CHƯƠNG II : VĂN MINH ẤN ĐỘ
I. TỔNG QUAN VỀ ẤN ĐỘ CỔ TRUNG ĐẠI
1. Địa lý.
An Độ là một quốc gia rộng lớn ở Nam Á, phía Bắc là rừng núi trải dài trên 2600 km trong đó có
dãy Himalaya.
Địa hình An Độ chia làm hai phần Nam, Bắc lấy dãy núi Vinđya làm ranh giới.
+ Miền Bắc có 2 con sông lớn là Sông An (Indus) và Sông Hằng (Gange), sông An có độ dài trên
3000 km. Khi đổ ra An Độ Dương thì chia làm 5 nhánh tạo ra một đồng bằng rộng lớn gọi là Pungiáp (5
sông) rộng 8.000km, dài 2.900km. Sông Hằng được cư dân An Độ quan niệm là sông Thiêng. Hằng năm
cư dân An Độ thường đến làm lễ tắm ở thành phố Vanaradi. Hợp lưu với sông Hằng là con sông
. Hai con sông này đã tạo ra một vùng đồng bằng rộng lớn ở Đông Bắc An Độ.
+ Miền Nam: Là vùng cao nguyên ĐêCan, cao nguyên này có hình lòng chảo với hai dãy núi lớn
là Gát Tây và Gát Đông. Ngày nay vùng này tập trung nhiều thành phố công nghiệp quan trọng của An
Độ như Mađrát, Bom Bay
Tài nguyên khoáng sản: phong phú về chủng loại và giàu có về trữ lượng, rừng có gỗ quý.
2. Khí hậu.
Do đất nước rộng lớn nên khí hậu Ấn Độ chia làm nhiều vùng: miền Bắc thường lạnh, miền Nam
thường nóng, mùa mưa và mùa khô khá rõ. Phía Đông Nam chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió
mùa.
3. Dân cư.
Dân cư được xem là nguời bản địa là người Tiền Đravida và Đravida hiện còn sống chủ yếu ở
miền Nam An Độ.
Dân di cư là người Arya có nguồn gốc từ bờ biển Trung A Caxpiên đến An Độ từ nửa sau thiên
niên kỷ thứ II TCN. Quá trình nhập cư diễn ra liên tục trong lịch sử An Độ nên thành phần dân cư và
chủng tộc hết sức phức tạp.
Phạm vi của nền văn minh Ấn Độ cổ trung đại An Độ còn bao gồm lãnh thổ các nước Pakixtan,
Bănglađet, Nêpan.
27 trang |
Chia sẻ: thuychi20 | Lượt xem: 2093 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình lịch sử văn minh thế giới thời cổ trung đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng sản: phong phú nhất là đất sét đen và dầu mỏ ở phía tây. Đất sét là
một loại nguyên liệu phổ biến trong xây dựng, kiến trúc và là chất liệu để viết. Đá qúy và kim loại rất
hiếm.
b. Dân cư
Đại bộ phận dân cư Lưỡng Hà là dân nhập cư. Cổ xưa nhất là người Xu Me (Sumer) di cư từ
Trung Á đến vào khoảng thiên niên kỷ IV TCN. Chính họ là chủ nhân của nền văn minh Lưỡng Hà cổ
đại.
Từ khoảng thiên niên kỷ thứ III TCN, người Ácát (Akkad – một bộ phận dân cư thuộc tộc người
Sémites) từ Xiri đến chiếm lĩnh miền Trung Lưỡng Hà. Cuối thiên niên kỷ III TCN, người Amôrit
(Amorites) từ phương Tây đến Lưỡng Hà thành lập quốc gia cổ Babilon và nhiều tộc tộc người khác tràn
vào dẫn đến thành phần dân cư Lưỡng Hà trở nên rất phức tạp. Ngày nay, cư dân Lưỡng Hà chủ yếu là
người Arập.
2. Những thành tựu chính của văn minh Lươ(ng Hà
a. Sơ lược về lịch sử LưỡngHà và Luật Hammourabi
Lịch sử Lưỡng Hà là quá trình đấu tranh thống nhất Lưỡng Hà.
- Đầu thiên niên kỷ III TCN, người Xu Me sau một quá trình định cư đã xây dựng nên các thành
bang ở miền Nam Lưỡng Hà như Ua, Êriđu, Lagat, Urúc, Umma Đứng đầu các thành bang là Patêsi,
tập trung mọi quyền lực trong tay. Dưới Patêsi là một hệ thống cận thần trông coi mọi lĩnh vực kinh tế –
xã hội. Tế bào xã hội là công xã nông thôn và là chỗ dựa cho sự tồn tại của Nhà nước.
- Giữa thiên niên kỷ III TCN, Lagat thống nhất các thành bang. Đến năm 2300 TCN người Áccát
thống nhất Lưỡng Hà. Đến đầu thiên niên kỷ II TCN, quốc gia Cổ Babilon của người Amôrit ở miền
Trung Lưỡng Hà đã tái thống nhất Lưỡng Hà. Chính quyền từ trung ương đến địa phương không ngừng
được củng cố, nhất là thời vua Hammourabi (1792 – 1750 TCN).
- Sau khi Hammourabi chết, người Hitir từ phương Bắc tràn xuống xâm lược Lưỡng Hà và đến
năm 739 TCN trở thành một bộ phận của Atxiri. Năm 626 TCN, Lưỡng Hà được khôi phục với tên gọi
mới là Tân Babilon. Đây là thời ký phát triển rực rỡ của văn minh Lưỡng Hà nhưng khá ngắn ngủi. Năm
Lịch sử văn minh thế giới – Thời Cổ Trung đại - 14 –
Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
538 TCN, Lưỡng Hà bị Ba Tư xâm lược và là một bộ phận của đế quốc Ba Tư. Năm 328 TCN, Lưỡng Hà
phụ thuộc đế quốc Makêđônia và sau này là La Mã. Lưỡng Hà diệt vong.
- Nhà nước ở Lưỡng Hà được tổ chức theo chế độ quân chủ chuyên chế và ngày càng hoàn thiện.
- Thời Hammourabi, Bộ luật Hammourabi được biên soạn và là bộ luật cổ còn tương đối nguyên
vẹn so với các bộ luật cổ trên thế giới. Bộ luật được khắc trên một tấm đá bazan cao 2,25 mét, đường
kính đáy khoảng 2 mét. Mặt trước phía trên phiến đá khắc hình thần Mặt trời ngồi trên ngai vàng đang
trao cho Hammourabi đứng đón Bộ luật trong tư thế nghiêm trang. Tấm đá này được lính Pháp phát hiện
vào năm 1902 ở Elam và hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Louvre (Pháp).
Bộ Luật có 282 điều được chia làm 3 phần: mở đầu, nội dung và kết luận gồm những điểm chính
sau đây:
+ Quy định hình phạt về các tội vu cáo, trộm cướp, gây thương tích hay làm chết người và những
hành vi gây rối loạn trật tự xã hội.
+ Quy định về quyền lợi của những người đóng góp nghĩa vụ quân sự, tù binh hoặc những người
không hoàn thành nghĩa vụ quân sự.
+ Quy định về thu sản phẩm của dân cư nhất là người canh tác ruộng đất công.
+ Quy định về vay mượn.
+ Quy định về buôn bán.
+ Quy định về hôn nhân, gia đình và thừa kế tài sản.
+ Và những điều khoản về chữa bệnh, thuê mướn, phản ánh các hoạt động kinh tế, văn hoá, xã
hội của vương quốc Cổ Babilon. Bộ Luật không những có giá trị cao về pháp lý mà còn là nguồn tư liệu
qúi, là bộ luật cổ nhất, hoàn chỉnh nhất của các quốc gia Phương Đông và Tây Aù.
b. Trình độ kinh tế
Kinh tế Lưỡng Hà phát triển khá sớm trên cơ sở của một đồng bắng phì nhiêu. Nền tảng của kinh
tế là nông nghiệp. Phương pháp dùng bò để kéo cày, thâm canh tăng năng suất, trồng các loại cây lúa mì,
đại mạch, cây ăn qủa (nho, ôliu), rau xanh và phát triển thuỷ lợi (đắp đê, đào mương).
