- Thay đổi về hành vi an toàn điện: hộ gia
đình có nắp đậy cho các bảng điện tăng
18,1%, treo dây điện cao trên 2,5 mét tăng
16,4% (p<0,05).
- Thay đổi về hành vi an toàn hóa chất bảo vệ
thực vật: 100% hộ gia đình sản xuất chè được
hướng dẫn về cách sử dụng hóa chất BVTV
an toàn. Vỏ chai đựng hóa chất được xử lý
hợp lý đạt 78,8% (tăng 23,7%), bảo quản
thuốc đúng đạt 56,6% (tăng 24,8%), bình
phun thuốc để ngoài nhà và treo cao đạt
90,7% (tăng 17,9%).
- Tỷ lệ người lao động sử dụng đầy đủ khẩu
trang, mũ, kính, găng tay, ủng khi phun thuốc
tăng 23,7% và thường xuyên sử dụng bảo hộ
lao động khi làm việc tăng 14,4% (p<0,05).
- Tỷ suất TNTT ở xã can thiệp giảm từ 15,9‰
xuống còn 13,7‰, xã đối chứng từ 14,6‰
tăng lên 15,5‰ (p>0,05). Hiệu quả can thiệp
đạt 19,7%.
6 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 25/03/2022 | Lượt xem: 289 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải pháp phòng chống tai nạn thương tích trong lao động sản xuất chè tại Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Minh Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 104(04): 61 - 66
61
GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG TAI NẠN THƯƠNG TÍCH
TRONG LAO ĐỘNG SẢN XUẤT CHÈ TẠI THÁI NGUYÊN
Nguyễn Minh Tuấn*
Trường Đại học Y Dược - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: chè là cây công nghiệp mũi nhọn của tỉnh Thái Nguyên, vì vậy đảm bảo an toàn lao
động, phòng tránh tai nạn thương tích (TNTT) cho người trồng chè là cần thiết.
Mục tiêu: đánh giá hiệu quả một số giải pháp can thiệp phòng chống TNTT cho người lao động
trồng chè tại Thái Nguyên
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu can thiệp so sánh trước sau, có nhóm chứng với cỡ mẫu là
587 hộ trồng chè ở xã can thiệp (xã Hòa Bình) và xã đối chứng (xã La Bằng). Hoạt động can thiệp
là tập huấn nâng cao năng lực cho nhân viên y tế thôn bản (NVYTTB) và truyền thông về TNTT
được tiến hành trong 1 năm.
Kết quả và kết luận: sau can thiệp, kỹ năng sơ cứu TNTT của NVYTTB ở mức độ tốt đạt 4/7.
Hành vi phòng chống TNTT của các hộ gia đình có sự thay đổi so với trước can thiệp (p<0,05).
Các chỉ tiêu an toàn máy móc, an toàn điện, an toàn hóa chất bảo vệ thực vật và sử dụng bảo hộ
lao động đều có sự tăng trưởng theo hướng tích cực, chỉ tiêu tăng ít nhất là 3%, tăng nhiều nhất là
29%. Tỷ suất TNTT ở xã can thiệp giảm từ 15,9‰ xuống còn 13,7‰, xã đối chứng từ 14,6‰ tăng
lên 15,5‰ (p>0,05). Hiệu quả can thiệp đạt 19,7%.
Từ khóa: Tai nạn thương tích, an toàn máy móc, an toàn điện, bảo hộ lao động, trồng chè
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Trong cơ cấu cây trồng của tỉnh Thái Nguyên,
chè được coi là cây công nghiệp mũi nhọn
của tỉnh. Tuy nhiên việc canh tác và chế biến
chè chủ yếu vẫn mang tính chất nhỏ lẻ, ở qui
mô hộ gia đình do đó vấn đề an toàn trong lao
động trồng chè chưa được quan tâm đúng
mức. Trong bối cảnh cơ giới hóa nông
nghiệp, tỷ lệ TNTT trong lao động đang có
chiều hướng gia tăng. Kết quả nghiên cứu
năm 2010 tại các vùng chuyên canh chè của
tỉnh Thái Nguyên cho thấy tỷ lệ TNTT do lao
động là 33,1/1.000, trong đó TNTT do lao
động sản xuất chè là 15,2/1.000, chiếm một tỷ
trọng tương đối lớn (46,0%) trong các loại
TNTT do lao động nông nghiệp nói chung
[4]. Nguyên nhân là do người lao động trồng
chè chưa có ý thức tuân thủ các qui định về an
toàn phòng chống TNTT trong lao động. Để
góp phần giảm thiểu nguy cơ TNTT, nâng cao
sức khỏe cho người lao động trồng chè tại
Thái Nguyên, nghiên cứu này được tiến hành
nhằm mục tiêu:
Đánh giá hiệu quả một số giải pháp can thiệp
phòng chống TNTT cho người lao động trồng
chè tại Thái Nguyên.
