* Tiểu vùng Đông Nam Bộ
Là vùng đất được khai thác thuần chủng khá sớm cách đây 4-500 năm (văn
hoá Độc Thừa Đồng Nai) song lịch sử phát triển không liên tục.
Vùng này càng tiến về phía Nam thì càng nhiều ***lầy, thuỷ triều ăn sâu vào
đất nhiễm phèn chua nặng.
Biển thì có 2 biển: Biển Đông và Biển Tây. Trên lưu vực Sông Cửu Long, cư
dân sông trên các vùng đất cao là người Việt và người Chăm (các giồng) Từ lâu
con người đã biết sông hoà hợp với tự nhiên, khai thác sản phẩm tự nhiên, có tinh
thần đoàn kết nương tựa vào nhau trong các tộc người, không có chiến tranh trong
các tộc người. Có lẽ là họ phải đoàn kết để chống với những gì khắc nghiệt của tự
nhiên.
+ Tiểu vùng Tây Nam Bộ: gắn với sông Đồng Nai, địa hình bán sơn, **gồm
cư dân người Việt chung sống với người Striêng, Cờ Ho, Khơ me. Ở hạ lưu sông
Đồng Nai có những nét tương tựu đồng bằng Sông Cửu Long ở đây vào đầu công
nguyên hình thành nên trung tâm văn hoá Ốc eo, có hải cảng lớn, đến thế kỷ XII
thì biến mất. Đến thế kỷ VIII thì chỉ còn lại trên sách vở, nhưng ngày nay tài liệu
cũng không nhiều.
- Cư dân ở đây là cư dân sống xen lẫn Việt, Chăm, Hoa, Kh me. Nơi đây đã
và đang diễn ra quá trình giao lưu khá sống động, các yếu tố Việt, Hoa, Chăm, Kh
me tạo nên sắc thái văn hoá vật thể lẫn phi vật thể qua nhà cửa, ăn mặc, đi lại, giải
trí, lễ hội.
Hoàn cảnh tự nhiên và lịch sử khai phá của vùng này đã tôi luyện tạo nên tính
cách của người Nam Bộ dũng cảm hiên ngang, hào hiệp, trong nghĩa khinh tài,
mến khách, bôn trực, nhạy cảm với cái mới.
Vùng văn hoá Nam Bộ được phân làm 3 tiểu vùng:
a. Tiểu vùng văn hoá đồng bằng sông Cửu Long
b. Tiểu vùng văn hoá đồng bằng sông Đồng Nai
c. Tiểu vùng văn hoá giữa TP Hồ Chí Minh (Sài Gòn - Gia Định)
+ Tiểu vùng đồng bằng Sông Cửu Long là nơi cư trú của người Việt, Kh me,
Chăm. Đây là nơi bảo lưu được nhiều nơi như U Minh, Thương Hạ, Đồng Tháp
Mười còn sông lầy, đất đai nhiễm phèn nhiễm mặn. Nhiều nơi cư dân thưa thớt,
môi trường tự nhiên nhiều nơi phần nào còn hoang sơ, con người lưu lạc đến khai
thác được phản ánh trong các truyền thuyết ca dao, dân ca của cư dân. Tính cách
của cư dân vùng đồng bằng Sông Cửu Long trên ** cho cả vùng Nam Bộ.
+ Tiểu vùng đồng bằng châu thổ sông Đồng Nai: Là vùng được khai phá sớm
hơn cả, làng xóm khá trù phú, ngoài làm ruộng còn làm rẫy, làm vườn, trồng các
cây đặc sản. Đô thị hình thành dọc các trục lộ giao thông.
Sinh hoạt văn hoá thể hiện sự quá độ trong người Việt ở Miền Trung và miền
Nam.
+ Tiểu vùng văn hoá Gia Định - Sài Gòn: Là trung tâm văn hoá của Nam Bộ
và cũng là đặc thù của văn hoá đô thị cho nên có có đặc trưng khác với 2 tiểu vùng
Đông Tây. Cùng với chất văn hoá đô thị là văn hoá bác học, đây vừa là thủ phú
của Nam Bộ và ở thời kỳ chế độ văn hoá chủ nghĩa là thủ đô là nơi giao lưu văn
hoá Việt - Pháp, Việt - Mĩ.
47 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 425 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Văn hóa các dân tộc Việt Nam - Trần Thị Tuyết Nhung, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ôcùng nhỏ bé,
khi sinh ra đã mang nặng tội tổ tông. Vì vậy, sống kiếp làm người phải ăn năn,
xám hối, chuộclỗi với Chúa, cầu mong Chúa cứu rỗi, ban ơn,...Sự nghiệp trần thế
của con chiên là phụng dưỡng ý đồ cứuđộ của Thiên Chúa để khi chết không bị
đầy xuống tuyền đài mà được trở về với Thiên đường sống hạnhphúc bên Thiên
Chúa vô vàn tôn kính._ Lý tưởng của Kinh Thánh sớm ăn nhập vào tâm tri của một
bộ phận không nhỏ dân chúng có cuộc sốngkhổ đau, bần hàn. Nó đã được dân tộc
việt Nam tiếp biến, cải biên phần nào cho phù hợp với truyền thống văn hoá dân
tộc. Từ đây, văn hoá Việt Nam được bổ một nội dung văn hoá tôn giáo mới, tăng
thêm phân đadạng và sâu sắc.Nửa sau thế kỷ XIX, văn hoá Việt Nam đặt dưới sự
thống trị của thực dân. Dưới sự chèo lái của triều đình nhà Nguyễn,"dân tộc Việt
Nam đã đánh mất hành động độc lập trong lịch sử”, làm cho con thuyền văn hoá
dân tộc chỉu nặng ý đồ chính trị thực dân Phương tây. Lúc này, văn hoá Việt Nam
mang hai nội dung chủyếu là: “Tiếp xúc và giao thoa văn hóa Việt Pháp; và giao
lưu văn hóa tự nhiên Việt Nam với thế giới Đôngtây”._ Đặc biệt lĩnh vực văn hoá
vật chất được thực dân Pháp phát triển ồ ạt trên lãnh thổ Việt Nam, làm phainhạt
tính đậm đà, bản sắc của văn hoá dân tộc và thay vào đó bằng văn hoá ngoại lai, xa
lạ với cư dân nông nghiệp lúa nước.Vì vậy, trước khi cách mạng tháng 8 thành
công, năm 1943 Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xây dựng bản Đề cương văn hoá,
vạch ra tình trạng "Văn hoá Việt Nam hiện nay về hình thức là thuộc địa, về nội
dung là tiềntư bản. Chiến tranh và xu trào văn hoá hiện nay: Ảnh hưởng của văn
hoá Phát xít làm cho tính chất, nô dịch trong văn hoá Việt Nam mạnh lên, những
đồng thời chịu ảnh hưởng của văn hoá tân dân chủ, xu trào văn hoá mới của Việt
Nam đang cố vượt hết mọi trở lực để nẩy nở". Xuất phát từ thực trạng văn hoá này,
đảng ta đã đề ra nhiệm vu xây dựng nền văn hoá mang nội dung: Dân tộc, Khoa
học và Đại chúng.Năm 1945, cách mạng tháng 8 thành công, nước Việt Nam dân
24
chủ cộng hoà ra đời, đánh dấu một mốc sonvĩ đại trong lịch sử dân tộc, đưa đất
nước bức vào kỷ nguyên của độc lập, tự chủ, xây dựng nền văn hoá mớixã hội chủ
nghĩa. Từ đây, những nội dung của bản Đề cương văn hoá dân dần được bổ sung,
phát triển theotỉnh hình cách mạng của dân tộc._ Sau năm 1955, đất nước ta bị chia
cắt làm hai miền: Miền bắc xây dựng, phát triển kinh tế-chính trị, vănhoá-xã hội xã
hội chủ nghĩa; Miền nam còn chịu ách thống trị của thực dân-đế quốc Mỹ, do đó
văn hoáMiền nam bị ảnh hưởng nhiều bởi lối sống của văn hoá Phương tây.Năm
1975, Miền nam hoàn toàn giải phóng, đất nước độc lập, giang sơn thu về một mối,
văn hoá Việt Namthống nhất phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt
Nam._ Trải qua một thời kỳ văn hoá bao cấp, năm 1986 Đẳng ta đổi mới tư duy
phát triển nền kinh tế thị trườngtheo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng đời
sống mới. Từ đây, cùng với các lĩnh vực khác, văn hoáđược Đảng ta trú trọng quan
tâm bằng những quyết sách cụ thể._ Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung
ương Đảng (khoá V) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIchỉ rõ: "Công tác văn
hoá, văn học, nghệ thuật phải được nâng cao chất lượng. Mỗi hoạt động văn hoá,
vănnghệ đều phải tính đến hiệu quả xã hội, tác động tốt đến tư tưởng, tâm lý, tình
cảm, nâng cao trình độ giácngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ thẩm mỹ của nhân
dân. Quan tâm đáp ứng nhu cầu, thị hiếu lành mạnh củacác tầng lớp xã hội và các
lứa tuổi"._ Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng (khoá VI) tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIIvạch ra nhiệm vụ của cách mạng văn hoá Việt
Nam là: "Tiếp tục xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hoáViệt Nam, bảo tồn và
phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp của các dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá
nhânloại. Vận động toàn dân thực hiện lối sống cần, kiệm, văn minh, lịch sự. Phổ
biến rộng rãi trong nhân dânnhững kiến thức văn hoá cần thiết cho sản xuất và đời
sống. Thực hiện nam nữ bình đẳng, bảo vệ nhânphẩm phụ nữ. Phát động phong
trào quần chúng bài trừ mê tín dị đoan và các tệ nạn xã hội khác"._ Đại Hội lần thứ
VIII của Đảng tiếp tục khẳng định: "Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa
là mụctiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội. Cùng với khoa
học và công nghệ, giáo dục và đàotạo, các hoạt động văn hoá, văn nghệ có vị trí
quan trọng trong việc hình thành nhân cách, làm phong phúđời sống tinh thần con
25
người Việt Nam. Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hoá phải
đượcthấm đậm không chỉ trong công tác văn hoá-văn nghệ, mà cả trong mọi hoạt
động xây dựng, sáng tạo vậtchất, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ,
giáo dục và đào tạo sao cho trong mọi lĩnh vực chúng tacó cách tư duy độc lập, có
cách làm vừa hiện đại vừa mang sắc thái Việt Nam". Do đó, "Mọi hoạt động
vănhoá, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, xây dựng conngười Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm,
lối sống, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnhcho sự phát triển xã hội". Đồng
thời, "kế thừa và phát huy các giá trị tinh thần, đạo đức và thẩm mỹ, các disản văn
hoá, nghệ thuật của dân tộc".Tiếp tục đường hướng nói trên, năm 1998 Đảng ta tổ
chức Hội Nghị TW V, chuyên bàn về vấn đề văn hoá.Xác định xây dựng nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn phát triển mới._
Nền văn hoá tiên tiến không có nghĩa là xoá bỏ truyền thống mà nó là nền văn hoá
mang những đặc trưngcụ thể như: Yêu nước, tiến bộ, độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-lênin,tư tưởng Hồ Chí minh; nhân văn;
phong phú cả về nội dung và hình thức._ Tính chất tiên tiến phải đảm bảo được nội
dung nhân văn, nhân đạo sâu sắc, nhưng đồng thời phải thể hiệnsự đa dạng và
phong phú về hình thức.Tính chất đậm đà của nền văn hoá dân tộc đảm bảo giữ gìn
và phát huy những giá trị mang bản sắc dân tộcnhư lòng yêu nước, tinh thần nhân
ái, sự bao dung, độ lượng, quý trọng nghĩa tình, đạo lý, dũng cảm và đặcbiệt giữ
gìn tinh thần đoàn kết dân tộc.Để xây dựng nền văn hoá vừa tiên tiến vừa đậm đà,
Hội Nghị TW V đã xác định:-Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xãhộ;-Nền văn hoá mà chúng ta
xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;-Nền văn hoá Việt Nam
là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam;
-Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong
đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng;
-Văn hoá là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách
mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng._ Nhìn lại
20 năm đất nước đổi mới, văn hoá Việt Nam đang "thăng hoa", tiến bước cùng sự
26
phát triển củalịch sử dân tộc. Bên cạnh sự tăng trưởng về kinh tế, ổn định về chính
trị, phát triển về giáo dục,...văn hoá nghệ thuật đã gặthái được nhiều thành tựu góp
phần đưa đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lên một tầm cao mới.
Tuy nhiên, thì đại ngày này được xem là thời đại vũ bảo, guồng máy phát triển của
thế giới được bôi trơnbởi nền tri thức vượt bậc của nhân loại. Xu hướng toàn cầu
hoá đã cuốn hút tất cả các nền văn hoá dân tộctrên thế giới vào quỷ đạo chúng.
Chính quá trình này đã diễn ra sự "đụng độ" giữa các nền văn minh, và văn hoá
của các dân tộc có cơ hội được "cọ sát".
Toàn cầu hoá là cơ hội để Việt Nam tham gia vào sân "chơi trí tuệ" của thế giới, từ
đó học hỏi, thu nhận có chắt lọc những tinh hoa văn hoá nhân loại. Nhưng toàn cầu
hoá cũng là một thách thức không nhỏ, bởi vìnếu không vững lập trường sẽ rất dễ
đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc. Vì vậy, phải xác định: "Hoà nhập nhưng không
hoà tan". Văn hoá là tấm thẻ căn cước để tham gia vào quá trình hội nhập, nhưng
bằng mọi giá phải giữ cho được tấm thẻ đó, nếu mất nó là đánh mất quyền lợi
trong "cuộc chơi" và cũng đồng nghĩa vớiviệc đánh mất mình.
Tóm lại, văn hoá là những giá trị vật chất và tinh thần của con người được hình
thành sau lịch sử đấu tranh mạnh mẽ với thiên nhiên, với xã hội. Mỗi một dân tộc
đều có lịch sử văn hoá của riêng mình biểu hiện tính cách, bản sắc độc đáo không
lặp lại hay đồng nhất với bất kỳ văn hoá của dân tộc nào trên thế giới. Vì vậy,"giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hoá" không chỉ là sự lựa chọn mà còn là nhiệm vụ, là
mục tiêu của cả dântộc Việt nam trong thời đại mới.
3.4. Văn hóa các dân tộc Việt Nam là nền văn hóa của cư dân nông nghiệp
Do vị trí địa lý nằm ở góc tận cùng phía Đông-Nam Châu Á nên Việt Nam thuộc
loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt điển hình. Tất cả những đặc trưng của
loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt đều được thể hiện rất rõ nét trong đặc
trưng văn hóa Việt Nam.
Cư dân Việt Nam chủ yếu sinh sống bằng nghề nông, trong cách ứng xử với tự
nhiên, do nghề trồng trọt buộc người dân phải sống định cư để chờ cây cối lớn lên,
đơm hoa, kết trái và thu hoạch, từ đó ưa thích lối sống ổn định, cho rằng” An cư
lạc nghiệp” . Do sống phụ thuộc vào thiên nhiên nên cư dân nông nghiệp có ý thức
27
tôn trọng và ước vọng sống hòa hợp với thiên nhiên. Người Việt Nam mở miệng ra
là nói “ nhờ trời”, “lạy trời” Các tín ngưỡng và lễ hội sung bái tự nhiên rất phổ
biến ở các tộc người trên khắp mọi vùng đât nước.
Vì nghề nông, nhất là nghề nông nghiệp lúa nước, cùng một lúc phụ thuộc vào
nhiều yếu tố thiên nhiên như : thời tiết, nước, khí hậu,... “ trông trời, trông đất,
trông mây; trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm” nên về mặt nhận thức,
hình thành nên lối tư duy tổng hợp- biện chứng, nặng về kinh nghiệm chủ quan
cảm tính: sống lâu lên lão làng, trăm hay không bằng tay quen Người làm nông
quan tâm không phải là từng yếu tố riêng lẻ mà là những mối quan hệ giữa chúng.
Người Việt tích lũy được một kho kinh nghiệm hết sức phong phú về các loại quan
hệ này: Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa; Được mùa lúa thì úa mùa cau, được mùa
cau thì đau mùa lúa; Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì
râm
Về mặt tổ chức cộng đồng, người Việt có lỗi sống cố định lâu dài nên tạo ra những
mối quan hệ tình cảm thân thiết, gắn bó, hình thành nên lối sống Trọng tình..
Nhưng cũng từ đây hình thành lối sống tự trị, khép kín, hướng nội. Lỗi sống trọng
tình cảm tất yếu dẫn đến thái độ trọng đức, trọng văn, trọng phụ nữ. Trong ngôi
nhà của người Việt rất coi trọng gian bếp, thể hiện sự coi trọng phụ nữ. Người
Việt coi: Nhất vợ nhì trời; Lệnh ông không bằng cồng bà Người phụ nữ cũng
được xem là người có vai trò quyết định trong việc giáo dục con cái: Phúc đức tại
mẫu; Con dại cái mang Sự gắn bó cộng đồng tạo nên lối sống trọng tình nghĩa:
Lá lành đùm lá rách; Bầu ơi thương lấy bí cùng; các quan hệ ứng xử thường đặt
lý cao hơn tình: Một bồ cái lý không bằng một tí cái tình
Lối tư duy tổng hợp – biện chứng, luôn đắn đo cân nhắc của người làm nông
nghiệp cộng với nguyên tắc trọng tình đã dẫn đên lối sống linh hoạt, luôn thay đổi
để thích hợp với từng hoàn cảnh: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài; Đi với bụt mặc áo
cà sa, đi với ma mặc áo giấy; Mặt trái của tính linh hoạt là thói tùy tiện biểu
hiện ở tật co giãn giờ giấc, sự thiếu tôn trọng pháp luật, tệ đi “ cửa sau” để giải
quyết công việc( Nhất quen, nhì thân, tam thần, tứ thế).
28
Vì sống theo tình cảm nên mọi người phải biết tôn trọng và cư xử bình đẳng, dân
chủ với nhau. Lối sống trọng tình và cách cư xử dân chủ dẫn đến tâm lý coi trọng
cộng đồng, coi trọng tập thể. Người nông nghiệp làm gì cũng phải tính đến tập thể,
luôn có tập thể sau lưng.