Chăn nuôi giữ vị trí quan trọng, thủ công nghiệp phát triển với nghề đệt, da, rèn, đóng thuyền, chế
tạo công cụ sản xuất. Thương mại phát triển trên quan hệ giao lưu với các nước xung quanh. Nhưng nhìn
chung chỉ là để bổ sung cho kinh tế nông nghiệp làm chủ đạo. Babilon trở thành trung tâm thương mại
cho cả Tây Á, tiền tệ xuất hiện nhưng chưa phổ biến.
Công cụ sản xuất bằng đồng thau xuất hiện từ thời Cổ Babilon, lưỡi cày bằng đồng thau, cày có
lắp bộ phận gieo hạt, sắt xuất hiện song chưa phổ biến.
c. Tín ngưỡng
Về tự nhiên: xuất phát từ kinh tế nông nghiệp làm nền tảng của kinh tế, cư dân Lưỡng Hà cổ đại
cũng tôn thờ các vị thần tự nhiên , trồng trọt chăn nuôi
Hệ thống các vị thần của cư dân Lưỡng Hà cổ đại gồm: thần Trời (Anu), Mặt trời (Samat), thần
Mặt trăng (Xin), thần Đất (Enlin), thần Aùi tình (Istaro), , thần Biển (Ea), thần sao Mộc (Mácđúc)
Samat Xin Anu
Lịch sử văn minh thế giới – Thời Cổ Trung đại - 15 –
Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Enlin Ea Mác Đúc (Mardouk)
Mỗi vị thần có một chức năng cụ thể gắn bó gần gũi với cuộc sống của con người. Thần biển (Ea)
dạy cho con người các nghề thủ công, nghệ thuật, khoa học, thần Samat trông coi về luật pháp và bảo hộ
các nhà vua.
Nhiều đền thờ được xây dựng với nhiều nghi lễ phức tạp theo chu kỳ của nông nghiệp.
Về con người: người Lưỡng Hà cổ đại quan niệm rằng co người có hai phần thể xác và linh hồn.
Nhưng quan niệm của họ khác với cư dân Ai Cập cổ đại ở chỗ, họ cho rằng linh hồn bất tử trong một thế
giới riêng biệt. Từ đó, người Lưỡng Hà thường mai táng bằng phương pháp tuỳ táng (chôn theo người
chết đồ dùng cá nhân).
d. Chữ viết
Chữ viết Lưỡng Hà cổ đại do người Xume sáng tạo ra ngay từ cuối thiên niên kỷ thứ IV (thời kỳ
thành bang). Cũng như người Ai cập cổ đại, chữ viết của cư dân Lưỡng Hà cổ đại là chữ tượng hình. Tuy
nhiên, người Lưỡng Hà cổ đại lại không ngừng cải tiến chữ viết từ toàn bộ đến bộ phận tiêu biểu cho đơn
giản. Ví dụ muốn viết chữ trời thì chỉ cần vẽ một ngôi sao, muốn viết chữ bò chỉ cần vẽ hình tam giác
chúc xuống với hai cái que cắm chéo bên trên như hình cái đầu bò. Nếu chữ viết biển ý (khái niệm +
động tác) thì cũng chỉ cần vẽ các hành động tiêu biểu như: chữ khó vẽ con mắt + nước, đẻ (chim + trứng),
bò rừng ( bò + núi), hình người cày = cày + người, cày + gỗ = cái cày.
Âm tiết: muốn viết âm xum thì vẽ bó hành, bàn chân + NA = đi, bàn chân + BA = đứng.
Chữ hài thanh biểu đạt nhiều từ: giới từ + phó từ. Qua một quá trình đơn giản hoá, chữ tượng
hình giảm xuống từ 2000 chữ đến 600 chữ.
Chất liệu dùng để viết là đất sét ướt, bút viết là que vót nhọn. Sau khi viết xong thì phơi khô.
Chính vì chất liệu đặc biệt này, ở Lưỡng Hà xuất hiện một loại chữ mà các nhà nghiên cứu gọi là chữ
hình nêm. Đơn giản là khi viết trên đất sét ướt bằng que vót nhọn thì khi ấn vào có nét to, khi viết xong
một chữ rút ra thì nét nhỏ = hình nêm = tiết hình.
Tổng số chữ tiết hình (nêm) có khoảng 600 chữ nhưng thường dùng 300 chữ (mỗi chữ nhiều
nghĩa). Về sau người Phênixi cải tiến thành chữ cái gồm 29 chữ, ở miền Nam thì dựa vào chữ Ai Cập =
chữ cái gồm 22 chữ phổ biến hơn, là cơ sở cho chữ Hy Lạp, Latinh. Hai chữ cái đầu tiên là Aleph ( con
bò) và Beth ( cái nhà ) vần chữ cái Hy Lạp gọi là Alphabet.
Lịch sử phát hiẹân và giải mã: Ơû Ninivơ kinh đô Atxiri đã phát hiện được 20.000 tấm đất sét. Từ
cuối thế kỷ XVIII, Cacxten Nibua – học giả người Đan Mạch đã nghiên cứu cách đọc chữ tiết hình trên
một bản minh văn do một thương nhân Ý đưa từ Ba Tư về châu Aâu nhưng không thành công. Năm 1802
Grôtêphen ( Grotefend – người Đức) đã đọc được hai đoạn minh văn bằng cách tra tên các hoàng đế Ba
Tư. Trong tổng số 12 chữ ông đã dịch thì có 9 chữ hoàn toàn chính xác. Năm 1857, cùng một lúc, bốn học
giả ở châu Aâu đồng thời giải mã được chữ viết Lưỡng Hà cổ đại, khai sinh môn Atxiri học. Những thành
tựu của văn minh Lưỡng Hà lần lượt được biết đến.
e. Văn học
Văn học Lưỡng Hà gồm hai thể loại: văn học dân gian truyền miệng và thơ ca. Nội dung phản ánh
tín ngưỡng, đời sống thường ngày của người lao động. Điển hình là :
Lịch sử văn minh thế giới – Thời Cổ Trung đại - 16 –
Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
- Enuma Elit ca ngợi sự sáng tạo vũ trụ. Vũ trụ là một khối hỗn mang sinh ra con người và vạn vật.
- Gingamet là một bộ sử thi ca ngợi tinh thần anh dũng của Gingamet và Enkiđu diệt trừ thú dữ,
quái vật, bảo vệ cuộc sống yên lành của người dân.
Ngoài ra còn có nhiều tác phẩm văn học khác mà nội dung của những tứ thơ, tác phẩm phản ánh
mối quan hệ giữa con người với con người và với tự nhiên.
f. Kiến trúc và điêu khắc.
Thành tựu chủ yếu chủ kiến trúc Lưỡng Hà chủ yếu là tháp, đền miếu, cung điện, thành quách,
vườn hoa. Nổi bật và được coi là một trong bảy kỳ quan thế giới cổ đại là vườn treo Babilon. Vườn treo
đặt trong một khuôn viên hình vuông, cấu trúc kiểu dốc bậc, các tầng hiên chồng xếp lên nhau tạo thành
một công trình cao tới 77 m có bốn tầng, mỗi tầng là một vườn cây. Mặt bằng những tầng được lát bằng
những phiến đá to rất khít, lớp trên là gạch, trên là một lớp cói mỏng, đổ đất lên trên để trồng cây. Rất
nhiều cây quả và hoa được mang từ nhiều vùng đất về trống ở vường treo. Vườn treo như một lẵng hoa
khổng lồ nhiều tầng, đủ mọi màu sắc để cho hoàng hậu xứ Mêđi thưởng ngoạn.