*
Tel: 0912 173001, Email: minhtuanytn@gmail.com
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
- Hộ gia đình trồng và sản xuất chè.
- Nhân viên y tế thôn bản.
Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu: xã Hòa Bình - Đồng
Hỷ (can thiệp) và xã La Bằng - Đại Từ (đối
chứng). Đây là 2 xã chuyên canh chè của tỉnh
Thái Nguyên.
- Thời gian can thiệp: 1 năm (10/2010 đến
10/2011).
Phương pháp nghiên cứu
* Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu can thiệp
so sánh trước sau, có nhóm chứng.
* Cỡ mẫu:
( )
( )221
2
2211β1α/21
PP
)P(1P)P(1PZP)2P(1Z
−
−+−+−
=
−−
n
Số hộ gia đình trồng chè ở mỗi nhóm can
thiệp và đối chứng được ước tính dựa trên
hành vi dự phòng TNTT theo nghiên cứu
trước là 38% [2], với mong muốn sau can
thiệp tăng lên 48%, ở mức xác suất α=0,05 và
β = 0,1. Thay vào công thức tính được cỡ mẫu
n = 513 hộ/ xã.
66Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Minh Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 104(04): 61 - 66
62
* Nội dung can thiệp: tập trung vào 2 hoạt
động chính là tập huấn nâng cao năng lực cho
cán bộ y tế cơ sở và truyền thông về TNTT
cho người lao động sản xuất chè.
- Tại xã can thiệp, NVYTTB được tham gia 2
lớp tập huấn về công tác truyền thông phòng
chống TNTT và kỹ thuật sơ cấp cứu ban đầu.
Nội dung tập huấn dựa trên tài liệu hướng dẫn
của Bộ Y tế về “phòng chống TNTT, xây
dựng cộng đồng an toàn” [1].
- Truyền thông, cung cấp những kiến thức cơ
bản cho người lao động về phòng chống
TNTT trong lao động trồng chè. Hoạt động
truyền thông do NVYTTB tiến hành, lồng
ghép với các buổi sinh hoạt cộng đồng của hội
nông dân, hội phụ nữ và các buổi họp thôn.
- Xây dựng bảng kiểm đánh giá điều kiện an
toàn lao động liên quan đến một số vấn đề
TNTT hay gặp trong lao động trồng chè tại
địa phương (tai nạn do máy móc nông nghiệp,
tai nạn điện, an toàn sử dụng hóa chất, bảo hộ
lao động). Thảo luận với người lao động và
để họ tự đánh giá về các tiêu chí của bảng
kiểm: những chỉ tiêu đã đạt được, những chỉ
tiêu chưa đạt được và lý do chưa đạt, từ đó
các hộ gia đình tự thực hiện cải thiện điều kiện
lao động bằng nguồn lực của chính mình.
*Chỉ tiêu nghiên cứu:
- Sự cải thiện về kỹ năng sơ cứu TNTT của
NVYTTB trước và sau can thiệp.
- Sự thay đổi về hành vi an toàn máy móc, an
toàn điện, an toàn hóa chất bảo vệ thực vật, sử
dụng bảo hộ lao động của các hộ gia đình
trước và sau can thiệp.
- Sự thay đổi về tỷ suất TNTT trong lao động
sản xuất chè trước và sau can thiệp.
Phương pháp thu thập thông tin: các kỹ
thuật thu thập thông tin được tiến hành như
nhau tại 2 thời điểm trước và sau can thiệp,
bao gồm:
- Phỏng vấn trực tiếp chủ hộ gia đình về tần
suất TNTT của các thành viên trong gia đình
trong 1 năm qua kể từ thời điểm điều tra.
- Quan sát yếu tố nguy cơ gây TNTT bằng
bảng kiểm về an toàn máy móc, an toàn điện,
hóa chất bảo vệ thực vật (HCBVTV) và bảo
hộ lao động.
- Quan sát kỹ năng sơ cấp cứu TNTT của
NVYTTB và đánh giá bằng bảng kiểm theo
3 mức độ phân loại của Bloom [5]: Tốt (≥
80% tổng số điểm), trung bình (60-79%),
kém (< 60%).