Trong lối ứng xử với môi trường xã hội, tư duy tổng hợp vfa phong cách linh hoạt
còn quy định thái độ dung hợp trong tiếp nhận: ở Việt Nam không những không có
chiến tranh tôn giáo mà mọi tôn giáo đều được tiếp nhận. Đối phó với các cuộc
chiến tranh xâm lược người Việt Nam luôn hết sức mềm dẻo, hiếu hòa.
Như vậy, hầu như tất cả những đặc trưng của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp
trồng trọt đều được thể hiện rõ nét trong cách tố chức đời sống, phương thức tư
duy, lối ứng xử của người Việt truyền thống.
3.5. Văn hóa các dân tộc Việt Nam là nền văn hóa với tư duy kỹ thuật thủ công
mang phong cách tộc người đậm đà
- Các loại hình kinh tế văn hóa chúng ta có được cho đến thời điểm hiện nay đó là loại
hình kinh tế văn hóa thời kỳ tiền công nghiệp/nặng nông nghiệp.
- Là: khi làm nhà, thuyền thì yếu tố kỹ thuật việc làm nhà, đắp đường dựa vào cơ bắp,
không dựa nhiều vào đầu óc
- Đơn giản, kỹ thuật đúc, chạm, khắc còn thô sơ, chủ yếu dựa vào điều kiện tự nhiên.
- Kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt rất đơn giản.
- Công cụ lao động làm nên thành phẩm hết sức đơn giản, không mấy thay đổi theo thời
gian như dệt thổ cẩm.
- Sản xuất chưa nghĩ đến yếu tố hàng hóa, nền kinh tế tự cung, tự cấp, khép kín.
3.6. Văn hóa các dân tộc Việt Nam là sự biểu hiện của nền văn hóa dân gian đa dạng
phong phú và độc đáo
- dân tộc với trình độ phát triển chưa cao, đây là mảnh đất màu mỡ cho văn hóa dân gian
phát triển.
- Sự đa dạng, phong phú, độc đáo của văn hóa dân gian: nhiều thể loại, nội dung phong
phú, nghệ thuật thể hiện, cách thức thể hiện.
- Mức độ đậm đặc của các loại hình nghệ thuật truyền thống dân tộc đang tồn tại lưu giữ
mà chúng ta chưa thể tìm thấy hết.
- Tiếp nối dòng chảy từ ngàn đời.
29
3.7. Văn hóa các dân tộc Việt Nam là sự phản ánh quá trình tiếp xúc và biến đổi văn
hóa tộc người
- Các dân tộc Việt Nam ở trên đất nước ta trong lịch sử dân tộc không bao giờ là ốc đảo
điều đó chứng tỏ qua các quan hệ nhiều chiều từ xa xưa trong lịch sử
- Tiếp xúc giữa rất nhiều các tộc người với nhau
* BÀI ư
TẬP 1 3 TIẾT
+ Phân biệt các khái niệm văn hóa, vùng văn hóa, bản sắc văn hóa, bản lĩnh dân tộc,
sắc thái văn hóa, tộc người, dân tộc. Tài liệu: Ngô Đức Thịnh (2001), Văn hóa và phân
vùng văn hoá Việt Nam, NXB Trẻ, TP Hồ chí Minh
+ Làm rõ quá trình hình thành dân tộc Việt
30
CHƯƠNG 4. ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM 12 TIẾT
4.1. Khái quát những đặc trưng vùng văn hóa Tây Bắc
Là 1 vùng xứ sở hoa Ban của người Thái. Về địa hình đây là vùng núi cao rất
hiểm trở chạy theo hướng đó. Đây Hoành Liên Sơn dài 150km, rộng 80km, cao
trung bình 1.500km. Có đỉnh cao nhất là Phan xi păng 1432m. Vùng này gồm các
tỉnh: 1 Lai Châu; 2 - Sơn La; 3 - Tây Hoàng Liên Sơn; 4 - Hoà Bình; 5 - vùng núi
Thanh Nghệ tĩnh.
Cảnh quan tự nhiên có nhiều nét tương đồng như các núi cao bị chia tách
bằng những nét đứt gãy của kiểu tạo địa chất thành những thung lũng sông, suối.
Khí hậu: Mang tính chất lục địa tương đối rõ gió mùa nhưng không rõ như
Việt Bắc và Bắc Bộ. Tuy thuộc vùng nhiệt đới gió mùa nhưng ở độ cao nên đã ngã
sang Á nhiệt đới và ôn đới. Đo dó nó có nhiều tiểu vùng khí hậu khác nhau. Thiên
nhiên cũng đa dạng, thổ nhưỡng đa dạng, mật độ dân số thấp năm 1973 mật độ là
53 người/1km2. Cư dân chủ nhân xa xưa đều làm nông nghiệp theo 2 loại hình
ruộng lúa nước thung lũng làm rẫy. Hệ động thực vật thuộc cận nhiệt đới và có
phần ôn đới. Có 2 chủ thể chính trong sáng tạo văn hoá là người Thái và người
Mường, ngoài ra còn có tộc người khác. Người Thái là tộc đa số họ sống ở các
thung lũng làm ruộng lúa nước , bên cạnh làm rẫy cũng góp phần ** vào đời sống
của họ. Khoảng trước và sau có một bộ phận cư dân phía Bắc di cư tới cộng cư với
dân bản địa. Đến cuối TNK** đầu TNK I trước công nguyên, cư dân chủ yếu là
người Thái.
Những thế kỷ gần đây tiếp nhận thêm nhiều tộc người khác đến định cư như
người Dao, H'Mông, Kinh nhưng người Thái, Mường vẫn đông vai trò chính ở
31
vùng này. Các tộc người đến sau thường sống du canh du cư làm nương rẫy. Người
Thái, Mường vẫn đóng vai trò quyết tâm tạo nên sắc thái đặc trưng của vùng này.
Cơ cấu xã hội: Phụ thuộc vào cơ cấu xã hội người Thái, các tộc người đến sau
sống xen vào góp phần tạo nên hình thành đặc trưng văn hoá. Tuy nhiên mỗi tộc
người đều có sắc thái văn hoá riêng được họ bảo lưu.
Theo các nhà khoa học thì người Thái và Mường và một só tộc người đã định
cư ở đây từ thời Đông Sơn. Nhà sàn của người Thái có đặc trưng riêng là: Ném có
hình khum khum mai rùa, 2 đầu hồi có sừng cuộn. Địa bàn định cư sinh sống chủ
yếu nằm trong vùng ven đồi, ven núi, nhìn ra sông bao giờ cũng có sông suối dựa
vào đó tạo nên hệ thống mương phát và độc dốc để đưa nước tưới ruộng. Do chủ
động được nguồn nước nên họ nuôi cá sau khi gặt, họ tháo nước để bắt cá, làm
cơm cá cúng thần linh. Có ý kiến cho rằng cá có tác dụng làm tốt ruộng nhờ nó sục
bùn.
Các dòng suối đóng vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của người
Thái. Suối âm, núi dương, suối là nơi trú ngụ của thần nước, nên người Thái hay
cúng thần nước, nương rẫy là hình thức sản xuất không thể thiếu. Với nương rẫy
người Thái trồng lúa khô, bầu bí, rau đậu, đu đủ, vừng, kê, họ còn có nghề dệt vải.
Đặc điểm đáng chú ý: Người Thái rất có ý thức bảo vệ rừng, bảo vệ sinh thái,
về phương diện phi vật thể, người Thái sống hoà thuận, giản dị, chân thật với
người trong cũng như ngoài cộng đồng. Họ không bao giờ đánh mắng trẻ con. Khi
gặp khó khăn, trong thiếu đến kém thì họ thường nhường cơm xẻ áo 1 cách chân
thật. Việc giúp đỡ nhau vô tư từ người Thái ảnh hưởng đến các tộc người sống
trong vùng. Các tộc người ở đây đều thờ vật tổ. Họ có tín ngưỡng vạn vật hữu linh
cho rằng: mọi vật đều có linh hồn, có 80 loại hồn, các bộ phận của cơ thể đều có
hồn, họ cũng quan niệm khi chết người ta không mất đi mà về sống với tổ tiên nên
đối với người chết họ làm lễ tiễn đưa.
Về văn hoá nghệ thuật: Có những nét độc đáo, múa xoè của người Thái, văn
hoá bạc học chưa xuất hiện. Trong các tộc người ở đây thì người Mường có sử thi
(xoè của người Thái có tới 32 điệu khác nhau). Người H'Mông thì có điệu múa
khèn, người Khơ mú có điệu múa lắc mông.
32
Nhạc cụ phổ biến là bộ hơi: khèn có lưỡi gà bằng đồng, bạc, tre, bằng lá. Họ
thích trang trí trang phục, trên quần áo trang phục luôn trang trí đường nét hoa văn
màu nóng, thích màu đó, vàng rơm, tím, da cam, ít thích màu xanh.
Đi lại do núi cao hiểm trở nên đi lại chủ yếu là bằng ngựa hoặc đi bộ.
