận.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp sẽ có ngoại lệ với nguyên tắc này nếu như những
hành vi của đối tượng đe dọa tính mạng của bản thân họ hay của những người khác thì
NVCTXH có quyền trao đổi thông tin với những người có thẩm quyền. Trong một số
trường hợp khi cơ quan thẩm quyền như toà án, người quản lý có thẩm quyền... yêu cầu
người NVCTXH có thể cung cấp thông tin mà không cần có sự chấp thuận ý kiến của đối
tượng.
Việc đảm bảo bí mật thông tin của đối tượng sẽ giúp cho đối tượng tin tưởng vào nhân
viên xã hội, từ đó họ sẵn sàng chia sẻ và hợp tác. Bên cạnh đó việc đảm bảo bí mật của
đối tượng còn là yêu cầu mang tính nhân văn trong quan hệ con người và quan hệ nghề
nghiệp.
- Tự ý thức về bản thân
Trong khi thực thi nhiệm vụ, với tư cách là người đại diện của cơ quan xã hội,
NVCTXH cần ý thức rằng vai trò của mình là hỗ trợ đối tượng giải quyết vấn đề. Phục vụ
đối tượng là trách nhiệm của NVCTXH, vì vậy cần tránh lạm dụng quyền lực, vị trí công
việc để mưu lợi cá nhân. Đồng thời NVCTXH cũng cần phải ý thức được khả năng trình
độ chuyên môn của bản thân có đáp ứng yêu cầu của công việc được giao hay không (tức
là cần nhận biết được trình độ kiến thức, kỹ năng chuyên môn của mình tới đâu) Khi
gặp trường hợp quá phức tạp và vượt quá giới hạn khả năng cá nhân thì chuyển giao
trường hợp đang thụ lý cho NVCTXH khác giúp đỡ.
Tự nhận thức về bản thân là một trong những nguyên tắc không thể thiếu được đối với
v. Nó giúp NVCTXH biết giới hạn về quyền lực của mình và có ý thức hoàn thiện bản
thân để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao phó. Việc nhận thức về bản thân NVCTXH còn
đảm bảo cho lợi ích cũng như quyền lợi của đối tượng trong trường hợp vấn đề vượt quá
khả năng của NVCTXH và cần chuyển tuyến. Việc ý thức được yếu tố này giúp cho
NVCTXH trung thực trong công việc, trung thực với khả năng của bản thân.
Đồng thời, NVCTXH phải có khả năng nắm bắt suy nghĩ của mình, cảm xúc của thân
chủ, mà không để cho các cảm xúc này chi phối quá trình suy nghĩ của mình. Vì thế, nếu
có thể, NVCTXH nên duy trì một mức độ khoảng cách nhất định, bên cạnh sự đồng cảm
và mức độ cảm xúc nào đó để có thể giúp thân chủ giải quyết vấn đề một cách khách quan
và lập kế hoạch một cách thực tế.
- Đảm bảo mối quan hệ nghề nghiệp
Công cụ chính trong các hoạt động CTXH là mối quan hệ giữa NVCTXH và thân chủ.
Do đối tượng tác động của CTXH là con người nên NVCTXH cần có phẩm chất đạo đức,
tác phong nghề nghiệp. Những hành vi thể hiện mối quan hệ nghề nghiệp của NVCTXH
như tôn trọng quan điểm giá trị, nguyên tắc nghề nghiệp; không lợi dụng cương vị công
tác của mình để đòi hỏi sự hàm ơn của đối tượng, không nên có quan hệ nam nữ trong khi
thực hiện sự trợ giúp. Mối quan hệ giữa NVCTXH và đối tượng cần đảm bảo tính thân
thiện, tương tác hai chiều, song khách quan và đảm bảo yêu cầu của chuyên môn.
Dự án “Nâng cao năng lực cho NVCTXH cơ sở ở Tp.HCM” - tháng 7/2012 Trang 27
Giới thiệu nghề Công tác Xã hội
SDRC - CFSI
Nguyên tắc này giúp cho NVCTXH đảm bảo tính khách quan trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ, đảm bảo sự công bằng trong giúp đỡ mọi đối tượng.
Để có thể giúp các thân chủ của mình theo các nguyên tắc và đạo đức nghề nghiệp,
NVCTXH là người cần có các yếu tố: thiện chí, quyết tâm, kiến thức và các kỹ năng nghề
nghiệp.