Phương pháp xử lý số liệu: sử dụng chương
trình SPSS 18.0 với các thuật toán thống kê y
học: tỷ suất TNTT được tính trên 1.000 dân
có nguy cơ trong 1 năm, hiệu quả của các giải
pháp can thiệp được tính toán dựa trên chỉ số
hiệu quả (CSHQ) và hiệu quả can thiệp
(HQCT).
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tại xã can thiệp, NVYTTB của 7/7 xóm đã
được đào tạo về phòng chống TNTT và thực
hiện trung bình 5 buổi truyền thông tại mỗi
xóm về các nội dung liên quan đến xử trí và
phòng chống TNTT. Trong đó nội dung được
quan tâm nhiều nhất là an toàn máy móc nông
nghiệp và an toàn hóa chất bảo vệ thực vật.
Bảng 1. Kỹ năng sơ cứu TNTT của NVYTTB trước và sau đào tạo
Kỹ năng Tốt Trung bình Kém
Trước Sau Trước Sau Trước Sau
Kỹ thuật ép tim - thổi ngạt sơ cứu TNTT
do ngạt, đuối nước 4/7 6/7 2/7 1/7 1/7 0
Kỹ thuật băng ép cầm máu sơ cứu TNTT
do ngã hoặc do vật sắc nhọn 3/7 5/7 2/7 2/7 2/7 0
Kỹ thuật băng cẳng tay, bàn tay 4/7 6/7 3/7 1/7 0/7 0
Kỹ thuật băng đầu do TNTT gây ra bởi
vật tù 1/7 4/7 2/7 3/7 4/7 0
Kỹ thuật sơ cứu TNTT do bỏng 2/7 5/7 2/7 2/7 3/7 0
Tổng hợp tất cả các kỹ năng 1/7 4/7 3/7 3/7 3/7 0
67Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Minh Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 104(04): 61 - 66
63
Kết quả bảng 1 cho thấy, trước khi được đào tạo NVYTTB còn thiếu hụt nhiều kỹ năng về sơ cứu
TNTT, một số kỹ năng còn ở mức độ kém như băng đầu, sơ cứu bỏng, băng ép cầm máu. Sau can
thiệp tất cả các kỹ năng này đều đã được cải thiện, đạt mức trung bình trở lên.
Bảng 2. Sự thay đổi về hành vi an toàn máy móc của các hộ gia đình trước và sau can thiệp
Thực hành an toàn máy móc tốt Trước CT
(n=588)
Sau CT
(n=587)
Chênh
lệch
(%)
p
(test χ2)
SL % SL %
Có lắp đặt che chắn cho các bộ phận
chuyển động có nguy cơ gây tai nạn 383 65,1 515 87,7 22,6 <0,05
Có cầu dao, công tắc đóng/ngắt điện
khẩn cấp ở nơi dễ quan sát 540 91,8 579 98,6 6,8 <0,05
Bao bọc hoặc che an toàn các dây dẫn
điện vào máy 505 85,9 559 95,2 9,3 <0,05
Có các chỉ dẫn an toàn của máy móc
được treo ở nơi dễ quan sát khi vận
hành máy
261 44,4 431 73,5 29,1 <0,05
Thường xuyên bảo trì máy móc sản
xuất chè 390 66,3 531 90,4 24,1 <0,05
Kết quả bảng 2 cho thấy, sau can thiệp các tiêu chí về thực hành an toàn máy móc đều đã có sự
cải thiện rõ rệt, hầu hết đều đạt trên 90%. Sự chênh lệch so với trước can thiệp ít nhất là 6,8%,
nhiều nhất là 29,1%, có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Bảng 3. Sự thay đổi về hành vi an toàn điện của các hộ gia đình trước và sau can thiệp
Thực hành an toàn điện tốt
Trước CT
(n=588)
Sau CT
(n=587)
Chênh
lệch
(%)
p
(test χ2)
SL % SL %
Dây điện bọc kín, các thiết bị dẫn điện
phải có cách điện 541 92,0 576 98,2 6,2 <0,05
Đảm bảo tất cả các hộp điện hay bảng
điện trên tường đều có nắp đậy 304 51,7 410 69,8 18,1 <0,05
Công tắc điện ở nơi dễ nhìn thấy, có
thể tắt máy ngay khi có nguy hiểm 546 92,9 570 97,1 4,2 <0,05
Dây điện treo cao trên tường >2,5 mét 385 65,5 481 81,9 16,4 <0,05
Kết quả bảng 3 cho thấy, các tiêu chí về thực hành an toàn điện tốt có sự khác biệt rõ rệt giữa
trước và sau can thiệp (p<0,05). Mức chênh lệch từ 4,2% đến 18,1% so với trước can thiệp.