Vùng này có thể phân thành các tiểu vùng:
+ Tiểu vùng văn hoá Tày bao gồm: Lai Châu - Bắc Sơn La và Tây Hoàng
Liên Sơn
Tiểu vùng này đã diễn ra quá trình đồng hoá mạnh mẽ các tộc người.
+ Tiểu vùng miền núi Thanh - Nghệ Tĩnh vẫn là văn hoá Thái có nguồn gốc
xa xưa ở Tây Bắc di cư vào và hình thành nên. Ở đây không chỉ có văn hoá Thái
mà còn ảnh hưởng của văn hoá Môn Khơ me, Dao và cả Lào.
+ Tiểu vùng hỗn cư Mường Thái thuộc địa phận Hoà Bình, Nam Sơn La, Bắc
Thanh Hoá là vùng dân tộc Thái. Văn hoá có sự giao lưu ảnh hưởng sâu sắc. Nơi
trung tâm cư trú của người Mường, ảnh hưởng văn hoá Mường và ngược lại văn
hoá Thái vẫn đóng vai trò chủ đạo.
Ngoài ra còn có những vùng trung gian nhưng không có đặc trưng vùng.
4.2. Khái quát những đặc trưng vùng văn hóa Việt Bắc
Có những nét khác Tây Bắc nằm ở phía Đông dãy Hoàng Liên Sơn chịu sự
chi phối của khí hậu gió mùa, gồm các tỉnh: Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng Ninh,
Thái Nguyên, Bắc Cạn và đồng Hoàng Liên Sơn.
Tuy là vùng núi nhưng đồi núi ở đây thấp, địa hình ít bị chia cắt, giao thông
đi lại thuận lợi hơn. Khí hậu chịu ảnh hưởng của gió mùa nên ít mang tính lục địa.
Khí hậu từ cận nhiệt đới sang ôn đới. Do nằm ở địa đầu đất nước nên là nơi chịu
ảnh hưởng lớn nhất của gió mùa đông bắc mang tính lục địa. Quần thể động thực
vật mang tính cận nhiệt đới, ôn đới rét nhất Việt Nam. Các cánh cung tụ lại ở Tam
Đảo mở ra ở phía Bắc và Đông Bắc lồi hứng ra biển. Toàn vùng có 5 hệ thống
sông chính. Sông Thao, sông Lô, sô Cầu, sông Thương, , sông Lục Nam. Đặc
trưng chung của sông ở dây là độ dốc lớn thường hay gây ra lũ lụt, dòng chảy
mạnh về mùa mưa. Sinh thái ở vùng này có nhiều hồ, nỗi tiếng là hồ Ba Bể. Dân
cư chủ yếu là người Tày, Nùng có chung nguồn gốc lịch sử thuộc khối Bách Việt
33
xưa. Từ Nùng mới xuất hiện khoảng đầu thập niên kỷ I trước công nguyên. Thời
vua Hùng liên mionh Lạc Việt - Tây Âu khá chặt chẽ. Đây cũng là vùng giao lưu
văn hoá văn nghệ với văn hoá Hán nên để lại nhiều dấu ấn trong lịch sử, đặc biệt là
thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc năm 544 cư dân tham gia khởi nghĩa Ly
Bôn, trước đó T/3 tích cực khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Thời kỳ tự chủ họ có vai trò
to lớn trong 3 lần kháng chiến chống Mông - Nguyên (nội dung có đóng góp**)
- Thời chống Minh ở đây có Ải Chi Lăng. Vùng này xuất hiện nhiều anh
hùng như: Nông Vạn Lạch, Hoàng Khiêm Hữu, Nguyễn Văn Hách, Dương Thế
Chân. Nhà Mạc khi thất bại lên Cao Bằng xây dựng thành luỹ chống Trịnh thì một
số thủ lĩnh Tày, Nùng đứng về phía nhà Lê chống Mạc.
Thời Quang Trung họ T/3 chống Mãn Thanh.
Thời chống Pháp trước đây là căn cứ địa, cái nôi của cách mạng.
Trong chống Mỹ cư dân ở đây cũng có đóng góp lớn.
Trong 2 tộc người tiêu biểu của vùng là Tày và Nùng, người Tày ảnh hưởng
người Hán hơn người Nùng. Người Nùng lại ảnh hưởng văn hoá của người Kinh.
+ Tính chất xã hội: Cư dân ở đây chịu ảnh hưởng văn hoá Hàn Việt nên có
tính chất khá chặt chẽ. Bản là đơn vị cơ sở giống làng của người Kinh nhưng bản
không phải là một đơn vị sản xuất mà là một đơn vị xã hội, đơn vị sản xuất của
người Tày, Nùng là gia đình phụ hộ, người chồng, người cha đóng vai trò gia
trưởng, quyết định mọi việc lớn nhỏ, quyết định tài sản. Đối nội đối ngoại, ý thực
trọng nam khinh nữ, phân biệt đối xử thể hiện rõ trong việc phân chia vị trí trong
ngôi nhà. Nhà ngoài dành cho đàn ông, phụ nữ không bao giờ được ở nhà ngoài.
Đặc điểm: Người Tày, Nùng có 2 loại nhà: + Nhà Sàn
+ Nhà đất
- Nhà sàn có 2 loại: Sàn 2 mái, 4 mái, loại hình chữ nhật 4 mái đầu hồi bao
giờ cũng thấp hơn 2 mái chính cửa ở mặt trước hoặc đầu hồi nhà đất, ngày càng
nhiều và có nhiều thay đổi.
Một số vùng có nhà nữa sàn, nữa đất là loại đặc biệt vừa có tính chất nhà đất
vừa có tính chất nhà sàn.
34
- Mặt: Người Tày, Nùng có trang phục khá thống nhất được phân biệt theo
giới tính địa vị xã hội, lứa tuổi và nhóm địa phương. Nói chung chịu ảnh hưởng
của phương Bắc, Y phục nam người Tày áo cánh 4 thân, 5 thân.
Y phục của phụ nữ Tày Nùng có vòng cổ tay, chân xà tích bàng bạc
Khăn của người Tày là khăn vuông, khi lễ hỏi buộc chỉ đỏ xanh, thắt núi phái
nam. Răng phụ nữ bịt đồng.
Phụ nữ Nùng chỉ dùng áo, nam châm áo lót trong màu chàm, áo lót trong màu
trắng, áo cánh chèn năm thân. Phụ nữ thích các trang sức như vòng cổ tay, vòng cổ
chân bằng bạc, hoa tai.
Ăn: Tuỳ theo tộc ngwoif mà có cách chế biến và hương vị riêng. Có lẽ dỡ ảnh
hưởng của xứ lạnh nên người Tày phổ biến các món xào rán. Ngô được chế biến
làm bánh hoặc từ gạo nếp bánh rất ngon, tết có món cốm. Xôi người Tày, Nùng là
xôi có màu, bữa ăn của cư dân Tày, Nùng bình đẳng các thành viên trong gia đình
được ăn một năm. Khách đến được ưu tiên. Tri thức của người Tày Nùng xuất hiện
sớm, do đó đã xác định được chữ viết riêng theo mẫu tự La Tinh.
Tín ngưỡng: Tin vào thầm bản mệnh có nhiều loại thần. Ý thức về gia đình,
dòng tộc được chú ý hơn vùng Tây Bắc. Mỗi gia đình có vị trí đặt bàn thờ tổ tiên
trong nhà bên cạnh có bàn thờ vua bếp. Văn hoá có nét khác Tây Bắc, phổ biến là
không giáo, đạo giáo, có nhiều chùa thờ phật: Chùa Tam Thanh, Diên Khánh.
* Văn hoá dân gian: Đa dạng, phong phú, về thể loại, thành ngữ, tục ngữ,
truyện cổ tích, hát vĩ, hát đồng dao, dân ca, hát giao duyên, hát lượm, hát cọi.
+ Lễ hội của người Tày - Nùng ** tiêu biểu là hội lòng tòng (xuống đồng lễ
hội gồm 2 phần (phần lễ và phần hội).
+ Lễ rước các thần ra nơi tổ chức ngoài đồng cúng rồi có bữa ăn ngoài đồng.
* Phần hội: Tính chất các trò chơi
- Vùng này còn có văn hoá chợ: chợ không chỉ là nơi buôn bán hàng hoá mà
còn là nơi nam nữ tỏ tình trao duyên.
Tóm lại: Vùng văn hoá Việt Bắc có nhiều đặc thù với chủ thể Tày - Nùng tạo
cho nó những đặc trưng văn hoá khá nỗi bật. Tuy nhiên nó như những bông hoa tô
điểm thêm cho văn hoá dân tộc. Vùng này được chia ta nhiều tiểu vùng.
35
+ Tiểu vùng đông Bắc - Quang Minh gồm phía đông Hoàng Liên Sơn gắn với
các đối ven biển và các đảo. Từ xa xưa các tộc người Hoa, Dao, Việt, Sám Dìu đã
sinh sống ở đây. Họ có sự giao thoa ảnh hưởng văn hoá với nhau.
Hoạt động kinh tế nỗi bật là canh tác nông nghiệp, đánh bắt cá biển, nghề thủ
công. Đầu thế kỷ XX ở đây phát triển công nghiệp khai mỏ nên đô thị xuất hiện
phát triển thành phố Hạ Long.