Thành Babilon cũng là một công trình kiến trúc kỳ vĩ, độc đáo của Lưỡng Hà cổ đại. Theo
Hêrôđốt, thành được xây vào thời Tân Babilon có chu vi 90km, tường dày 50m, cao 100m với 150 tháp
canh và 100 cổng. Theo kết quả khai quật khào cổ học, thành Babilon có chu vi 16km, tường bằng gạch
dày 8,5m, cao 30m, 7 cổng bằng đồng vững chắc có trang trí bằng phù điêu, tượng rất tỉ mỉ.
Trong số rất nhiều đền thờ ở Babilon, lớn nhất là đền thờ Thần Mác Đúc. Đền được xây dựng trên
một khuôn viên có kích thước 550 x 450m, bên cạnh là tháp Babel. Tháp có chu vi đáy là 91m, cao 90m
gồm 7 tầng chồng lên nhau. Tầng trên cùng là một chiếc giường lộng lẫy và một cái bàn bằng vàng.
Trong tháp là một bức tượng thần Mác Đúc nặng tới 24tấn (theo Hêrôđốt).
Ngoài ra, ở Lưỡng Hà cổ đại, nhiều công trình kiến trúc và điêu khắc rất phong phú mà hiện nay
còn lưu giữ trong viện Bảo tàng I Rắc và các viện bảo tàng trên thế giới.
g. Thành tựu khoa học tự nhiên
- Toán học : do nhu cầu đo d9ạc diện tích đất đai dẫn đến việc phát minh ra phép tính diện tích
các hình. Người Lưỡng Hà cổ đại lấy số 5 làm số trung gian để đếm. Nếu cần đếm cao hơn thì người ta
thêm vào sau số 5. Họ dùng cơ số 60 ( nay được dùng làm đơn vị thời gian), phép khai căn, lấy vòng tròn
để chỉ độ. Dùng số JI = 3 để tính diện tích, chu vi hình tròn, cạnh huyền của tam giác vuông. Nhìn chung,
cư dân Lưỡng Hà cổ đại đã biết tính toán các phép tính thông thường về số học, đại số học, hình học và
lượng giác.
- Thiên văn học: khám phá 5 hành tinh : Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Hải vương tinh. Biết gần đúng
qũy đạo của các hành tinh, hình tượng sao chổi, sao băng, nhật thực, nguyệt thực, động đất Lập hệ thống
lịch theo 12 tháng. Cứ một tháng đủ một tháng thiếu. Mỗi tháng chia làm 4 tuần, mỗi tuần có 7 ngày và
mỗi ngày có một vì tinh tú làm chủ: Chủ Nhật là Mặt Trời, thứ Hai là Mặt Trăng, thứ Ba là Sao Hoả, thứ
Tư là Sao Thuỷ, thứ Năm là Sao mộc, thứ Sáu là Sao Kim, thứ Bảy là Sao Thổ. Cách gọi tên các ngày
trong tuần như vậy của cư dân Lưỡng Hà cổ đại được người châu Aâu tiếp thu và sử dụng cho tới ngày nay.
Một năm có 354 ngày, và đặt thêm tháng nhuận (thời Tân Babilon cứ 8 năm nhuận 3 lần, sau đổi thành
27 năm nhuận 10 lần). Đây là phép làm lịch theo mặt trăng phổ biến ở phương Đông. Họ cũng biết dùng
ánh nắng mặt trời để tính thời gian tương tự như người Ai Cập cổ đại.
Lịch sử văn minh thế giới – Thời Cổ Trung đại - 17 –
Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
- Yhọc: chữa nhiều bệnh về tiêu hoá, hô hấp, thần kinh, đau mắt và chia thành nhiều ngành như
nội khoa, ngoại khoa, giải phẫu. Đặc biệt la khai thác những loại dược liệu qúi lấy từ thiên nhiên, động
vật và khoáng vật. Yếu tố tín ngưỡng vẫn ngự trị trong y học. Vị thần bảo hộ của Y học Lưỡng Hà là
Nilghidziđa mà vật tượng trưng của thần là con rắng quấn quanh cái gậy, chính là biểu tượng của y học
ngày nay. Không được chữa bệnh vào các ngày đầu hoặc cuối tuần, tháng là các ngày 7,14,21,28,29.
III. VĂN MINH A RẬP.
1. Khái quát.
a. Địa lý.
A Rập là một bán đảo lớn nhất thế giới nằm ở Tây Á (lớn hơn ¼ châu Aâu). Bán đảo nằm ở vị trí
bản lề của ba châu: Á, Phi, Aâu. Bán đảo nằm giữa Biển Đỏ (Tây) và Vịnh Ba Tư (Đông và Đông Bắc)
+ Vùng Tây Nam, hiện nay là Yêmen có nguồn nước phong phú, đất đai có thể trồng trọt được và
nằm trên đường thương mại Tây Á – Đông Bắc Phi nên thương mại khá phát triển. Khoảng từ thế kỷ X –
VI TCN đã xuất hiện nhiều Nhà nước cổ đại.
+ Phía Tây là vùng Hegiadơ (Hejaz) dọc theo Biển Đỏ gần với con đường thương mại Đông Tây
(Biển Đỏ đến Địa Trung Hải) nên khá phát triển, trong đó có 2 thành phố quan trọng là Mécca và
Yatơríp.
+ Vùng phía Bắc dọc theo bờ Đông Địa Trung Hải từ Palextin đến Libăng, Xiri đến Lưỡng Hà
(Irắc) cũng từng có một giai đoạn khá phát triển với Nhà nước của người Do Thái (khoảng thiên niên kỷ
thứ II TCN).
Ngoài ra, phần lớn bán đảo A Rập là vùng sa mạc và đồng cỏ như: Rupankhali, Nephut. Bù lại với
điều kiện tự nhiên hoang cằn, Bán đảo A Rập là đầu mối của các con đường thương mại như: con đường
Tơ lụa (từ Trung Quốc qua Aán Độ đến Tây Á, Bắc Phi và châu Âu), con đường Hương liệu (từ Đông Nam
Á qua Aán Độ Dương đến Vịnh Ba Tư sang châu Aâu) và con đường vận chuyển sản vật của châu Aâu như
lúa mì, da, lông thú từ Krưm đến Hắc Hải.
+ Tài nguyên khoáng sản rất nghèo nàn trong thời kỳ cổ trung đại nhưng nơi đây có trữ lượng dầu
mỏ rất dồi dào và là nơi tranh chấp quyết liệt của các cường quốc công nghiệp trong thời kỳ cận hiện đại.
b. Dân cư.
Đa số là người A Rập đã từng sinh sống từ khá lâu đời trên bán đảo A Rập. Trong thời kỳ văn
minh A Rập, các dân tộc xung quanh đã bị người A Rập thống trị và lôi cuốn vào văn minh Hồi giáo.
2. Những thành tựu chính của văn minh A Rập
a. Sơ lược về lịch sử A Rập
- Nhà nước A Rập thành lập gắn liền với quá trình thành lập đạo Hồi (Ixlam = thuận theo). Người
sáng lập ra Đạo Hồi là Môhamét (570 – 632). Ông xuất thân từ một gia đình ở Mắc Ca. Thuở nhỏ ông đi
chăn cừu và là người dẫn đường cho các đội thương nhân qua sa mạc Nêphut. Do làm công việc đó nên
lúc đầu ông chịu ảnh hưởng của Đạo Kitô và Đạo Do Thái (nhờ vậy Đạo Hồi tiếp nhận giáo lý cả hai tôn
giáo lớn này). Đạo Hồi thờ Chúa Trời (Ala) và những nét riêng. Năm 610, ông bắt đầu truyền bá đạo Hồi
Lịch sử văn minh thế giới – Thời Cổ Trung đại - 18 –
Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
( một đêm ông mơ có một vị thần đến bảo đọc những hàng ký hiệu chi chít trên một tấm vải (đó chính là
tư tưởng của Thánh Ala nhập vào Môhamét và ông trở thành nhà tiên tri).