Dự án “Nâng cao năng lực cho NVCTXH cơ sở ở Tp.HCM” - tháng 7/2012 Trang 28
Giới thiệu nghề Công tác Xã hội
SDRC - CFSI
Bài 4: CÁC LĨNH VỰC HOẠT ĐỘNG
CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI
Nguồn: Mendoza, T. (2008). Phúc lợi xã hội và công tác xã hội. Chương 10 - “Các lĩnh vực hoạt
động của công tác xã hội” Thành phố Quezon: Cung cấp sách trung tâm, Inc. pp. 455- 493.
I. CÁC LĨNH VỰC HOẠT ĐỘNG CTXH
“Lĩnh vực hoạt động của CTXH” là một môi trường mà ở đó CTXH được thực hành,
hoặc nơi kiến thức chuyên nghiệp của NVCTXH được sử dụng.
Việc lựa chọn lĩnh vực hoạt động hay môi trường làm việc của NVCTXH chịu tác động
bởi các yếu tố sau đây:
- Cơ hội về việc làm
- Các yếu tố có liên quan về lương bổng và các chế độ khen thưởng;
- Điều kiện lao động, cơ hội thăng tiến nghề nghiệp.
- Ý muốn/sở trường của cá nhân
Lĩnh vực hoạt động của CTXH được hình thành ở nhiều nước mà ở đó cần có NVCTXH
có kỹ năng. Ở một số nước nơi mà CTXH còn sơ khai, vẫn tồn tại các chương trình và dịch
vụ trong các lĩnh vực hoạt động, các nhân viên chưa được đào tạo chuyên nghiệp thì họ cần
được huấn luyện về CTXH chuyên nghiệp.
Một số lĩnh vực cụ thể:
1. Phúc lợi trẻ em
- Lĩnh vực hoạt động phúc lợi trẻ em tồn tại nhằm nâng cao chất lượng sống của trẻ
em và thanh niên thông qua việc cung cấp các chương trình và dịch vụ vì sự phát
triển về thể chất, xã hội, tâm lý, tinh thần và văn hóa cho trẻ.
- Các nhóm trẻ thường là thân chủ được đặc biệt quan tâm đó là những trẻ em trong
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn như trẻ em bị lạm dụng, trẻ bị vi phạm các quyền và
không có điều kiện thích hợp để tồn tại và phát triển. Bao gồm:
Trẻ em bị bỏ rơi, sao nhãng, mồ côi,
Trẻ em bị khuyết tật về thể chất và về các mặt khác,
Trẻ em bị bóc lột sức lao động, làm việc nguy hiểm,
Rẻ em lang thang, trẻ em nghiện hút,
Trẻ em bị lạm dụng về thể chất và tình dục,
Trẻ em trong hoàn cảnh có xung đột vũ trang hoặc
Vô gia cư do thảm họa thiên tai,
Trẻ em trong các cộng đồng văn hóa bản xứ,
Trẻ em có cha mẹ bị bệnh hiểm nghèo như bị HIV, người phạm tội trẻ tuổi
bị tù và kết tội .v.v. (trang 457).
Dự án “Nâng cao năng lực cho NVCTXH cơ sở ở Tp.HCM” - tháng 7/2012 Trang 29
Giới thiệu nghề Công tác Xã hội
SDRC - CFSI
- Việc cung cấp các dịch vụ chăm sóc trẻ em, lĩnh vực hoạt động phúc lợi trẻ em là
lĩnh vực phổ biến của thực hành CTXH. Trẻ em lệ thuộc và bị bỏ rơi cần được
cung cấp dự phòng ngắn hạn hay dài hạn ở cơ quan chức năng.
2. Phúc lợi gia đình
- Phúc lợi gia đình như một lĩnh vực hoạt động của CTXH có liên quan tới hoàn
thiện, tăng cường và ủng hộ gia đình đáp ứng các nhu cầu của họ.