+ Tiểu vùng rẽo cao: Nằm dọc biên giới gồm Bắc Hà, Đồng Văn, Mèo Vạc
đây là nơi sinh sống của các tộc người H'Mông, Dao cũng tạo nên các sắc thái
riêng được coi là tiểu vùng rẻo cao.
4.3. Khái quát những đặc trưng vùng văn hóa châu thổ Bắc bộ
* Đặc điểm môi trường tài nguyên và xã hội
Nó là toàn bộ không gian lãnh thổ đồng bằng và một phần trung du Bắc Bộ
bao gồm cả vùng lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Lam. Sự hình thành ** Đông
Sơn có ý kiến cho rằng là kết quả của cư dân Nghệ Tĩnh tuần du ta hợp với phía
Bắc xuống. Gồm các tỉnh Hà Tây, Hà Nội, Hà Nam, Hải Phòng, Hưng Yên, Vĩnh
Phúc, Phú Thọ, đồng bằng Nam Hà, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh gồm nhiều
tiểu vùng mang những sắc thái văn hoá đa dạng mà đặc sắc ĐK NTN: Châu thổ
Bắc Bộ là tiêu điểm của con đường giao lưu** Tây Đông và Bắc Nam. Vị trí này
làm cho nó trở thành triều đồn tiếp nhãm văn hoá và lan toả sang các khu vực khác
của Đông Nam Á. Do đó nó luôn là mục tiêu ** của phong kiến phương Bắc để
tiến xuống Đông Nam Á và mục tiêu ** Pháp. Vị trí đó cũng tạo điều kiện giao lưu
văn hoá với cả đông lẫn Tây. Đặc điểm địa hình: Núi xen kẻ đồng bằng núi ** núi
sót còn cơ bản là đồng bằng, dốc thoai nghiêng dấn từ Tây Bắc sang Đông Nam,
độ cao lệch 10-150 ra đến biển. Toàn cùng thì địa hình không đều chỗ cao chỗ
trũng kết quả là do quá trình cải tạo của các thế hệ ông cha từ trước. Để sản xuất
nông nghiệp tạo bờ vùng bờ thửa từng ô.
Khí hậu vùng này khác các vùng trên đây là vùng mùa đông 3 tháng duy nhất,
dạng khí hậu 4 mùa khá rõ. Trong đó xuân ngắn hè dài hơn. Do đó 1 năm chỉ làm
được 2 vụ lúa và 1 vụ càng ngắn ngày. Khí hạu thất thường đỏng đảnh ảnh hưởng
36
đến thời tiết gió mùa lạnh và ẩm. Nước ở các kênh rạch sông ngòi khá dày đặc, các
sông bao gồm: sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã, sông Lam.
Gió mùa và mưa tác động tạo nên sông Hồng về thuỷ chế cùng 2 mùa. Mùa
nước cạn 2 bên sông có thể trồng ngô, mùa nước lớn, nhiều phù sa nước đỏ. Nhờ
phù sa làm cho đồng bằng phì nhiêu và được mở rộng hàng năm khoảng 50m2 thuỷ
triều biển cạn, ít thuỷ hải sản so với phía Nam và miền Trung do thuỷ hải sản 17
nên cư dân ở đây ít chú ý khai thác mà chủ yếu là làm nông nghiệp lúa nước.
+ Về xã hội: Cư dân vùng này là cư dân nông dân trồng lúa nước thuần tuý.
Họ là những người gắn bó với đồng bằng châu thổ, bên cạnh nghề nông còn chài
lướt đánh cá nước ngọt sông hồ cùng với nghề nông là chính thì nghề thủ công
được phát triển có hàng trăm nghề thủ công, có những làng thủ công phát triển với
trình độ cao, là cư dân nông nghiệp nên sóm công cư với nhau thành cộng đồng
làng xã từ công xã nông thôn phát triển lên do đó bảo lưu tình tự và nhiều yếu tố
dân chủ kiên công xã nông thôn. Quan hệ sinh hoạt trong cộng đồng không chỉ
gắn bó với vác vật thể đình làng, chùa mà còn gắn bó về quan hệ tâm linh, chuẩn
mực và đạo đức khoa học. Đảm bảo cho mối quan hệ này là cái hương ước, khoán
ước của làng xã nó là những quy định khá chặt chẽ về đất đai, bảo vệ môi trường
về ý thức cộng đồng và cũng do tính cộng đồng chi phối mà vai trò cá nhân ở đây
không được đề cao con người ở đây là con người dòng tộc.
2. Những sắc thái văn hoá đặc trưng: Đây là vùng có nền văn hoá cổ nhất
nước ta, là cái nôi của văn hoá dân tộc với các nền văn hoá văn minh Đông Sơn -
Văn Lang - Âu Lạc, Văn hoá văm minh Đại Việt, văn hoá văn minh hiện đại làm
kim khí ở vùng Hà Nội đã có các cộng đồng dân cư nói ngôn ngữ môn khơ me. Họ
đã có sự giao tiếp với các cư dân nói ngôn ngữ Tày Thái Nam Á từ Trung Quốc
xuống. Nhò có sự giao lưu đó mà hình thành nên phố triệu người Việt Cổ (Lạc
Việt họ là chủ nhân của văn hoá tiền Đông Sơn (Phùng nguyên - Gò Mun - Đông
Sơn). Đông Sơn ở Đông Bắc tiến tới văn hóa Đông Sơn theo con đường khác văn
hóa Hạ Long - Thanh Hóa. ** Đông Sơn. Đến thế kỷ VII trước công nguyên các
vùng đều tiến đến văn hóa Đông Sơn.Dù đi theo đường nào thì đến khoảng TK VII
TCN đều đạt đến văn hóa Đông Sơn. Tuy nhiên cũng có những sắc thái bảo lưu
37
yếu tố truyền thống của cư dân, từng tiểu vùng trên nếu mẫu số chung là văn hóa
Đông Sơn. Tuy nhiên cũng có những sắc thái riêng bảo lưu yếu tố truyền thống
của cư dân từng tiểu vùng trên nên mẫu số chung là văn hoá Đông Sơn. Ở vùng
đồng bằng Bắc bộ (Vinh - Hà Nội) trong thế kỷ Bắc thuộc đã diễn ra quá trình giao
tiếp của văn hoá Đông Sơn với văn minh Trung Hoa, lúc bấy giờ cư dân ở đây vừa
đồng hoá vừa chống đồng hoà những kẻ đi đô hộ. Từ đó đã xây dựng nên cho mình
những sắc thái văn hoá riêng mang tính độc đáo. Thực ra quá trình hỗn giao hỗn
duy văn hoá Hoa với Việt là một quá trình rất lâu dài. Đây là cái nôi hình thành
nên văn hoá dân tộc nên đồng bằng Châu Thổ Bắc Bộ , nơi hình thành nên các nền
văn hoá trải dài từ thời Hùng Vương đến thời đại Hồ Chí Minh là văn hoá Đông
Sơn, văn hoá Đại Việt và văn hoá Việt Nam mà tiêu biểu cho nền văn hoá ấy là các
trung tâm: Đông Sơn, Cổ Loa, Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội. Trong văn hoá
Đại Việt, thời lý Trần Thăng Long - Đông Đô là trung tâm thời Lê Thăng Long.
Đến thế kỷ XIX trung tâm là Phú** nhưng Thăng Long vẫn là một trung tâm.
Từ cái nôi dân tộc, từ quê hương của nền văn hoá, trong quá trình Nam tiến
mở mang bờ cõi dọc theo biển đông văn hoá Việt Nam từ cái nôi ban đầu đó lđã
dần dần đón nhận những yếu tố mới từ văn hoá Chăm, Khơ me và cùng thích ứng
với môi trường văn hoá, của Đồng bằng Nam Bộ, Trường Sơn - Tây Nguyên để
tạo nên sự phong phú đa dạng của văn hoá Việt Nam. Từ thuở mang gươm đi mở
nước) Tuy nhiên trong các phong thái của người dân Việt bao giờ cũng không
nguông hướng về đất tổ, cội nguồn và trung tâm văn hoá của đất nước. Cư dân
đồng bằng Bắc Bộ đã định hình nên đời sống văn hoá vật thể: ăn , mặc, ở, đời sống
tinh thần phi vật thể: là những tri thức về TNXH, ảnh hưởng văn hoá bên ngoài của
con người ĐBBB. Trải qua thời gian lịch sử truyền thông văn hoá ở đây thể hiện
bản lĩnh của nó. Do mang trong mình tập tục lâu đời bền chặt như vậy nên nó vừa
bảo lưu được tư tưởng vừa thích ứng nhanh với những biến động của lịch sử, mỗi
bước đi của nó luôn đồng hành cho văn hoá cả nước đi theo.
Sắc thái văn hoá nỗi trội nhất của vùng này vì có nhiều sông ngòi, hồ ao và
chưa tích phủ mặt nước lớn nên cư dân ĐBBB có tư tưởng ưu tiến sử dụng đạm
thuỷ sản, bên cạnh trồng lúa thì khai thác thuỷ sản trên ruộng lúa.