Trong quá trình truyền bá tư tưởng, ông gặp phải sự thù địch của các quý tộc bộ lạc ở Mécca mà
trung tâm là bộ lạc Côrêsit (Coreischite) vốn thờ đa thần nên ông chạy lên Yatơrip. Từ đó thành phố này
được đổi tên là Medina (thành phố của nhà tiên tri). Ngày 20/9/622 (ngày Môhamét tới Yatơrip) được coi
là ngày đầu tiên của kỷ nguyên Hồi giáo (lịch Hồi giáo bắt đầu từ ngày này).
Năm 624, trên cơ sở một lực lượng chính trị kết hợp với tôn giáo đã tập trung tại đây, Môhamét đã
đánh bại các cuộc tấn công của các bộ lạc khác và bắt đầu tiến đánh Mécca.
Chiến tranh giữa 12 bộ lạc xung quanh và Mêdira đã liên tục diễn ra, đến năm 627 thì hai bên ký
hiệp định đình chiến 10 năm. Năm 629, Môhamet dẫn 2000 tín đồ đi thăm Mécca. Đoàn người đi vòng
quanh ngôi đền Caaba. Năm 630, Môhamet dẫn 10.000 tín đồ chiếm Mécca thống nhất bán đảo trong sự
phùc tùng của các bộ lạc A Rập trên bán đảo. Môhamet trở thành người đứng đầu Nhà nước A Rập và tôn
giáo.
Năm 632 Môhamet chết, những người kế tục ông được gọi là Calipha (người kế thừa của nhà tiên
tri). A Rập lần lượt chinh phục Xiri năm 636, Palextin năm 638, Ai Cập năm 642, Ba Tư năm 651. Từ
năm 632 đến năm 661, các Calipha do bầu cử mà lên nối ngôi. Từ năm 661 đến sau này thì là cha truyền
con nối. Các Calipha tiếp tục chinh phục các vùng khác của châu Phi, châu Aâu đến châu Á tạo thành một
đế quốc A Rập rộng lớn nằm vắt ngang 3 châu lục. Phía Đông đến Aán Độ, Tây đến Đại Tây Dương. Đến
thế kỷ X, A Rập bắt đầu bị suy yếu . Năm 1258, A Rập bị đế quốc Mông Cổ tiêu diệt.
b.Đạo Hồi (Ixlam).
Giáo lý: chỉ có một vị thần duy nhất là Ala và một sứ giả của người là Môhamét. Trời đất mọi vật
do Ala sáng tạo ra.
Ala tỏa khắp mọi nơi, mọi lúc không gì thể hiện được vì vậy giáo đường Đạo Hồi không có tượng
thánh mà chỉ có chữ A rập, thờ phiến đá đen ở Caaba (khác hẳn các tôn giáo khác), Ixlam (thuận theo,
tuân thủ lời dạy của Ala, phục tùng ý muốn của Ala), Kinh Côran là bộ kinh thánh duy nhất của Đạo
Hồi. Bộ kinh ghi chép lời dạy của Nhà Tiên tri Môhamet cho các tín đồ, sắp xếp theo thứ tự dài trước
ngắn sau. Bộ kinh tổng hợp nhiều điều chắt lọc từ Đạo Do Thái (1200 TCN – Palextin – thần Jêhôva –
Kinh Cựu ước), Kitô (đầu Công nguyên, tiếp nhận nhiều điều từ Đạo Do Thái và phát triển thêm thành
Kinh Tân ước).
4 nghĩa vụ thiêng liêng mà tín đồ Hồi giáo phải thực hiện :
- Mỗi ngày phải đọc lời cầu nguyện 5 lần, tắm rửa trước khi cầu nguyện.
- Trong cuộc đời phải có một lần hành hương về thánh thất Caaba ở Mécca.
- Nhịn ăn mỗi năm 1 tháng – tháng Ramadan (thiêng liêng) vào lúc có mặt trời.
- Bố thí cho người nghèo.
Ngoài ra còn có một số quy định như không được uống rượu, kiêng thịt lợn (heo), chấp nhận chế
độ đa thê nhưng không được quá bốn vợ (trừ Đấng Tiên tri có quyền lấy 10 vợ). Người phụ nữ hoàn toàn
phụ thuộc vào chồng.
Lịch sử văn minh thế giới – Thời Cổ Trung đại - 19 –
Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Đặc biệt, Đạo Hồi luôn luôn động viên tín đồ chiến đấu tiêu diệt những kẻ ngoại đạo, được coi là
bổn phận thiêng liêng với Chúa Ala. Kinh Côran đã nói rõ: Thiên đàng ở phía trước, địa ngục ở sau lưng
các ngươi cho nên quân đội A Rập gồm những người sùng tín, có kỷ luật nghiêm, sống kham khổ, sẵn
sàng tử vì đạo.
Ngày nay, trên thế giới có đến hơn một tỷ tín đồ Hồi giáo. Nhiều nước coi Đạo Hồi là quốc giáo.
c. Văn học nghệ thuật.
* Văn học:
- Kinh Côran hay Kuran hoặc Quran là tụng niệm hay truyền giảng ngoài ý nghĩa là một bộ thánh
kinh, là chuẩn mực tinh thần, đạo đức, luân lý của các tín đồ Hồi giáo, là bộ “Hiến pháp vĩnh cửu” còn là
một tác phẩm văn học rất có giá trị. Bộ Kinh gồm 30 quyển, 114 chương, 6236 tiết chia làm hai phần
+ Môhamet từ Mécca đến Mêđina gồm 81 chương, 4780 tiết tức là xấp xỉ 2/3 bộ kinh.
+ Môhamet từ Mêdina đến 632 gồm 23 chương, 1456 tiết.
Bộ kinh viện dẫn nhiều truện thần thoại, truền thuyết, chuyện lịch sử, cách ngôn, ngạn ngữ của
Đạo Do Thái, Kitô và người A Rập cổ đại. Do đó, Kinh Côran đã ảnh hưởng sâu sắc đến ngôn ngữ, văn
học và toàn bộ nền văn hoá Hồi giáo. Bộ kinh trở thành một đề tài vô hạn và là nguồn cảm hứng sáng tác
của các thi sĩ A Rập.
- Thơ và truyện
+ Từ thế kỷ VII về trước, thơ ca A Rập chủ yếu là truyền miệng vì chưa có chữ viết.
+ Từ thế kỷ VII về sau thì bằng chữ viết thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời, ca ngợi chiến công,
tình yêu
Nhà thơ Abutammam sáng tác hai tập của tác phẩm Anh dũng ca; Nhà thơ Abulơ Pharagiơ sáng
tác 20 cuốn thi ca tập; và nhiều nhà thơ khác như nhà thơ Abunavat, Abulơ Alamaari (Mù)
+ Truyện: Nghìn lẻ một đêm ( X – XII ) là một tác phẩm văn học xuất sắc của cư dân A Rập. Tác
phẩm này có xuất xứ từ tác phẩm Một nghìn câu chuyện của Ba Tư, bổ sung bằng các truyện thần thoại
của Aán Độ, Ai Cập, Hy Lạp. Năm 1700 Aêngtoan Galăng ( Antoine Galland – Pháp) tiếp nhận từ một
người Xiri. Năm 1704, tác phẩm được dịch ra tiếng Pháp và sau đó được dịch ra các thứ tiếng trên thế
giới.
Tác phẩm Nghìn lẻ một đêm thể hiện trí tưởng tượng phong phú của cư dân A Rập, đồng thời làm
nổi lên cuộc sống xã hội của cư dân trong đế quốc A Rập.
* Nghệ thuật:
Lúc đầu bị cấm đoán (do sự khắc nghiệt của giáo lý Đạo Hồi), nhưng càng về sau nghệ thuật A
Rập càng phát triển do người A Rập học tập nghệ thuật Aicập, Lưỡng Hà, Ba tư, Aán Độ, Hy Lạp, La Mã
Nền nghệ thuật A Rập là sự thể hiện phong cách nghệ thuật của các nền văn minh cổ đại:
+ Ba Tư với cây cột mảnh khảmh, vòng cung nhọn, hình móng ngựa.