- Các hoạt động của NVCTXH trong phúc lợi gia đình bao gồm:
Giúp gia đình giải quyết vấn đề;
Huy động các nguồn lực hiện có và nếu có thể tạo lập các nguồn lực mà gia
đình cần;
Làm việc với các cá nhân, nhóm để giúp đỡ gia đình có hiệu quả;
Thường xuyên/ liên tục đánh giá sự thích hợp và hiệu quả của các chính
sách, chương trình và dịch vụ hiện hành có liên quan đến gia đình
Giám sát NVCTXH trong các hoạt động khác nhau trong mối quan hệ với
gia đình được phục vụ.
3. CTXHvề sức khỏe và y tế
- Cũng giống như các lĩnh vực hoạt động khác, NVCTXH trong lĩnh vực về sức
khỏe, dù ở cấp độ quản trị, xây dựng kế hoạch hay thực hiện đều liên quan đến xác
định và giải quyết vấn đề vì mục đích tạo điều kiện thuận lợi và tăng cường các
mối quan hệ xã hội và điều chỉnh của cá nhân và môi trường của họ. Nói một cách
cụ thể hơn, mối quan tâm chính của NVCTXH là tạo ra sự tương tác của các yếu tố
kinh tế, xã hội và tâm lý trong chăm sóc người bệnh tại cở sở chăm sóc y tế, và
NVCTXH tìm kiếm hoặc phát triển các cách thức và công cụ để giải quyết vấn đề
đi kèm với chữa trị bệnh tật.
- Các dịch vụ xã hội về y tế nhằm mục đích sau:
Tạo sự chấp nhận điều chỉnh tốt hơn, phản ứng tốt của người bệnh, bệnh
viện hơn trong khi điều trị;
Có sự hiểu biết nhiều hơn, về phía nhân viên y tế, về hoàn cảnh của bệnh
nhân, nhằm để tạo thuận lợi cho việc chẩn đoán nhanh và chính xác, tăng
cường sự hợp tác của gia đình trong quá trình điều trị và phục hồi sức khỏe
người bệnh;
Giáo dục về sức khỏe cho bệnh nhân và gia đình của họ;
Sử dụng các dịch vụ cộng đồng tạo thuận lợi cho phục hồi và ngăn ngừa
bệnh tật;
Giúp đỡ người bệnh và gia đình họ giải quyết các khía cạnh tâm lý - xã hội
khi họ ốm đau về thể chất.
4. CTXH trong trong giáo dục giáo dưỡng/cải tạo
- Sự giáo dưỡng được định nghĩa như là “sự quản lý hình phạt theo phương thức tại
chỗ của người phạm tội trong phạm vi nhất định, cùng với những can thiệp điều
chỉnh để họ thay đổi”. Đây là biện pháp giúp họ được sử dụng các biện pháp phục
hồi đảm bảo sự an toàn cho cộng đồng, đồng thời đưa họ trở lại trạng thái bình
thường khi họ đã hết hạn cấm đoán. Các chức năng của điều chỉnh và phục hồi
được tiến hành bởi các cơ quan đưa ra những thử thách như đối với người vị thành
niên và người lớn phạm tội.
Dự án “Nâng cao năng lực cho NVCTXH cơ sở ở Tp.HCM” - tháng 7/2012 Trang 30
Giới thiệu nghề Công tác Xã hội
SDRC - CFSI
- Thực hành CTXH trong hệ thống trợ giúp người vị thành niên trong thời gian quản
chế đã hoạt động khá hiệu quả.
- Một số chức năng của NVCTXH liên quan tới thực hiện thử thách người vị thành
niên là:
Chuẩn bị nghiên cứu trường hợp/ca xã hội để tạo thuận lợi cho việc đưa ra
quyết định hợp pháp;
Cung cấp tham vấn và các dịch vụ cần thiết khác cho thanh niên và gia đình
họ trải qua giai đoạn thanh niên chịu thử thách;
Chuyển giao và huy động các nguồn lực cộng đồng cho thanh niên và/ hoặc
gia đình họ;
Cộng tác với các nhóm/ cơ sở khác đang tham gia vào các hoạt động liên
quan đến những người thử thách;
Chuẩn bị báo cáo/ đề xuất về những người thử thách chuẩn bị cho việc đưa
ra quyết định bởi toàn án (464- 468)
5. CTXH trong tòa án đặc biệt
Trong nhiều quốc gia, tòa án đặc biệt được tạo ra để giải quyết các trường hợp đặc
biệt như là xung đột vợ chồng và ly hôn, các trường hợp liên quan đến trẻ em và thanh
niên, bạo lực đối với phụ nữ, buôn bán người và lạm dụng tình dục, nhập cư và các
trường hợp có yếu tố người nước ngoài, các trường hợp sửa đổi về đất và các tranh chấp
về đất đai tổ tiên để lại NVCTXH hỗ trợ tòa án trong điều tra, cung cấp hỗ trợ hợp
pháp và tham vấn, các dịch vụ hòa giải và chuyển tuyến.