Bảng 4. Sự thay đổi về hành vi an toàn hóa chất bảo vệ thực vật trước và sau can thiệp
Thực hành an toàn hóa chất bảo vệ
thực vật tốt
Trước CT
(n=588)
Sau CT
(n=587)
Chênh
lệch
(%)
p
(test χ2)
SL % SL %
Hóa chất được sử dụng có nhãn mác 565 96,1 584 99,5 3,4 <0,05
Có hướng dẫn sử dụng hóa chất BVTV 535 91,0 565 96,2 5,2 <0,05
Người sử dụng được đào tạo cách sử
dụng hóa chất an toàn 209 35,5 587 100,0 64,5 <0,05
Vỏ bao, chai đựng thuốc bảo vệ thực
vật được xử lý hợp lý 324 55,1 463 78,8 23,7 <0,05
Thuốc để ngoài nhà và được bảo quản
an toàn 187 31,8 332 56,6 24,8 <0,05
Bình pha, phun thuốc để ngoài nhà,
trên cao để trẻ em không với được 428 72,8 532 90,7 17,9 <0,05
68Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Minh Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 104(04): 61 - 66
64
Kết quả bảng 4 cho thấy, sau can thiệp 100% hộ gia đình sản xuất chè đã được hướng dẫn về
cách sử dụng hóa chất BVTV an toàn, 99,5% hóa chất được dán nhãn mác, các hành vi an toàn
trong bảo quản hóa chất BVTV, bảo quản bình phun thuốc, xử trí vỏ đựng thuốc đều có sự thay
đổi so với trước can thiệp (p<0,05).
Bảng 5. Sự thay đổi về hành vi sử dụng bảo hộ lao động trước và sau can thiệp
Sử dụng bảo hộ lao động đúng
Trước CT
(n=588)
Sau CT
(n=587)
Chênh
lệch
(%)
p
(test χ2)
SL % SL %
Có mũ, nón khi làm việc ngoài trời 584 99,3 586 99,8 0,5 >0,05
Có khẩu trang, khăn bịt mặt khi làm
việc ngoài trời 562 95,6 579 98,7 3,1 <0,05
Có đủ khẩu trang, mũ, kính, găng tay,
ủng khi phun thuốc 316 53,7 454 77,4 23,7 <0,05
Đồ bảo bộ lao động thuận tiện, không
cản trở các hoạt động 496 84,4 537 91,5 7,1 <0,05
Phương tiện bảo hộ lao động được sử
dụng thường xuyên khi làm việc 475 80,8 559 95,2 14,4 <0,05
Kết quả bảng 5 cho thấy, sau can thiệp tỷ lệ người lao động sử dụng bảo hộ lao động đã tăng lên
rõ rệt, đặc biệt là tỷ lệ có đủ khẩu trang, mũ, kính, găng tay, ủng khi phun thuốc (tăng 23,7%) và
thường xuyên sử dụng bảo hộ lao động khi làm việc (tăng 14,4%).
Bảng 6. Sự thay đổi về tỷ suất TNTT trong lao động sản xuất chè giữa xã can thiệp và đối chứng
(tính trên 1.000 dân)
Chỉ số
Xã can thiệp
(n=1.823)
Xã chứng
(n=2.322)
p
(test χ2)
Tần số TNTT Tỷ suất (‰)
Tần số
TNTT
Tỷ suất
(‰)
Trước can thiệp 29 15,9 34 14,6 >0,05
Sau can thiệp 25 13,7 36 15,5 >0,05
Chỉ số hiệu quả (%) 13,8 -5,9
Hiệu quả can thiệp (%) 19,7
Kết quả bảng 6 cho thấy, can thiệp đã đem lại
hiệu quả đối với tình trạng TNTT trong lao
động sản xuất chè là 19,7%, tỷ suất TNTT
trong 1 năm giảm khoảng 2‰, nhưng sự khác
biệt chưa có ý nghĩa thống kê so với trước can
thiệp và so với xã đối chứng (p>0,05).