+ Bizantium với xây vòm tròn
Lịch sử văn minh thế giới – Thời Cổ Trung đại - 20 –
Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Từ sự kế thừa tinh hoa của các nền nghệ thuật khác, nhiều công trình nghệ thuật của A Rập co sự
uy nghi, rực rỡ thể hiện trong giáo đường Hồi giáo rất rực rỡ, chạm trổ, nhũ kim, vòi phun
Ví dụ: thời Omayat đã xây cung điện gồm 360 phòng, trong đó có 1 thư viện gồm 2 phòng đọc
sách.
Thánh thất Hồi giáo hình vuông, mái tròn, trước có hồ và sân vuông.
Trong Thánh thất có khán thờ, gióng đàn, giá đặt kinh.
Họa sỹ được coi là thấp kém nhưng người viết chữ lại rất được coi trọng, âm nhạc ngày càng phát
triển.
d.Khoa học tự nhiên.
Nhờ học tập các thành tựu văn minh khác nên khoa học tự nhiên của A Rập khá phát triển. Năm
830, vương triều Abát xây dựng một trung tâm khoa học gồm viện khoa học, đài thiên văn, thư viện.
Nhiều công trình văn học, khoa học nước ngoài đã được các dịch giả A Rập dịch sang tiếng A Rập để
nghiên cứu.
- Toán học: phát triển các môn đại số học, lượng giác học, hình học và hoàn thiện hệ thống chữ số
nhất là số 0. Năm 976 Môhamét I Bơn Amát nói, nếu không có số nào xuất hiện ở hàng chục thì phải
dùng một hình tròn nhỏ thay vào giữa hàng gọi là sifr nghĩa là trống không, tiếng Latinh đổi là zephyrum,
người Ý gọi là Zero. Thực ra, chữ số 0 đã do người Aán Độ phát minh vào khoảng từ thế kỷ thứ III TCN.
- Thiên văn học: ban đầu, người A Rập cho rằng Trái Đất hình tròn. Sau đó, họ mường tượng về
một Trái Đất hình cầu. Albiruni (X - XI) cho rằng mọi vật đều bị hút về trung tâm Trái Đất và cho rằng
Trái Đất mỗi ngày tự quay xung quanh nó một vòng và mỗi năm quay quanh Mặt Trời một vòng và
ngược lại với Mặt Trời cũng thế đều đúng. Mặc dù quan niệm này không chính xác nhưng vẫn là một
bước đột phávề vũ trụ luận mà mãi đến thế kỷ XV, người châu Aâu mới khám phá ra.
Thế kỷ XI, người A Rập đã làm được một thiên cầu bằng đồng thau đường kính 209mm trên có 47
chòm sao với 1015 ngôi sao.
- Địa lý học: trên cơ sở hiểu biết về hình thù của Trái Đất và đi nhiều nơi, người A Rập đã tính
được 10 của trái đất là 90 km để tính ra chu vi Trái Đất bằng 35.000km. Một số tác phẩm về địa lý đã mô
tả về Trung Quốc, Aán Độ, Srilanca Tác phẩm “Địa chí đế quốc Hồi giáo” của Môhamet Al Mucadax,
“Sách của Rôgiê” của của Iđrixi đã mô tả Trái Đất có 7 miền khí hậu, mỗi miền bằng 10 phần, mỗi phần
được mô tả bằng bản đồ tương đối chính xác.
- Vật lý học: “Sách quang học” của Al Haitơham (965 -?) nói về thủy tinh thể và khúc xạ ánh sáng
làm cho Mặt Trời, Mặt Trăng khi ở gần chân trời lớn hơn, nhìn thấy tia sáng Mặt Trời khi Mặt Trời xuống
dưới 190. Oâng còn tính được độ dày khí quyền là 15km và tác động của ánh sáng trên các gương lồi, lõm
và thấu kính hội tụ để các nhà vật lý học châu Aâu chế tạo ra kính hiển vi và kính viễn vọng.
- Hóa học: người A rập đã chế tạo ra nồi cất (Al – Ambik) tiếng Pháp là Alambic. Nhiều chất hóa
học được phân tích, phân biệt được Bazơ, Axít, nhiều loại thuốc. Họ cũng tưởng tượng rằng kim loại này
có thể thành kim loại khác nhờ chất xúc tác.
- Sinh vật học: người đầu tiên nêu lên thuyết tiến hóa là Otman Am an Giahip. Oâng sống vào
khoảng thế kỷ IX. Nội dung thuyết tiến hoá của ông còn khá sơ sài khi cho rằng: quá trình tiến hoá theo
thứ tự từ khoáng vật, thực vật, động vật, người. Trong lĩnh vực thực vật học, người A Rập đã phát minh ra
Lịch sử văn minh thế giới – Thời Cổ Trung đại - 21 –
Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
các phương pháp ghép cây, tạo giống mới Tiêu biểu cho các nhà thực vật học là là Baita với “Sách thực
vật học”, Avan với “Sách của nông dân” hướng dẫn cách trồng 585 loại cây với 50 giống ăn quả
- Y học: các thầy thuốc A Rập biết rất nhiều phương pháp chữa bệnh nội, ngoại khoa. Sở dĩ có
được thành tựu này là vì A Rập rất chú ý đến vấn đề chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ con người. Mặt khác,
A rập học tập được rất nhiều thành tựu về khoa học trên thế giới. Nhiều tác phẩm y học ra đời: “10 khái
luận về mắt” của Isac, “Bệnh đậu mùa và bệnh sói” của Radi, “Tiêu chuẩn y học” của Xina Các
Calipha A Rập cũng đã lập nhiều bệnh viện. Nền y học A Rập đứng đầu thế giới đương thời.
- Giáo dục: nền giáo dục A Rập vào loại hoàn chỉng và hiện đại nhất thế giới thời bấy giờ. Hệ
thống giáo dục của đế quốc gồm ba cấp học là tiểu học, trung học và đại học. Khi 6 tuổi thì đến trường
tiểu học để học về Kinh Côran với nội dung tập đọc, tập viết. Đến bậc trung học thì nội dung chương
trình đã cao hơn với các môn như toán học, văn học, ngôn ngữ, ngữ pháp, thiên văn, ngữ pháp Ở bậc
đại học có ba trung tâm là Batđa, Cairô (Ai Cập), Coócđôba (Tây Ban Nha).
+ Đại học Cairô: thành lập năm 988, ban đầu chỉ là một lớp nhỏ trong thánh thất Hồi giáo với 35
sinh viên. Sau đó, lớp học thu hút sinh viên từ mọi miền của đế quốc đến học. Số sinh viên lên đến
10.000 người. Sinh viên được cấp học bổng do Vua chúa, quan lại, nhà hảo tâm tài trợ. Giáo sư gồm hơn
300 người giảng dạy nhiều môn khác nhau.
Nhiều thư viện dành để đọc sách. Đến đầu thế kỷ XIII, người Arập học được cách làm giấy của
Trung Quốc nên có nhiều sách được xuất bản. Trên toàn đế quốc có tới hơn 100 hiệu sách, 36 thư viện
công cộng, giấy cung cấp miễn phí cho sinh viên đến học tập.
Nhiều tác phẩm có giá trị được dịch ra tiếng A Rập, A Rập trở thành trung gian truyền bá các phát
minh Trung Quốc như làm giấy, nghề in, la bàn, thuốc súng và cả những thành tựu của các nền văn minh
cổ đại như Ai Câp, Lưỡng Hà, Aán Độ, Hy Lạp, La Mã
Lịch sử văn minh thế giới – Thời Cổ Trung đại - 22 –
Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
CHƯƠNG II : VĂN MINH ẤN ĐỘ
I. TỔNG QUAN VỀ ẤN ĐỘ CỔ TRUNG ĐẠI
1. Địa lý.
Aán Độ là một quốc gia rộng lớn ở Nam Á, phía Bắc là rừng núi trải dài trên 2600 km trong đó có
dãy Himalaya.
Địa hình Aán Độ chia làm hai phần Nam, Bắc lấy dãy núi Vinđya làm ranh giới.