6. CTXH trường học
- CTXH trường học chủ yếu để cung cấp dịch vụ giúp đỡ cho những học sinh mà
vấn đề của họ xuất phát từ các nguyên nhân xã hội ảnh hưởng đến thành tích học
tập trong môi trường học đường. Các vấn đề này có thể được gây ra bởi yếu tố bản
thân học sinh, các yếu tố trong gia đình hay ngoài xã hội.
- Mục đích của CTXH trường học là cung cấp các dịch vụ nhằm đạt được các kết
quả sau đây:
Phục hồi
Hòa giải
Huy động các tiềm năng của học sinh, cha mẹ, gia đình họ và trường học và
cộng đồng; ngăn ngừa sự điều chỉnh không tích cực. Những mục đích này
xác địch chức năng đặc biệt của NVCTXH trường học, cụ thể là, như là nhà
chuyên gia, thông qua khả năng nghề nghiệp của họ, tạo sự nỗ lực của các
giáo viên, các nhà quản lý, và các chuyên gia khác trong quá trình trợ giúp
các học sinh phấn đấu đạt được các mục tiêu giáo dục (trang 469).
7. Dịch vụ xã hội cho nhóm người đặc biệt
- Nhiều NVCTXH làm việc trong các cơ sở xã hội dành cho những người có hoàn
cảnh đặc biệt. Những người này bao gồm người nghiện, phụ nữ trong hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn, người được tha tù và bệnh nhân của các trại tâm thần, người già
và người tàn tật. (trang 472- 482)
Người nghiện: Làm việc với người nghiện là một trong các lĩnh vực hoạt
động của nhiều CTXH. Lạm dụng thuốc là thuật ngữ chung bao gồm tất cả
các dạng sử dụng thuốc. Mục đích của trị liệu và phục hồi những người
Dự án “Nâng cao năng lực cho NVCTXH cơ sở ở Tp.HCM” - tháng 7/2012 Trang 31
Giới thiệu nghề Công tác Xã hội
SDRC - CFSI
nghiện thuốc là phục hồi về xã hội, tâm lý, hướng nghiệp và nghề nghiệp
cho người nghiện thuốc với mức độ phù hợp với tiềm năng của thân chủ.
Phụ nữ bị thiệt thòi về mặt xã hội: Phụ nữ bị thiệt thòi về mặt xã hội bao
gồm phụ nữ là nạn nhân của bạo lực trên cơ sở giới (như bạo lực trong gia
đình hoặc đánh vợ, hãm hiếp vợ, tội loạn luân, hãm hiếp, quấy rối tình dục),
phụ nữ mại dâm , nạn nhân của xung đột vũ trang và quân sự hóa (gây ra
hãm hiếp, tra tấn và tù đày và suy sụp về tài chính do chồng họ bị giam cầm
hay bị chết), cha mẹ đơn thân (nghĩa là người mẹ độc thân, góa/ quả phụ,
người vợ bị bỏ rơi hay bị sống li thân, người vợ có chồng làm việc ở nước
ngoài, người vợ có chồng bị giam cầm, người vợ có chồng là bệnh nhân bị
giữ trong bệnh viện với thời gian dài).
Người già: Người già, cũng giống như những thành viên khác của xã hội,
cần được có cơ hội để sống hữu ích. Cần có các dịch vụ xã hội cho những
người già vì họ không có khả năng tự chăm sóc. Họ cần sự giúp đỡ về kinh
tế, các vấn đề về sức khoẻ và y tế, các nhu cầu và vấn đề về tình cảm, các
vấn đề xã hội như các mối quan hệ gia đình và cộng đồng, chăm sóc cá
nhân, các nhu cầu giải trí và bố trí sắp đặt cuộc sống.