BÀN LUẬN
Nghiên cứu này đã lựa chọn 2 giải pháp để thí
điểm can thiệp đó là đào tạo nâng cao năng
lực cho cán bộ y tế, đặc biệt là đội ngũ
NVYTTB về các kỹ năng truyền thông và sơ
cấp cứu ban đầu TNTT. Sau đó, thông qua
đội ngũ NVYTTB, các kiến thức về TNTT
được truyển tải tới các hộ gia đình trồng chè
tại địa bàn can thiệp dưới nhiều hình thức như
truyền thông trực tiếp, nói chuyện sức khỏe,
thảo luận nhóm về các tiêu chí an toàn vệ sinh
lao động. Đánh giá lại sau 1 năm can thiệp
cho thấy, tỷ lệ các hộ gia đình trồng chè đạt
đúng các tiêu chí an toàn trong lao động sản
xuất chè có sự thay đổi theo chiều hướng tích
cực hơn so với trước can thiệp.
Về an toàn máy móc: trước can thiệp có 1 số
tiêu chí trong bảng kiểm đã được các hộ gia
đình thực hiện tốt như có cầu dao, công tắc
đóng/ngắt điện khẩn cấp ở nơi dễ quan sát
(91,8%), bao bọc hoặc che an toàn các dây
dẫn điện vào máy (85,9%), các tiêu chí này
tiếp tục được duy trì ở mức cao sau can thiệp.
Một số tiêu chí đạt được ở mức độ trung bình
thì mức độ thay đổi rõ rệt hơn như việc lắp
đặt che chắn cho các bộ phận chuyển động có
nguy cơ gây tai nạn (tăng từ 65,1% lên
87,7%) hay việc thường xuyên bảo trì máy
móc sản xuất chè (tăng từ 66,3% lên 90,4%).
Đặc biệt các tiêu chí đạt được ở mức độ thấp
trước can thiệp là có các chỉ dẫn an toàn của
máy móc được treo ở nơi dễ quan sát khi vận
hành máy, có mức thay đổi lên đến 29,1%.
Thực ra để đạt được những tiêu chí này không
69Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Minh Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 104(04): 61 - 66
65
khó, một số hộ gia đình chỉ cần ghi chú đơn
giản trên tường nhà hoặc trên miếng bìa chữ
“nguy hiểm” “tắt”, “mở”...
Về an toàn điện: So với an toàn máy móc,
việc thực hiện an toàn điện của các hộ gia
đình có vẻ tốt hơn, nhiều tiêu chí trước can
thiệp đã đạt trên 90%. Điều này có thể do sự
nguy hiểm của điện được người dân chú trọng
hơn. Tuy nhiên việc thay bảng điện hoặc mắc
lại đường dây điện có liên quan đến kết cấu
của ngôi nhà, do đó cũng không dễ gì thay đổi
được. Chính vì vậy, sau can thiệp chỉ có
69,8% hộ gia đình đảm bảo tất cả các hộp
điện hay bảng điện trên tường đều có nắp đậy
và 81,9% hộ gia đình có dây điện treo cao
trên tường >2,5 mét.
Về an toàn hóa chất BVTV: đây là vấn đề nổi
cộm tại các vùng làm nông nghiệp nói chung
và vùng chuyên canh chè nói riêng. Có thể
nói, người dân chấp nhận “sống chung” với
hóa chất BVTV dù biết có độc hại cho sức
khỏe. Một số nguy cơ còn tồn tại trong thực
hành an toàn hóa chất bảo vệ thực vật là vỏ
chai đựng hóa chất chưa được xử lý hợp lý
(43,5%), bảo quản thuốc chưa đúng (68,6%),
thuốc để trong bếp (94,9%), trong chuồng gia
súc (25,8%), bình phun không treo cao
(28,9%) và người sử dụng hóa chất chưa được
đào tạo (65,3%). Sau can thiệp, 100% hộ gia
đình sản xuất chè đã được hướng dẫn về cách
sử dụng hóa chất BVTV an toàn, 99,5% hóa
chất được dán nhãn mác, các hành vi an toàn
trong bảo quản hóa chất BVTV, bảo quản
bình phun thuốc, xử trí vỏ đựng thuốc đều có
sự thay đổi so với trước can thiệp với mức
chênh lệch ít nhất là 3,4% (p<0,05).