+ Miền Bắc có 2 con sông lớn là Sông Aán (Indus) và Sông Hằng (Gange), sông Aán có độ dài trên
3000 km. Khi đổ ra Aán Độ Dương thì chia làm 5 nhánh tạo ra một đồng bằng rộng lớn gọi là Pungiáp (5
sông) rộng 8.000km, dài 2.900km. Sông Hằng được cư dân Aán Độ quan niệm là sông Thiêng. Hằng năm
cư dân Aán Độ thường đến làm lễ tắm ở thành phố Vanaradi. Hợp lưu với sông Hằng là con sông
. Hai con sông này đã tạo ra một vùng đồng bằng rộng lớn ở Đông Bắc Aán Độ.
+ Miền Nam: Là vùng cao nguyên ĐêCan, cao nguyên này có hình lòng chảo với hai dãy núi lớn
là Gát Tây và Gát Đông. Ngày nay vùng này tập trung nhiều thành phố công nghiệp quan trọng của Aán
Độ như Mađrát, Bom Bay
Tài nguyên khoáng sản: phong phú về chủng loại và giàu có về trữ lượng, rừng có gỗ quý.
2. Khí hậu.
Do đất nước rộng lớn nên khí hậu Ấn Độ chia làm nhiều vùng: miền Bắc thường lạnh, miền Nam
thường nóng, mùa mưa và mùa khô khá rõ. Phía Đông Nam chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió
mùa.
3. Dân cư.
Dân cư được xem là nguời bản địa là người Tiền Đravida và Đravida hiện còn sống chủ yếu ở
miền Nam Aán Độ.
Dân di cư là người Arya có nguồn gốc từ bờ biển Trung Aù Caxpiên đến Aán Độ từ nửa sau thiên
niên kỷ thứ II TCN. Quá trình nhập cư diễn ra liên tục trong lịch sử Aán Độ nên thành phần dân cư và
chủng tộc hết sức phức tạp.
Phạm vi của nền văn minh Ấn Độ cổ trung đại Aán Độ còn bao gồm lãnh thổ các nước Pakixtan,
Bănglađet, Nêpan.
II. NHỮNG THÀNH TỰU CHÍNH CỦA VĂN MINH ẤN ĐỘ
1. Sơ lược lịch sử cổ trung đại Ấn Độ và những thành tựu về chính trị xã hội
Lịch sử cổ trung đại Aán Độ có thể chia làm 4 thời kỳ:
+ Thời kỳ Văn minh lưu vực sông Ấn (Từ đầu thiên niên kỷ III đến giữa thiên niên kỷ II) là thời kỳ
văn hóa Harappa. Năm 1920, các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra hai thành phố cổ là Harappa và
Môhenjô Đarô. Thời kỳ này, xã hội của người Đraviđa đã có sự phân hoá giai cấp và hình thành Nhà
nước, trên cơ sở một nền văn minh nông nghiệp khá phát triển.
Lịch sử văn minh thế giới – Thời Cổ Trung đại - 23 –
Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
+ Thời kỳ Vêđa (Từ giữa thiên niên kỷ II đến giữa thiên niên kỷ I). Thời kỳ này được phản ánh
trong các tập Vêđa. Bộ Vêđa gồm 4 tập là Rich Vêđa, Xama Vêđa, Atacva Vêđa, Yagiva Vêđa. Chủ
nhân của thời kỳ lịch sử này là người Arya sinh sống chủ yếu ở vùng lưu vực sông Hằng.
Xã hội Aán Độ tồn tại chế độ nô lệ, đứng đầu là thủ lĩnh quân sự (Raja) do bầu cử lập nên, cha
truyền con nối, sau này phát triển thành Vua. Xung quanh nhà vua có một bộ máy quan lại giúp việc
(quân chủ chuyên chế).
Xã hội người Arya chia làm bốn đẳng cấp (chế độ đẳng cấp Varna): Braman (tăng lữ, nhà vua và
quí tộc), Ksatrya (quan lại, võ sĩ), Vaisya (dân tự do khác nhau), và Suđra (tiện dân nghèo khổ).
+ Thời kỳ từ thế kỷ VI TCN đến thế kỷ XII, Aán Độ bị chia cắt và luôn xung đột với nhau. Chỉ có một
thời gian ngắn là tương đối thống nhất từ năm 321 TCN đến 187 TCN (Vương triều Morya). Sau đó có
một số Vương triều khá mạnh là Cusan (người Tuốc ở Trung Á) từ thế kỷ I đến thế kỷ II, thời kỳ vương
triều Gúpta và Hácsa từ thế kỷ III đến VII.
+ Thời kỳ từ thế kỷ XIII đến XIX. Thời kỳ này có thể chia làm hai giai đoạn nhỏ:
- Thời kỳ Xuntan ĐêLi (1206 – 1526). Ở miền Bắc Aán Độ do một tổng đốc người Apganixtan tự
lập làm vua lập ra vương quốc Hồi giáo, đóng đô ở ĐêLi với 5 vương triều.
- Thời kỳ Môgôn (1526 – 1857). Vương triều Môgôn là hậu duệ của người Mông Cổ. Người sáng
lập ra vương triều này là tướng Babua. Phạm vi cai trị của vương triều cũng chỉ ở miền Bắc Aán Độ. Từ
thế kỷ XVII, thực dân Anh lần lượt xâm lược và thống trị toàn Aán Độ. Từ năm 1857 đến năm 1859, cuộc
khởi nghĩa dân tộc Aán Độ bùng nổ và tôn Bahađua lên làm quốc vương. Cuộc khởi nghĩa thất bại là cột
mốc chấm dứt thời kỳ lịch sử cổ trung đại Aán Độ.
Tóm lại: Thiết chế chính trị Aán Độ cổ trung đại ra đời từ giai đoạn Văn minh sông Aán và tiếp tục
phát triển hoàn chỉnh ở giai đoạn Môrya (hành chính, tư pháp, tôn giáo). Đến thời Gúpta thì hoàn chỉnh
thêm một bước. Đến thời Xuntan Đêli, do luật lệ Hồi giáo hà khắc nên vua quan thường rất tàn bạo. Thời
Môgôn, trình độ tổ chức và quản lý xã hội chặt chẽ hơn nhờ luật pháp và chế độ chuyên chế.
Chế độ đẳng cấp và sự tồn tại dai dẳng của công xã nông thôn đã hạn chế sự phát triển của xã hội
Aán Độ. Trong đó, các tôn giáo không ngừng gia tăng ảnh hưởng đối với nền chính trị xã hội của Aán Độ.
2. Những thành tựu về kinh tế.
• Trình độ sản xuất: công cụ sản xuất ngày càng được cải tiến từ nguyên liệu chế tác bằng đồng
sang bằng sắt. Đến thời kỳ hậu Vêđa, cày sắt được sử dụng khá phổ biến do 3 hoặc 6 con bò kéo.
• Trình độ quản lý và phương thức sản xuất:
- Nông nghiệp là chủ yếu, xuất hiện khá sớm từ thời kỳ Văn minh sông Aán. Theo kết qủa khảo
cổ học, cư dân Aán Độ thời kỳ này đã biết đào mương, đắp đập, trồng bông, lúa mì, lúa mạch, dùng trâu,
bò để kéo cày. Chăn nuôi phát triển với qúa trình thuần dưỡng các loại gia súc, gia cầm. Các mặt này
trong kinh tế nông nghiệp dần dần phát triển trên cơ sở tồn tại của công xã nông thôn. Đến thời Gúùpta,
quan hệ sản xuất phong kiến dần dần hình thành.
- Thủ công nghiệp, hình thành ngay từ thời kỳ Văn minh sông Aán với các nghề gia công kim loại (
chủ yếu là đồng), làm đồ gốm bằng bàn xoay, điêu khắc trên đá và trên ngà voi. Các nghề dệt, mộc, đan
lát đều đạt trình độ khá cao, đồ gốm với nhiều loại màu sắc, hoa văn trang trí, đồ trang sức khá tinh xảo.