38
Về SH văn hoá: Nghề buôn bán cũng phát triển khá sớm nhất là buôn bán
đường biển, đường sông. Các nghề TC*** nghề phát triển nhất là dệt, đồ gốm,
luyện kim. Nghề gốm có lịch sử phát triển hàng nghìn năm cho đến nay sản phẩm
có những thứ rất độc đáo, gốm sứ nước ta có những thời đạt và vượt gốm sứ toàn
quốc. Gốm sứ thời Trần, Lê*** không chỉ có giá trị sáng mà còn có giá trị nghệ
thuật, các làng gốm nổi tiếng nằm ở ** vùng này như Bát Tràng, Phú Hà, Thương
Canh
Nghề trồng dâu nuôi tằm phát triển nên nghề dệt vải lụa, thêu thùa cũng rất
phát triển.
+ Nghề luyện kim rất nổi tiếng đặc biệt là nghề rèn sắt phát triển như ở Xuân
Thao, Đón Đồng.
- Nguồn bán tạo nên hàng loạt chợ quê theo thống kê cứ mỗi huyện có từ 14-
20 chợ, cứ 4 làng có 1 chợ chung. Các chợ này thường nằm ở đầu mối giao thông
gần đình nêu có tên gọi là chợ Đình đàng là chợ lên làng (chợ vùng) với thủ công
và chợ làng đó nên đô thị Việt Nam thời phong kiến không thoát lên được vì nó
hoà tan vào làng TC và hệ thống chợ quê.
- Tổ chức xã hội: Là các làng xã cổ truyền nó bảo lưu nhiều tàn dư của công
xã nông thôn thời nguyên thuỷ, hầu hết các làng có những họ gốc, họ lớn đại diện
cho các cư dân ở trong làng đó thậm chí có làng chỉ có 1 cư dân vùng này có nét
độc đáo khác, các vùng khác hướng về cội nguồn cung thành hoàng, người khai
canh, khai khẩn, từ đó mở rộng rải, phóng đại lên thờ phụng cội nguồn ** như thờ
vua Hùng, tư tưởng đó được lưu giữ và phát triển thành thờ các anh hùng dân tộc
cho đến ngày nay. Hội làng là sự phô diễn các sinh hoạt văn hoá phong phú từ múa
hát, sân khấu dân gian đến các trò chơi, hôi vật, đua thuyền, chọi gà, ném cù, còn
thì nấu cơm, gói bánh chưng qua các trò chơi *** tài năng, sự khéo léo, rèn luyện
sức khoẻ. Ở hội làng mọi người đều tham gia vừa là diễn viên vừa là người thưởng
thức, là môi trường để hội nhập và trao truyền văn hoá trong các thế hệ. Nó còn
giữ gìn sự thống nhất văn hoá cộng đồng người già và lớp trẻ, cảm nhận kế thừa
phát huy và lại trao truyền cho thế hệ kế tiếp, khi nói VBBB thì có câu truyền
39
miệng nói lên nét khác biệt trong đời sống văn hoá của đồng bằng này qua câu nói
dân gian.
"Nhà không chái, đái không ngồi, nói không quai"
+ Về mặc: Người Bắc bộ mặc bình dị màu sắc nền nã. Đi làm thì quần lá toa,
áo cánh , nón lá. Mặc này là đặc trưng của VHVN truyền thống
Trong lễ hội: nữ mặc mớ 3, nam mặc áo the, đầu đội khăn đen. Nói đến vùng
này là nói đến học hành, truyền thống thi cử có từ 1000 năm (tầng lớp tri thức,
đông đảo thường gọi là "tri thức Bắc Hà" (Quốc trị giám thành lập sớm (1070) là
nơi trung tâm của đất nước. Do ảnh hưởng đó mà ở đây hoàn thành nên truyền
thống ăn học. Đội ngũ tri thức rất đông đảo. Thời phong kiến có 56 trạng nguyên
thì vùng này chiếm tới 52, trí thức Bắc Hà chiếm 85%. Đây cũng là trung tâm đào
tạo và nghiên cứu khoa học hiện nay. Qua tổng điều tra dân số mới đây chơ biết
Bắc Bộ có số lượng trí thức chiếm 56% số trí thức cả nước.
Nhà truyền thông học hành và đội ngũ tri thức đông đảo nên giáo dục lâu đời
nên vùng này chiếm tới 52, trí thức Bắc Hà chiếm 85%. Đây cũng là trung tâm đào
tạo và nghiên cứu khoa học hiện nay. Qua tổng điều tra dân số mới đây, cho biết
Bắc Bộ có số lượng trí thức chiếm 56%, số trí thức cả nước.
Nhà truyền thống học hành và đội ngũ trí thức đông đảo nên giáo dục lâu đời
nên vùng này là nơi hoàn thành ngôn ngữ dân tộc, làm giàu cho vốn văn hoá, khoa
học, chính trị thông qua sự tiếp thu ảnh hưởng, văn hoá bên ngoài đã thúc đẩy sự ra
đời của chữ viết là chữ Nôm và chữ Quốc ngữ.
Đội ngũ trí thức dựa trên cơ sở tiếp thu văn hoá dân gian để sáng tạo nên văn
hoá văn học, cung đình. Khi dòng ** mới hình thành thì nó ảnh hưởng trở lại văn
hoá truyền thông của cả vùng. Đội ngũ trí thức là cầu nối văn hoá dân tộc với bên
ngoài, có sự giao lưu ảnh hưởng đến sự phát triển của văn hoá dân tộc. Chính
những khuynh hướng đó đã làm cho vùng VHBB luôn giữ được vai trò hướng đạo
cho văn hoá cả nước.
* Tín ngưỡng văn hoá dân gian: Là một đặc trưng có tín ngưỡng thờ cũng
tổ tiên, ** lễ nông nghiệp, bảo vệ ** dòng họ.
40
Cái hay của TNDG là hướng về đời sống thực của con người, trong đời sống
xã hội của cộng đồng làng xã. Ngoài tín ngưỡng nhân dân thì ở đây sớm tiếp thu
các tôn giáo lớn từ Trung Hoa, Ấn Độ, Phương Tây, Nho giáo, Phật, Ấn Độ,
giáo***. Các tôn giáo này đến đây đều được Việt hoá cả phương thcs hành lễ, lễ
hội là một sắc thái văn hoá độc đáo của vùng này, đây cũng là sắc thái dộc đáo của
vùng này. Sắc thái văn hoá được các nhà nghiên cứu phân loại ra. Lễ hội thờ cúng
anh hùng dân tộc, thờ các thần linh.
Ở đây cũng có lễ hội độc đáo, nhưng bắt chạch ở trong chum, lễ hội nõ
nường, tín ngưỡng phồn thực, thờ sinh thực** đàn ông và đàn bà của làng Đông
Ky (Hà Bắc). Ở làng La rước một lúc 18 bô sinh thực khí, khí tổ chức lễ hội chọn
người tối trời, tan hội vào lúc trời tối, tổ chức việc cướp sinh thực khí, những
người yêu nhau được phép tìm nhau.
Có một số lễ hội gắn liền với các nhân vật lịch sử/***. Nó vượt ra khỏi phạm
vi vùng trở thành lễ hội của ** như: Lễ hội Đền Hùng, hội Gióng, hội Đền Hai Bà
Trưng Lễ hội thường diễn ra vào mùa Xuân và mùa Thu, lúc nông nhàn. Lễ hội
còn diễn ra dưới các hình thức văn hoá nghệ thuật, trang trí
Sơ với các vùng khác trong cả nước thì đây là vùng có tri thức văn hoá đậm
đà, bền vững nhất trên nền văn hoá dân gian Truyền thuyết, cổ tích đã sớm hình
thành nên các tác phẩm văn học.
Vì Đông Đô là tập trung của cả nước nên đã quy tụ về đây tinh hoa của đất
nước và cũng từ đây nó tán đi mọi vùng.
Đồng bằng Bắc Bộ là quê hương của những loại hình dân ca. Dân ca quan họ
hát Xoan, hát ví, hát dặm, Nghệ Tĩnh, các hình thức vấn khăn cổ truyền như tuồng
chèo, rối nước và các loại hình sân khấu ** đại.
Tóm lại ĐBBB mang sắc thái văn hoá độc đáo của vườn hoa nhiều hương sắc
của dân tộc. Đây là vùng văn hoá lịch sử lâu đời, nơi khai sinh văn hoá dân tộc
Việt Nam.
Xã hội của cư dân ĐBBB là cộng đồng làng xã cổ truyền mà ở đó xã hội chưa
phá vỡ được lối sống dân chủ, tâm lý bình quân, cao bằng, cộng cảm trên cơ sở của
tôn giáo, văn hoá tâm linh và những nét chung về văn hoá của vùng đất mang
41
nhiều sắc thái văn hoá vật thể và phi vật thể có sức hút những tinh hoa muôn đời và
toả đi muôn nơi thành những giá trị của văn hoá văn nghệ.