Người khuyết tật: Như một lĩnh vực hoạt động của thực hành công tác xã
hội, làm việc với người khuyết tật nghĩa là làm việc với người như người
mù, người điếc, người câm điếc, người bị cụt chân tay, và những người là
nạn nhân của các khiếm khuyết thân thể khác bao gồm các bệnh như bệnh
hủi, người đau yếu về tâm thần và người tật nguyền.
8. Phúc lợi và Phát triển cộng đồng
Thực hành CTXH trong tất cả các môi trường, bao gồm cung cấp các dịch vụ cộng
đồng, hoạt động và cộng tác với các nhóm và tổ chức khác nhau, tổ chức cộng đồng để
giải quyết vấn đề riêng của cộng đồng.
9. Công nghiệp, Lao động và Việc làm
Các dịch vụ phúc lợi xã hội trong lĩnh vực hoạt động các hoạt động công nghiệp hiện
đại có liên quan đến các nội dung sau: a) các nỗ lực thiết lập và nâng cao an sinh xã hội,
phúc lợi sức khỏe và phúc lợi chung cho người lao động và gia đình họ; b) tìm người lao
động thích hợp nhất cho các chủ lao động và công việc phù hợp cho người lao động
đang tìm việc làm; c) sử dụng NVCTXH để hỗ trợ người lao động và gia đình họ trong
các vấn đề và khó khăn về cá nhân, sức khỏe và tài chính; d) phát triển và duy trì các
dịch vụ phúc lợi cộng đồng.
10. Dịch vụ xã hội và hỗ trợ cộng đồng trong quản lý khu vực
Xu hướng hiện nay của phi tập trung quản lý và “khu vực hóa các dịch vụ quản lý”
trong nhiều quốc gia đã mở ra nhiều hướng hơn cho NVCTXH làm việc với các đơn vị
quản lý khu vực. Văn phòng dịch vụ và phát triển xã hội nhận các NVCTXH để cung
cấp trợ giúp, khủng hoảng và hỗ trợ khẩn cấp, thực hiện các chương trình Dịch vụ xã hội
trong các thôn xã khác nhau, tham gia trợ giúp các nhóm thiệt thòi cùng với các trung
tâm và cơ sở khác trong các chương trình giảm nghèo, hỗ trợ ổn định nơi ở cho các gia
đình và cộng đồng và các dịch vụ liên quan khác.
11. Giáo dục và đào tạo công tác xã hội
Giáo dục và huấn luyện có thể được xem xét là một lĩnh vực hoạt động của thực
hành CTXH vì nó bao gồm việc chuyển tải các kiến thức và kỹ năng của CTXH.
Dự án “Nâng cao năng lực cho NVCTXH cơ sở ở Tp.HCM” - tháng 7/2012 Trang 32
Giới thiệu nghề Công tác Xã hội
SDRC - CFSI
Công việc của NVCTXH trong lĩnh vực hoạt động giáo dục CTXH không giới hạn
trong phạm vi lớp học. Kiến thức của lĩnh vực hoạt động, là một thành phần chính của
giáo dục CTXH chuyên nghiệp, cung cấp nhiều cơ hội cho sự tiếp xúc liên tục với thực
hành, thông qua sự giám sát các sinh viên thực hành trong các môi trường CTXH phong
phú, đa dạng.
12. Xây dựng kế hoạch phát triển xã hội
Một số NVCTXH, thường là người đứng đầu hay quản trị cơ sở tư nhân, có cơ hội
tham gia vào xây dựng kế hoạch xã hội, do các tổ chức phúc lợi tự nguyện cũng được
giới thiệu trong các hội đồng liên quan tới sự phối hợp và liên kết khu vực.
Xây dựng kế hoạch xã hội là một trách nhiệm, là chiến lược của quốc gia vì sự phát
triển xã hội bao gồm các hoạt động phúc lợi giúp đảm bảo rằng các kế hoạch và chính
sách đáp ứng đầy đủ các nhu cầu và mong muốn của con người; làm giảm các vấn đề xã
hội, ngăn cản sự bất ổn xã hội, đạt sự phân phối công bằng các lợi ích, đưa quốc gia đến
sự phát triển.