Đến thời Vêđa, các ngành kinh tế thủ công nghiệp tiếp tục phát triển và xuất hiện xu hướng độc lập tách
Lịch sử văn minh thế giới – Thời Cổ Trung đại - 24 –
Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
ra khỏi nông nghiệp. Đến thời kỳ tiếp giáp Công nguyên, nghề dệt vải bông vươn lên chiếm vị trí hàng
đầu trong thủ công nghiệp. Đến thời kỳ Môgôn, kinh tế thủ công nghiệp trở thành một trong những ngành
kinh tế quan trọng của của cư dân Ấn Độ với những sản phẩm nổi tiếng khắp thế giới.
- Thương nghiệp, do yêu cầu phát triển của kinh tế hàng hoá, tiền tệ xuất hiện từ thời kỳ văn minh
sông Aán nên Thương mại trở thành một ngành độc lập. Trong thời kỳ Vêđa xuất hiện những lái buôn và
người cho vay lãi. Hệ thống đo lường được chuẩn hóa, quan hệ buôn bán rộng mở cả với bên ngoài và
ngày càng phát triển ở thời kỳ sau.
3. Chữ viết.
Chữ viết Aán Độ ra đời rất sớm. Ở Harappa và Môhenjô Đarô, các nhà khảo cổ học đã phát hiện
được hơn 3000 con dấu, trong đó có 22 dấu cơ bản (1921). Gần đây, người ta đã đọc được loại chữ này
(S.R.Rao). Đó là một loại chữ tượng hình: dùng hình vẽ để ghi âm và ghi vần.
Đến khoảng thế kỷ V TCN đã xuất hiện chữ Kharosthi phỏng theo chữ viết của Lưỡng Hà. Loại
chữ này đã phát triển thành chữ Brami và Đêvanagari đơn giản, thuận tiện hơn, là tiền thân của chữ Phạn
Xanxcrit mà ngày nay cư dân một số vùng ở Nepan và Aán Độ vẫn dùng.
Chữ Phạn Xanxcrit là một loại chữ viết dài dùng để viết các loại thư tịch cổ như Kinh Vêđa, Luật
MaNu, hệ thống bi ký (nhất là những cột đá thành Asoka).
4. Văn học nghệ thuật.
• Văn học Aán Độ phát triển rất rực rỡ với nhiều thể loại như Kinh, sử thi, thơ, kịch
- Kinh Vêđa gồm 4 bộ.
+ Rich Vêđa cổ nhất, cơ bản nhất gồm 1.028 bài thơ với 10.562 câu thơ chứa đựng nội dung về các
đấng thần linh, chế độ đẳng cấp, vũ trụ, đời sống của người Arya.
+ Yagiva Vêđa tập hợp những nghi thức lễ bái, hiến tế.
+ Xama Vêđa là những bài hát ca ngợi các đấng thần linh.
+ Atácva Vêđa là những bài chú đề cập đến chế độ đẳng cấp, cách chữa bệnh, tình yêu, đánh bạc.
Như vậy, bộ Kinh Vêđa là một tác phẩm văn học, tôn giáo cổ xưa nhất của xã hội loài người. Qua
Kinh Vêđa, chúng ta có thể hình dung được toàn bộ xã hội Aán Độ lúc bấy giờ.
Ngoài Kinh Vêđa còn có các bộ kinh khác như Kinh Upanishad đã đưa tư tưởng Aán Độ cổ đại
Hinđu phát triển lên thành một học thuyết tôn giáo.
Kinh Tam Tạng của đạo Phật gồm ba bộ: Kinh Tạng (lời dạy của Đức Thích Ca), Luật Tạng (quy
định về tôn giáo), Luận Tạng (những bài luận về giáo lý).
- Sử thi:
+ Mahabharata dài 220 ngàn câu thơ kể về những cuộc chiến tranh khốc liệt giữa hai anh em dòng
họ đế vương Bharata ở miền Bắc Aán Độ và ngày càng được bổ sung thêm trong lịch sử. Đây còn là một
bộ từ điển bách khoa về xã hội Aán Độ cổ đại.
+ Ramayana gồm 48.000 câu thơ, chia làm 7 chương. Chương 1 và chương 7 là do người sau thêm
thắt vào. Chủ đề của bộ sử thi là thiên tình sử đầy trắc trở giữa hoàng tử Rama tuấn tú và công chúa Sita
kiều diễm, thủy chung con của nữ thần Đất.
Lịch sử văn minh thế giới – Thời Cổ Trung đại - 25 –
Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Ngày nay, các văn nghệ sĩ Aán Độ vẫn tìm thấy trong hai bộ sử thi ấy nguồn cảm hứng sáng tác vô
tận. Các nhà thơ, nhà văn, nhà soạn kịch lớn tiêu biểu sau này có Caliđasa với tác phẩm tiêu biểu
Sơcuntơla và vua Đusơnta bằng tiếng Phạn và bằng các thứ tiếng Pali, BaTư, Inđia. Ngôn ngữ dân gian
được sử dụng nhiều trong văn học dân gian, phản ánh đời sống tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân
dân.
* Nghệ thuật gồm kiến trúc, điêu khắc, thấm đượm tinh thần tôn giáo, vừa tiếp thu vừa phát huy
những ảnh hưởng nghệ thuật ra xung quanh
- Thời kỳ Harappa, các công trình nghệ thuật được xây dựng chủ yếu bằng gạch. Đến thời kỳ
Môrya thì lại chủ yếu bằng đá.
+ Tháp (Stupa) hình bán cầu có chứa tro xương của Đức Phật và các vị Bồ Tát. Điển hình nhất là
tháp Xansi (Sanchi) xây từ thế kỷ III TCN ở Trung Aán.
+ Trụ đá tượng trưng cho các trụ trời dùng để thờ Phật, được xây dựng nhiều nhất là thời Axôca,
độ cao trung bình là 15m, nặng 50 tấn, chạm sư tử và các hình trang trí khác. Tiêu biểu là trụ đá Xacna
(Sarnath).
+ Chùa Hang được xây dựng phổ biến từ thế kỷ II TCN đến thế kỷ X, tiêu biểu là các chùa
Ajanta, Enlora ở Trung Aán.
+ Thời Sun Tan ĐêLi và Môgôn, nhiều nhà thơ Hồi giáo, cung điện, lăng mộ mà đặc điểm là mái
tròn, cửa vòm, tháp nhọn, có khi có bao lơn lộ thiên và cột chống thanh thoát.
+ Lăng Taj Mahan (1632) do 24.000 thợ xây dựng từ nhiều quốc gia bằng đá cẩm thạch, vàng bạc,
châu báu gồm 12 mặt (58 x 304m) mỗi góc có Tháp vút cao, cửa chính bằng bạc.
+ Nghệ thuật tạc tượng (từ thế kỷ I trở về sau) tiêu biểu là tượng Phật, Siva, Visnu, bằng đá ở
Ganđara.
5. Khoa học tự nhiên.
- Thiên văn học: 1 năm = 12 tháng, 1 tháng = 30 ngày, 1 ngày 30 giờ, 5 năm có 1 tháng nhuận.
Trái Đất, Mặt Trăng đều hình cầu, quỹ đạo Mặt Trăng và những kỳ Trăng tròn, khuyết. Phân biệt hành
tinh Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Người Aán Độ cũng biết được một số chòm sao và sự vận hành của các
ngôi sao chính. Tác phẩm cổ nhất là Xitđanta (Sidddhantas) thế kỷ V TCN.
- Toán học: người Aán Độ đã sáng tạo ra 10 chữ số nguyên và chữ số thập phân một cách hoàn
chỉnh, thể hiện trên các bia đá thời Asôca thế kỷ III TCN. Nhưng số 0 lại được tìm thấy trước ở Arập năm
873. Sau đó 3 năm mới tìm thấy ở Aán Độ, nhưng các nhà khoa học đã khẳng định số 0 là do người Aán Độ
sáng tạo ra, người A Rập học tập rồi truyền sang phương Tây.
Thế kỷ VI tính được Л = 3,1416, phép khai căn bậc 2,3, số âm, dương, các qui tắc hoán vị và giải
phương trình bậc hai.