3. Các tiểu vùng: Là vùng rộng, có địa hình, sinh thái không giống nhau nên
xuất hiện các sắc thái ** tiểu vùng.
a. Tiểu vùng văn hoá xứ Đoài: Phú Thọ, Vĩnh Phúc - Đất tổ
b. Tiểu vùng văn hoá Kinh Bắc
c. Tiểu vùng văn hoá Thăng Long - Hà Nội
d. Tiểu vùng duyên hải xứ Đông
e. Vùng trũng Hà Nam Ninh
f. Tiểu vùng Hưng Yên, Hải Hưng
h. Duyên Hải - Tiểu hải Thái Bình Nam Hà
i. Tiểu vùng sông Lam (xứ Nghệ)
Ngoài ra trong chúng còn có ** văn hoá (giao thoa trong các tiểu vùng)
4.4. Khái quát những đặc trưng vùng văn hóa trung bộ
Dưới tính chất bắt đầu từ Hoành Sơn trở vào đến Ninh Thuận.
a. Đặc điểm tự nhiên:
Địa hình hẹp theo chiều Ngang Đông - Tây, dài dằng dặc theo chiều Bắc -
Nam. Do chiều ngang hẹp nên bị núi chia cắt ta nhiều tiểu vùng bởi nhiều đèo,
dưới chân đèo là các sông suối nhỏ chảy theo chiều Tây - Đông đa số ngắn, nhỏ, ít
phù sa -> tạo nên các đồng bằng hẹp, các cảng và xa xa ngoài biển là hệ thống đảo
khá nhiều.
Biển có đặc điểm là đường bở biển ưỡn lồi ra, biển nên chịu các luồng gió
bảo đầu tiên, gần dòng hải lưu, có các luống sân nhiều tôm cá.
Khí hậu lệch pha Bắc - Nam, lại có gió Tây Nam khô nóng từ Lào thổi qua.
b. Về văn hoá - Lịch sử:
Có nhiều di chỉ vật tiền sử như di chỉ Bàu Tró, di chỉ của văn hoá Sơn vĩ (ở
Quảng Trị), di chỉ văn hoá trên Sa Huỳnh, Sa Huỳnh (Chàm cổ) là vùng phân bố
chủ yếu.
Có 2 yếu tố khác là văn hoá Ấn Độ và văn hoá khu vực. Trước VHXH và
Văn hoá Cham Pa. Năm 1069 từ Bắc Quảng Trị trở ra thuộc về Văn hoá Đại Việt.
42
1558 Nguyễn Hoàng vào trận thủ Thuận Hoá. Từ đó có những nét văn hoá
khác. Giáo sư Đinh Gia Khánh cho rằng: Tiếp đến 200 năm chiến tranh phân chia
Đằng Trong, Đằng Ngoài. Miền Trung được chúa Nguyễn xây dựng thành những
căn cứ để đối kháng với Họ Trịnh. Kinh đô Huế dần dần hình thành.
Năm 1788 Quang Trung lên ngôi lấy Huế làm kinh độ.
Năm 1802 Gia Long chiến thắng Tây Sơn, cho xây dựng một vùng miền mới.
Đất nước TN từ Bắc chí Nam từ 1802-1945 Huế được xây dựng thành kinh đô.
Miền Trung trở thành trung tâm văn hoá lịch sử chiến tranh của đất nước.
Đặc điểm văn hoá: Đây là kho báu hưởng được nhiều di tích văn hoá Chăm
Pa với nhiều loại hình khác nhau. Tháp Chàm Tương và nhiều di sản văn hoá phi
vật thể khác. Khi người Việt vào cư trú đã tiếp thu văn hoá Chăm do đó văn hoá
người Việt ở miền Trung có báo** hơn, kế thừa các ** truyền thống, phù hợp với
môi trường tự nhiên.
Sự khác biệt văn hoá thể hiện ở nhiều mặt: Ấn, mặt tín ngưỡng có tiếp thu cả
tà TN Văn hoá của người Chăm và còn tiếp thu cả văn hoá của vùng Trường Sơn -
Tây Nguyên.
Miền Trung được phân thành các tiểu vùng.
a. Tiểu vùng văn hoá Bình Trị Thiên, mà Huế là trung tâm đặc trung cho
vùng và tiểu vùng này có những thời kỳ lịch sử độc đáo, Huế là vùng biên trên hai
nước Việt - Chăm rời kinh đô, đây còn là giao thoa văn hoá Chăm - Việt.
b. Tiểu vùng văn hoá xứ Quảng
(Tiểu vùng Thu Bồn - Trà Khúc)
Bao gồm Quảng Nam - Quảng Ngãi, Đà Nẵng và một phần Bình Định
Từ đời Hồng Đức (1471) là xứ Thừa Truyên: Đặc điểm quan trọng thì đây
từng là kinh đô của Chăm Pa và là nơi tiếp xúc của Văn hoá Việt - Chăm sơm và
cũng là nơi giao lưu tiếp xúc với văn hoá Trung Quốc, Nhật Bản, Phương Tây.
Ngoài nghề nông thì thủ công và đánh cá cũng phát triển rất sớm. Có*** vẫn
được biết tới tận ngày nay: làm đường mía, thuốc lá Cẩm Lệ, lụa tơ tằm Duy
Xuyên, nước mắm Nam Ô, Yến Sào. Cù Lao Chàm, Quế Trà Mi, Đậu xanh Sơn
Tịnh, Mạch Nha ở Tuỳ Phố, điều kiện tự nhiên cũng tạo cho xứ Quảng có tính cách
43
riêng, ngay thẳng, văn hoá xứ Quảng phong phú đa dạng với những chuyển cổ dân
gian về khai hoá vùng đất mới, như sự tích Ngũ Hành Sơn, Gò Nối, Sông Hà, sấu,
Chùa Bồng Lai. Hệ thống Tháp Chàm, ca dao tục ngữ, truyện cười đặc biệt phát,
lý, hát bài chòi, hát đối đáp.
Văn hoá ở đây không tinh tế như xứ Huế không traon chuất -> sắc thái riêng
cả văn hoá vật thể lẫn phi vật thể. Có nhiều món ăn đặc biệt: Mỳ Quảng, bánh đa
kẹp thịt, bánh tố, bánh bưng lửa.
Về phương diện lịch sử: đây là cái nôi hình thành phát triển nd Tây Sơn là đất
thượng võ, có lò vôi nỗi tiếng, có nhiều di tích văn hoá Chăm, Thành địa Trà Liên,
Mĩ Sơn, đá Vọng phu Bình Đính.
Tên sông núi gắn với con người, người** gắn với đời sống văn hoá của cư
dân vùng này. Đầm Thị Nại, đèo Cù Mông, Truôn Ba Vò.
Văn hoá nghệ thuật có nhiều hình thức đặc sắc: Hát bội, **, TT Tây Sơn, hát
bãi chòi, tuồng là hình thức sân khấu độc đáo, truyện cổ, truyền thuyết lịch sử, ca
dao tục ngữ rất phong phú.
c. Tiểu vùng văn hoá Khánh Hoà - Ninh Thuận - Bình Thuận suốt vùng Phú
Yên. Đây là địa bàn người Việt chung sống với người Chăm. Quan hệ hai dân tộc,
người này không phải là quán khứ mà diễn ra sống động hằng ngày. Ở đây diễn ra
có vẽ như nghịch lý của lịch sử. Người Việt làm nông từ Bắc vào lại tiếp thu kinh
nghiệm đi biển của người Chăm nên ngược lại từ ** vào làm nông.
4.5. Khái quát những đặc trưng vùng văn hóa Trường Sơn - Tây Nguyên
Đây từ lâu là địa bàn sinh tụ của 20 tộc người nói 2 ngữ hệ khác nhau là Môn
- Khơ me và Nam đảo.
Có những tộc lớn như Bana, Mnông Mạ, Khơ me nói ngôn ngữ Môn Khơ me.
Các tộc người Ê đê, Gia rai nói ngôn ngữ Nam Đảo.
Các tộc người này là cư dân bản địa lâu đời họ có mối quan hệ với người **
của Lào và quan hệ với người Kinh của Đại Việt.
Từ thế kỷ XVII, XVIII vùng này có nhiều gắn bó với người Việt. Từ thế kỷ
XX người Việt đến sống ở đây ngày càng nhiều và hoà nhập mạnh. Hầu như không
44
có vùng văn hoá nào mà trong thành phần tộc người lại đa dạng phức tạp nhưng
văn hoá lại thống nhất đặc trưng như ở đây. Đặc trưng cho chung nỗi bật là làm
nương rẫy buôn bán trao đổi. Tuy thế kinh tế hàng hoá chưa phát triển buôn bán
trao đổi vẫn mang tính chất tự cung tự cấp, tự sản tiêu. Đời sống văn hoá kinh tế
còn thấp, thô sơ, thiếu thốn.
Về ở họ vẫn thường sống trong các nhà sàn. Nhà sàn ở đây ** cho nhiều thế
hệ chung sống, kiến trúc nhiễm sắc thể chung sống, khác với vùng Tây Bắc, Việt
Bắc. Ở Tây Nguyên mỗi buôn làng đều có nhà sinh hoạt chung gọi là nbhaf Gơn
hay nhà Rồng.
+ Về trang phục: Cư dân vùng này trang phục tương đối thống nhất về loại
hình, khác nhau chủ yếu là về sắc thái đặc trưng đó là các loại: Váy mảnh, khố, áo
chui đầu.