Đây là các lĩnh vực hoạt động của CTXH nói chung, nhưng không phải ở quốc gia
cũng thực hiện tất cả trong các lĩnh vực kể trên. Mỗi quốc gia có lịch sử hình thành
CTXH khác nhau, sự phát triển khác nhau. Như Phi - lip - pin là một quốc gia phát triển
CTXH từ khá sớm và được công nhận là một nghề nghiệp cần phải có nên họ có xây
dựng CTXH thành mạng lưới bao gồm tất cả các lĩnh vực.
Trong khi đó, Việt Nam cũng đã hình thành CTXH từ lâu (xem lại phần lịch sử)
nhưng do bối cảnh lịch sử riêng biệt mà CTXH trước đây được xem như là công tác từ
thiện và thực hiện theo hình thức “phong trào”. Chính vì vậy mà CTXH ở Việt Nam
chưa được xây dựng thành mạng lưới và chỉ thực hiện hạn hẹp trong một vài lĩnh vực.
Theo Th.s Nguyễn Thị Oanh2 trong thời gian tới Việt Nam cần có sự quan tâm đặc
biệt các lĩnh vực sau:
Gia đình và trẻ em: Tuy rằng, hiện nay trẻ em trong hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn được quan tâm, hỗ trợ và quy tụ nhiều NVCTXH nhất nhưng các cách
làm của nhà mở, mái ấm chỉ giải quyết cái ngọn. Gia đình nông thôn cũng
như thành thị, giàu như nghèo đều đang trải qua cơn khủng hoảng trầm
trọng, cha mẹ đang hụt hẫng trong vai trò của mình trong một xã hội chuyển
biến quá nhanh. Do đó, việc đẩy mạnh công tác an sinh gia đình và trẻ em là
hết sức bức bách.
Phát triển cộng đồng và Xóa đói giảm nghèo: Đây là lĩnh vực chuyên
nghiệp nhất mà ta đã thực hiện từ lâu và cũng đã gặt hái được không ít sự
thành công. Tuy nhiên, phương thức phát triển cộng đồng còn phải được phổ
biến rộng rãi hơn nữa để phát triẻn địa phương các vùng sâu vùng xa.
Thanh thiếu niên: Tệ nạn xã hội, nạo phá thai, HIV/AIDS, tội phạm, bạo
lực đang lan tràn. Stress trong học sinh TP.HCM ngày càng tăng do sự chạy
đua theo chỉ tiêu của nhà trường và nhu cầu đòi hỏi cao ở cha mẹ. Giáo dục
kỹ năng sống được đưa vào Việt nam từ đầu những năm 90 đến nay nhưng
chỉ ở dạng thí điểm ở một số trường.
CTXH học đường: Đây là hoạt động không thể thiếu ở các nước để giải
quyết các vấn đề như bỏ học, kỷ luật, bạo lực, quan hệ nhà trường với phụ
huynh. Do nhu cầu của thực tế, các phòng tư vấn tâm lý học đường ở
TP.HCM được hình thành nhưng cũng chỉ mang tính thí điểm.
2 Trích từ Tài liệu Hội thảo Khoa học “Liên kết và Đào tạo CTXH ở Việt Nam”, Đà Lạt, 2004
Dự án “Nâng cao năng lực cho NVCTXH cơ sở ở Tp.HCM” - tháng 7/2012 Trang 33
Giới thiệu nghề Công tác Xã hội
SDRC - CFSI
CTXH với người khuyết tật: Những hoạt động với người khuyết tật mang
tính ban bố và bao cấp khiến cho họ mất cơ hội phát huy tính tự lực. Cần có
sự thay đổi về cái nhìn cũng như cách thực hiện mang tính chuyên nghiệp.
- Theo đề án 32 thì Việt Nam phạm vi thực hiện CTXH là:
Trong lĩnh vực bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt: NVCTXH đánh giá
tình hình của thân chủ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em bị ngược đãi, bị
bạo hành, bị lạm dụng hoặc bị sao nhãng, bao gồm cả chính bản thân các em
và tiềm năng của các mối quan hệ gia đình. NVCTXH có thể can thiệp vào
đời sống của gia đình, cộng đồng, sử dụng các phương pháp như tham vấn,
liệu pháp gia đình và giáo dục về mặt xã hội để giúp họ hiểu được nhu cầu
của con em mình và nâng cao kỹ năng làm cha mẹ và tăng cường khả năng
ứng phó.