Về hình học, tính diện tích hình vuông, chữ nhật, tam giác, đa giác, quan hệ giữa các cạnh của tam
giác vuông.
- Vật lý học:
+ Thuyết nguyên tử:
Lịch sử văn minh thế giới – Thời Cổ Trung đại - 26 –
Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Canađa cho rằng vạn vật do các nguyên tử tạo nên, sở dĩ vật chất khác nhau vì mỗi loại do một
thứ nguyên tử tạo nên.
Giainơ (Jain) cho rằng nguyên tử nào cũng như nhau chỉ có cách tổ hợp khác nhau.
+ Lực hút của Trái Đất: sách Siddhantas (thế kỷ V TCN) : qủa đất do trọng lực của nó, hút tất cả
mọi vật về nó.
- Y dược học: Từ thời Vêđa đã biết nhiều thứ bệnh và dùng phẫu thuật để chữa, biết dùng thảo
mộc, thuốc tê. Thế kỷ VI, V TCN đã biết chắp xương sọ, cắt màng mắt, mổ bụng lấy thai, lấy sỏi thận.
Ngoài ra các môn hóa học như kỹ thuật nấu sắt, nhuộm, thuộc da, đồ thủy tinh, sinh học, nông học đều
khá phát triển.
6. Tôn giáo.
- Đạo Hinđu (Aán Độ giáo) lớn nhất và cổ xưa nhất Aán Độ. Ban đầu là sự tổng hợp quan niệm tín
ngưỡng, tôn giáo và triết học, không có người sáng lập, không có tổ chức giáo hội và được coi là tôn giáo
trục của người Aán Độ.
Trải qua 3 thời kỳ: Vêđa, Bàlamôn, Hinđu chính thống.
Nội dung: Là tôn giáo đa thần, linh thiêng hóa từ những hiện tượng tự nhiên nhất là bò cái, đều có
thể chuyển hóa nhau trong vòng luân hồi. Dần dần được trừu tượng hóa và quy vào 3 vị thần: Brama
(thần sáng tạo), Visnu (thần bảo tồn) và Siva (thần hủy diệt).
Giáo lý:
+ Mối quan hệ bản ngã vũ trụ (Brahman) là yều tố thần linh thấm nhuần bởi vạn vật với bản ngã
cá thể (Atman) là cái đặc thù trong từng con người, từng sự vật tức là: trong Brahman có Atman và mỗi
Atman là một phần của Brahman, thể hiện sự hòa đồng giữa con người (vi mô) với vũ trụ (vĩ mô).
+ Khái niệm về đạo (Dharma): trong vận động giữa các sự vật, mọi sự sinh thành, biến hóa đều bị
chi phối bởi một nguyên lý, một trật tự, một quy luật khách quan ngoài ý muốn của con người vì thế phải
hành động theo đạo pháp, phải vì quyền lợi thiêng liêng, không vụ lợi.
+ Khái niệm về luân hồi (Samsara) và nghiệp báo (Karman) về một chu kỳ tuần hoàn và luật
nhân quả của những kiếp sống. Con người không thực sự chết đi mà lại chuyển sang một kiếp sống khác,
tái sinh trong vòng luân hồi mỗi niềm vui, nỗi buồn, sướng khổ của kiếp này là hậu quả của kiếp trước,
mọi hành động đúng sai trong kiếp này sẽ phải trả giá trong kiếp sau. Đây chính là cơ sở lý luận của chế
độ đẳng cấp Varna về tôn giáo.
+ Con đường giải thoát (Moska) là sự thành tâm, sùng tín đối với tôn giáo, khuyên con người làm
điều thiện, chấp nhận thân phận của mình thì sẽ thoát khỏi vòng quay của bánh xe nghiệp báo luân hồi.
- Đạo Phật, ra đời vào khoảng giữa thế kỷ VI TCN ở Tây Bắc Aán Độ do hoàng tử Siddharta
Gautama hiệu là Sakia Munita sáng lập. Năm 544 TCN, là năm Đức Phật chào đời cũng là năm mở đầu
kỷ nguyên Phật giáo (Budha).
+ Giáo lý của Đạo Phật nằm trong quan niệm vô ngã, vô thường (mọi vật đều có sinh, diệt) sinh,
trụ, dị, diệt là bốn chân lý “tứ diệu đế”.
Khổ đế: sự đau khổ trên đời không ai tránh được.
Tập đế: nguồn gốc nỗi khổ do sự ham muốn (dục vọng) về tài sản, quyền thế
Lịch sử văn minh thế giới – Thời Cổ Trung đại - 27 –
Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Diệt đế: cách chấm dứt nỗi khổ là tận diệt dục vọng, xóa bỏ mọi ham muốn.
Đạo đế: con đường giải thoát nỗi khổ (bát chính đạo).
Đây là một hệ thống nguyên tắc đạo đức học về nhân quả, luân hồi, khuyên con người ta nên làm
điều thiện, từ bi, bác ái trong cuộc sống hàng ngày để được siêu thoát nơi cõi Niết Bàn (Nirvana), chủ
trương khoan dung, bình đẳng, không chấp nhận chế độ đẳng cấp.
Đạo Phật đã được truyền bá ra nhiều nước xung quanh và phát triển thành hai phái:
Tiểu thừa (Hinayana - nghĩa là cỗ xe nhỏ): chỉ có người xuất gia tu hành mới rũ bỏ mọi ham muốn
(Đông Nam Á).
Đại thừa (Mahayana – nghĩa là cỗ xe lớn): mọi người sống theo giáo lý Đạo Phật đều có thể giác
ngộ và tới cõi niết bàn (Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản).
- Đạo Jaina, xuất hiện cùng thời gian với Đạo Phật do Vardamana sáng lập hiệu là Mahavira (anh
hùng vĩ đại). Chủ trương tu hành khổ luyện, không sát hại sinh linh, phủ nhận vai trò sáng tạo thế giới
của các Đấng thần linh. Giáo lý nêu lên 3 phép quý là: có lòng tin đúng đắn, nhận thức đúng đắn, hạnh
kiểm đúng đắn.
5 điều răn: không sát sinh, không nói dối, không trộm cắp, không gian dâm, không giữ của riêng.
- Đạo Xích, xuất hiện ở Đông Bắc Aán Độ vào thế kỷ X do pháp sư Nanak sáng lập. Ban đầu cố
gắng kết hợp giáo lý Đạo Hinđu với Hồi giáo. Số tín đồ của đạo này chiếm khoảng 2% dân số của Ấn
Độ, tập hợp ở Pungiáp, lấy đền vàng ở Amriton làm thánh đường. Đạo này chủ trương kích động quyền
lợi dân tộc, đòi ly khai khỏi Aán Độ, khủng bố và bạo loạn chống chính quyền trung ương.
- Đạo Hồi vào Aán Độ từ thế kỷ VII và phát triển mạnh ở thế kỷ XIII đến thế kỷ XVI (Thời kỳ
vương triều Đêli) và phát triển thành tôn giáo lớn thứ 2 trên đất nước Aán Độ.
7. Triết học.
Hình thành và phát triển sớm, phong phú và sâu sắc, thấm đượm giáo lý các tôn giáo thể hiện
trong các bộ sử thi và các tác phẩm văn học nghệ thuật. Ngay từ thế kỷ thứ VI TCN, khi ra đi tìm chân lý,
Đức Phật đã biết ở Aán Độ có 48 hệ phái tư tưởng.
Có hai hệ phái lớn:
- Phái Khẳng định thừa nhận Thượng đế và các Thần linh, theo quan điểm duy tâm, có 6 hệ phái
nhỏ.
- Phái Phủ định: không thừa nhận uy quyền của thần thánh, chống lại chế độ đẳng cấp Varna,
quan niệm không có linh hồn tồn tại độc lập với thể xác, không có số mệnh, không có kiếp sau, không có
luân hồi, quan niệm vũ trụ được hình thành do các yếu tố vật chất như đất, nước, lửa và không khí, tồn tại
vĩnh cửu.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khxh0014_p1_996.pdf