+ Trang sức: Cà răng căng tai, xăm mình
+ Đi lại: Vận chuyển dùng gùi đeo qua vai, dùng voi để chuyên chở. Ở những
nơi gần sông suối thì dùng thuyền độc mộc.
+ Xã hội: Từ lâu không phát triển độc lập, cơ cấu xã hội là buôn làng. Đây là
hình thức công xã láng giềng, gia đình đang trong thời kỳ chuyển biến từ mẫu hệ
sang phụ hệ. Gia đình lớn vẫn tôn tạo trong ngôi dài ở Trường Sơn bản Tây
Nguyên.
+ Truyền thống văn hoá phong phú và rất độc đáo. Thần thoại, cổ tích, sử thi
anh hùng, các hình thức nói vần là bước chuyển từ văn xuôi qua thơ ca dân gian.
+ Nhạc cụ: Cồng chiêng, bên cạnh còn có đàn tơ rưng, khèn, đầm bầu, các
nghi lễ chôn cất người chết: Lễ bỏ ma, tục đâm trâu. Thể hiện gia tục trang trí nhà
mồ. Bức tranh văn hoá vùng Trường Sơn - Tây Nguyên ngày nay vẫn còn mang
đậm nhiều yếu tố của văn hoá Đông Sơn. Vùng này được chia làm 3 tiểu vùng.
- Tiểu vùng văn hoá Trường Sơn
- Tiểu vùng bãi Tây Nguyên
- Tiểu vùng Trung và Tây Nguyên
a. Tiểu vùng văn hoá Trường Sơn
45
Bao gồm vùng núi Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam,
Đà Nẵng. Đây là nơi cư trú của các tộc người thuộc ngữ hộ môn - Khơ me như: Cơ
tu, Vân Kiều, Tà ôi. Là những tộc giữ, vai trò trung gian trong các tộc người nói
ngôn ngữ Môn Khơ me. Ở Bắc và Nam Đông Dương. Những tộc người này có
quan hệ với cư dân vùng Chăm Muôn - Lào. Sa Van Na Khẹt.
b. Tiểu vùng văn hoá Bắc Tây Nguyên
Là địa bàn các tỉnh Bình Định, Tây Quảng Ngãi. Tiểu vùng này là địa bàn cư
trú của nhóm Ba na bắc họ nói ngôn ngữ Môn Khơ me: Có các tộc người như Ba
na, Xờ Đăng, Giơ triêng, B rân.
Đặc trưng văn hoá và đang từ xã hội mẫu hệ sang phụ hệ hay song hệ. Họ
thường sinh hoạt trong cộng đồng trong các nhà rông, kiến trúc trang trí nhà mồ rất
độc đáo, lề bỏ mà, âm nhạn cồng chiêng, múa sinh hoạt, múa nghi lễ phát triển với
nhiều phong cách khác nhau, có nhiều điệu múa đặc sắc.
c. Trên vùng văn hoá Trung và Nam Tây Nguyên
Là địa bàn các tỉnh vùng núi của Khánh Hoà, 1 bộ phận phía Nam của
GiaLai, Kontum.
Là tộc những người nói ngôn ngữ Nam đảo: Giarai, Ê đê.
Tổ chức xã hội theo kiểu mẫu hệ gia đình lớn, sống trong các ngôi nhà dài.
Trong ** xã hội rất chặt chẽ vào luật tục.
+ Về hình thức sinh hoạt văn hoá: Âm nhạc dân gian phát triển, có nhiều nhạc
cụ độc đáo, tiêu biểu nhất là cồng chiêng các loại hình dân ca phát triển. Quan
niệm tín ngưỡng và mọi nghi lễ.
+ Tiểu vũng Nam Tây Nguyên:
Thuộc các tỉnh Lâm Đồng và các vùng kế cận, là nơi cư trú của các tộc nói
ngôn ngữ Môn - Khơ me phía Nam như Mnông, Mạ
Xã hội đang chuyển dần từ kiểu mẫu hệ sang phụ hệ, ở nhà dài, vẫn còn
nhưng phổ biến ở phía Bắc Tây Nguyên.
+ Âm nhạc nỗi bật là cồng chiêng có âm điệu quy cách sử dụng riêng. Văn
hoá dân gian, các loại hình như gia phả dân dân, dòng họ mang tính thần thoại, sử
thi.
46
4.6. Khái quát những đặc trưng vùng văn hóa Nam bộ
Đây là vùng mới nhất, trẻ nhất so với các vùng văn hoá khác ở Việt Nam gồm
các tỉnh miền Đông và Tây Nam Bộ, nó hình thành trên châu thổ của hai hệ thống
rộng. Đồng Nai và Sông Cửu Long. Ranh giới tương đối lấy thành phố Hồ Chí
Minh làm chuẩn.
* Tiểu vùng Đông Nam Bộ
Là vùng đất được khai thác thuần chủng khá sớm cách đây 4-500 năm (văn
hoá Độc Thừa Đồng Nai) song lịch sử phát triển không liên tục.
Vùng này càng tiến về phía Nam thì càng nhiều ***lầy, thuỷ triều ăn sâu vào
đất nhiễm phèn chua nặng.
Biển thì có 2 biển: Biển Đông và Biển Tây. Trên lưu vực Sông Cửu Long, cư
dân sông trên các vùng đất cao là người Việt và người Chăm (các giồng) Từ lâu
con người đã biết sông hoà hợp với tự nhiên, khai thác sản phẩm tự nhiên, có tinh
thần đoàn kết nương tựa vào nhau trong các tộc người, không có chiến tranh trong
các tộc người. Có lẽ là họ phải đoàn kết để chống với những gì khắc nghiệt của tự
nhiên.
+ Tiểu vùng Tây Nam Bộ: gắn với sông Đồng Nai, địa hình bán sơn, **gồm
cư dân người Việt chung sống với người Striêng, Cờ Ho, Khơ me. Ở hạ lưu sông
Đồng Nai có những nét tương tựu đồng bằng Sông Cửu Long ở đây vào đầu công
nguyên hình thành nên trung tâm văn hoá Ốc eo, có hải cảng lớn, đến thế kỷ XII
thì biến mất. Đến thế kỷ VIII thì chỉ còn lại trên sách vở, nhưng ngày nay tài liệu
cũng không nhiều.
- Cư dân ở đây là cư dân sống xen lẫn Việt, Chăm, Hoa, Kh me. Nơi đây đã
và đang diễn ra quá trình giao lưu khá sống động, các yếu tố Việt, Hoa, Chăm, Kh
me tạo nên sắc thái văn hoá vật thể lẫn phi vật thể qua nhà cửa, ăn mặc, đi lại, giải
trí, lễ hội.
Hoàn cảnh tự nhiên và lịch sử khai phá của vùng này đã tôi luyện tạo nên tính
cách của người Nam Bộ dũng cảm hiên ngang, hào hiệp, trong nghĩa khinh tài,
mến khách, bôn trực, nhạy cảm với cái mới.
47
Vùng văn hoá Nam Bộ được phân làm 3 tiểu vùng:
a. Tiểu vùng văn hoá đồng bằng sông Cửu Long
b. Tiểu vùng văn hoá đồng bằng sông Đồng Nai
c. Tiểu vùng văn hoá giữa TP Hồ Chí Minh (Sài Gòn - Gia Định)
+ Tiểu vùng đồng bằng Sông Cửu Long là nơi cư trú của người Việt, Kh me,
Chăm. Đây là nơi bảo lưu được nhiều nơi như U Minh, Thương Hạ, Đồng Tháp
Mười còn sông lầy, đất đai nhiễm phèn nhiễm mặn. Nhiều nơi cư dân thưa thớt,
môi trường tự nhiên nhiều nơi phần nào còn hoang sơ, con người lưu lạc đến khai
thác được phản ánh trong các truyền thuyết ca dao, dân ca của cư dân. Tính cách
của cư dân vùng đồng bằng Sông Cửu Long trên ** cho cả vùng Nam Bộ.
+ Tiểu vùng đồng bằng châu thổ sông Đồng Nai: Là vùng được khai phá sớm
hơn cả, làng xóm khá trù phú, ngoài làm ruộng còn làm rẫy, làm vườn, trồng các
cây đặc sản. Đô thị hình thành dọc các trục lộ giao thông.
Sinh hoạt văn hoá thể hiện sự quá độ trong người Việt ở Miền Trung và miền
Nam.
+ Tiểu vùng văn hoá Gia Định - Sài Gòn: Là trung tâm văn hoá của Nam Bộ
và cũng là đặc thù của văn hoá đô thị cho nên có có đặc trưng khác với 2 tiểu vùng
Đông Tây. Cùng với chất văn hoá đô thị là văn hoá bác học, đây vừa là thủ phú
của Nam Bộ và ở thời kỳ chế độ văn hoá chủ nghĩa là thủ đô là nơi giao lưu văn
hoá Việt - Pháp, Việt - Mĩ.
BÀI TẬP 2 3 TIẾT
+ Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc
+ Làm rõ chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước ta.
Tài liệu: Lê Sỹ Giáo (1997), Giáo trình Dân tộc học đại cương, NXB Giáo dục, HN.a
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- y_giao_trinh_van_hoa_cac_dan_toc_viet_nam_059_1998677.pdf