Đối với các gia đình có vấn đề, mâu thuẫn, khủng hoảng: NVCTXH giúp
đỡ các gia đình đánh giá các mối quan hệ không phù hợp và nâng cao khả
năng để giải quyết các vấn đề của gia đình thông qua việc sử dụng các
phương pháp như tham vấn, làm việc với gia đình hoặc liệu pháp gia đình.
Lĩnh vực tư pháp người chưa thành niên: NVCTXH được quyền hạn
trong việc cung cấp cho trẻ sự hỗ trợ về tâm lý xã hội cho trẻ em và người
chưa thành niên trước toà án, cho dù trẻ là nhân chứng, nạn nhân hay bị cáo.
Họ có thể đi cùng với trẻ em hoặc người chưa thành niên thay cho cha mẹ và
người giám hộ. Các NVCTXH cũng góp phần giáo dục định hướng, hỗ trợ
tâm lý xã hội cho trẻ em và người chưa thành niên phạm tội phục hồi nhân
phẩm sau khi ra khỏi trường giáo dưỡng hoặc tìm việc làm cho các em.
Trong các trường phổ thông, cao đẳng và đại học: các vấn đề trong cuộc
sống gia đình hoặc trong trường phổ thông, trường cao đẳng, đại học có thể
ảnh hưởng đến khả năng học tập của học sinh, sinh viên. NVCTXH sẽ tiến
hành giáo dục và tham vấn cho những học sinh, sinh viên gặp phải những
vấn đề trong học tập.
Lĩnh vực sức khỏe, bao gồm cả sức khoẻ tâm thần (tại các bệnh viện và
phòng khám): NVCTXH hỗ trợ về mặt tâm lý xã hội và các dịch vụ chăm
sóc (nếu sẵn có những dịch vụ đó). Đồng thời, NVCTXH cũng đóng vai trò
là cán bộ quản lý trường hợp để điều phối dịch vụ cho người già cô đơn,
giám sát những thay đổi trong nhu cầu của họ để tìm kiếm dịch vụ cần đáp
ứng. Bảo trợ xã hội cho người tàn tật: NVCTXH đánh giá nhu cầu về khía
cạnh xã hội của người tàn tât. Đồng thời, họ cũng đóng vai trò là người quản
lý trường hợp, hỗ trợ người tàn tật tiếp cận những dịch vụ phù hợp và duy trì
tiếp cận một loạt các dịch vụ phối hợp tốt nhất. Trong trường hợp cần thiết,
NVCTXH cũng cung cấp hỗ trợ tâm lý cho người tàn tật và gia đình của
học.
Phát triển cộng đồng tại các khu phố, cụm dân cư: NVCTXH giúp đỡ
khu phố, cụm dân cư nhận dạng các vấn đề trong cộng đồng của mình và hỗ
trợ họ tìm những nguồn lực cần thiết để giải quyết vấn đề của khu phố, cụm
dân cư của mình.
Nghiên cứu xã hội và hoạch định chính sách xã hội: NVCTXH tiến hành
nghiên cứu các vấn đề xã hội có tác động đến xã hội. Họ cũng hỗ trợ chính
quyền xây dựng và thực hiện các chính sách và chương trình an sinh xã hội,
ví dụ như đóng vai trò là tham mưu chính sách và cán bộ quản lý chương
trình tại các cơ quan nhà nước.
Dự án “Nâng cao năng lực cho NVCTXH cơ sở ở Tp.HCM” - tháng 7/2012 Trang 34
Giới thiệu nghề Công tác Xã hội
SDRC - CFSI
II. CÁC DỊCH VỤ XÃ HỘI
1. Dịch vụ xã hội
Là các tổ chức cá nhân và xã hội thực hiện các hoạt động xã hội đáp ứng cả nhu cầu
bình thường và đặc biệt của cá nhân và gia đình đảm bảo các quyền cơ bản của con
người nhằm đem lại sự phát triển và cải thiện cuộc sống. Hệ thống dịch vụ xã hội bao
gồm nhiều lĩnh vực như: y tế, giáo dục, an sinh, nông nghiệp, hạ tầng cơ sở...
Trong mọi xã hội đều xây dựng hệ thống dịch vụ xã hội cơ bản nhưng có một bộ
phận không nhỏ dân chúng ở các vùng xa xôi, dân tộc thiểu số, những người nghèo ở
thành thị và nông thôn, những người HIV/AIDS, những người khuyết tật... không có cơ
hội tiếp cận được các dịch vụ mà họ mong muốn.
Trong CTXH, người NVCTXH đóng vai trò làm cầu nối cho các thành phần kể trên
có được cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội.
2. An sinh xã hội
Theo tác giả B.R Compton (Introduction to Social Welfare and Social work – Nhập
môn an sinh xã hội (ASXH) và CTXH, 1980), ASXH:
Một thiết chế
Bao gồm các chính sách và luật pháp
Thực thi bởi các tổ chức tự nguyên hay của nhà nước
Thông qua đó một mức độ tối thiểu được xác định về dịch vụ xã hội, tiền và
các quyền lợi khác (y tế, giáo dục, nhà ở...)
Được phân phối cho cá nhân, gia đình và cộng đồng
Nhằm mục đích phòng ngừa, giảm nhẹ hay đóng góp vào việc giải quyết các
vấn đề xã hội để cải tiến anh sinh của các nhân, nhóm và cộng đồng một
cách trực tiếp.
- ASXH là hệ thống các biện pháp và dịch vụ xã hội nhằm giúp cá nhân, tập thể và
cộng đồng vươn tới các tiêu chuẩn tốt đẹp của cuộc sống, sức khỏe và mội quan hệ
cá nhân và xã hội giúp phát triển tối đa các khả năng và tăng phúc lợi hài hòa với
nhu cầu của gia đình và cộng đồng3.
- Ở các nước đang phát triển, nó liên quan đến các vấn đề nghèo đói, thất học, bệnh
tật, thất nghiệp, suy dinh dưỡng, nhà ở... và các vấn đề khác của xã hội.
Ví dụ: Việt Nam, Nhà nước thực hiện rất nhiều chương trình và chính sách hỗ trợ
các thành phần yếu kém trong xã hội như: chương trình xóa đói giảm nghèo,
chương trình tạo công ăn việc làm, chương trình tín dụng trợ vốn sản xuất, cải tạo
nhà ổ chuột, phát triển nông thôn...
3 Lê Chí An, Nguyễn Ngọc Lâm, Trần Thị Nhẫn - Các thuật ngữ trong CTXH - ĐH Mở Bán công TP.HCM, 1995
Dự án “Nâng cao năng lực cho NVCTXH cơ sở ở Tp.HCM” - tháng 7/2012 Trang 35
Giới thiệu nghề Công tác Xã hội
SDRC - CFSI
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Charles H, Zastrow (1999). The Practice of Social Work – CTXH Thực hành. Cole
Publishing Company, United States of America.
[2] Dean H. Hepworth & Jo Ann Larsen (1993). Direct Social Work Practice – Hướng dẫn
CTXH Thực hành. Cole Publishing Company, Pacific Grove, California.
[3] Nguyễn Thị Oanh, CTXHđại cương, NXB Giáo dục, 1998.
[4] Th.s Đoàn Tâm Đan và Th.s Nguyễn Thị Ngọc Bích (2005), Tài liệu Tập huấn
CTXHcá nhân, Tài liệu của SDRC lưu hành nội bộ.
[5] Th.s Chu Dũng và Th.s Nguyễn Thị Ngọc Bích (2009), Tài liệu Tập huấn CTXHcá
nhân, SDRC Tài liệu của SDRC lưu hành nội bộ.
[6] Prof. Rosetta (2011), Tài liệu Tập huấn CTXH cá nhân, Dự án Thúc đẩy ngành CTXH
phát triển bền vững ở Việt Nam.
[7] Tài liệu tập huấn - Khoá đào tạo CTXH cho các nhà quản lý trong lĩnh vực CTXH
(CSWA), Dự án đào tạo CTXH tại Việt Nam MOLISA-ULSA-CFSI-ASI - AP-
UNICEF 2011
[8] Tài liệu Kỷ yếu Hội thảo khoa học “CTXH – Kết nối và Chia sẻ”, ĐH Khoa học Xã
hội và Nhân văn, 2011.
[9] Tài liệu Hội nghị Triển khai Đề án phát triển nghề CTXH trong lĩnh vực Y tế, 2011.
[10] Tài liệu Đề án 32 của Thủ tướng Chính phủ, 2011.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gioi_thieu_nghe_1069.pdf