Về an sử dụng bảo hộ lao động: kết quả phân
tích thực trạng sử dụng bảo hộ lao động của
người lao động sản xuất chè cho thấy người
dân đã chú ý đến các phương tiện phòng hộ
cá nhân nhưng thường chỉ dùng đơn lẻ mũ
hoặc khẩu trang bịt mặt. Tỷ lệ có đủ khẩu
trang, mũ, kính, găng tay, ủng khi phun thuốc
BVTV chỉ đạt 53,7%, sau can thiệp tỷ lệ này
đã tăng lên 77,4% nhưng vẫn chưa đảm bảo
yêu cầu về vệ sinh lao động.
Về tỷ suất TNTT: thông qua việc cải thiện các
yếu tố nguy cơ gây TNTT ở người lao động
sản xuất chè, tỷ suất TNTT ở xã can thiệp
giảm từ 15,9‰ xuống còn 13,7‰, tương
đương với còn khoảng 14 người bị TNTT
trong số 1000 người tham gia vào các công
đoạn trồng và sản xuất chè. Mức giảm này
chưa đáng kể do thời gian can thiệp còn ngắn.
Tuy nhiên, trong bối cảnh TNTT đang có
chiều hướng gia tăng khi so sánh với xã đối
chứng thì hiệu quả can thiệp đạt được là
19,7%. Như vậy giải pháp can thiệp đã góp
phần giảm tỷ lệ TNTT cho người lao động
trồng chè, nhưng hiệu quả còn ở mức khá
khiêm tốn so với các nghiên cứu trong và
ngoài nước [3],[6].
KẾT LUẬN
Hiệu quả sau 1 năm can thiệp bằng hoạt động
đào tạo và truyền thông phòng chống TNTT
cho người lao động sản xuất chè như sau:
- Kỹ năng sơ cứu TNTT của NVYTTB tốt
hơn so với trước can thiệp: mức độ tốt đạt
4/7, mức độ trung bình đạt 3/7.
- Thay đổi về hành vi an toàn máy móc: hộ
gia đình lắp đặt che chắn cho các bộ phận
chuyển động của máy tăng 22,6%, có các chỉ
dẫn an toàn của máy móc tăng 29,1%, máy
móc sản xuất chè thường xuyên bảo trì tăng
24,1% (p<0,05).
- Thay đổi về hành vi an toàn điện: hộ gia
đình có nắp đậy cho các bảng điện tăng
18,1%, treo dây điện cao trên 2,5 mét tăng
16,4% (p<0,05).
- Thay đổi về hành vi an toàn hóa chất bảo vệ
thực vật: 100% hộ gia đình sản xuất chè được
hướng dẫn về cách sử dụng hóa chất BVTV
an toàn. Vỏ chai đựng hóa chất được xử lý
hợp lý đạt 78,8% (tăng 23,7%), bảo quản
thuốc đúng đạt 56,6% (tăng 24,8%), bình
phun thuốc để ngoài nhà và treo cao đạt
90,7% (tăng 17,9%).
- Tỷ lệ người lao động sử dụng đầy đủ khẩu
trang, mũ, kính, găng tay, ủng khi phun thuốc
tăng 23,7% và thường xuyên sử dụng bảo hộ
lao động khi làm việc tăng 14,4% (p<0,05).
- Tỷ suất TNTT ở xã can thiệp giảm từ 15,9‰
xuống còn 13,7‰, xã đối chứng từ 14,6‰
tăng lên 15,5‰ (p>0,05). Hiệu quả can thiệp
đạt 19,7%.
70Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Minh Tuấn Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 104(04): 61 - 66
66
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ Y tế - Cục Y tế dự phòng (2005), Ứng
dụng phương pháp đánh giá nhanh có sự tham gia
của người dân trong các bước xây dựng cộng
đồng an toàn, Dự án Phòng chống tai nạn thương
tích xây dựng cộng đồng an toàn, Chương trình
hợp tác Việt Nam - Thụy Điển.
[2]. Trần Thế Hoàng (2011), Hành vi dự phòng
nhiễm hóa chất bảo vệ thực vật ở người canh
tác chè xã La Bằng, Đại Từ, Thái Nguyên, Luận
văn Thạc sĩ Y học, Trường Đại học Y Dược
Thái Nguyên.
[3]. Hà Huy Thành và cộng sự (2006), Báo cáo
đánh giá giữa kỳ Dự án tăng cường năng lực an
toàn và về sinh lao động trong nông nghiệp tại
Việt Nam (RAS/04/M01/JPN), Tổ chức lao động
Quốc tế, Hà Nội.
[4]. Nguyễn Minh Tuấn, Nguyễn Thúy Quỳnh
(2012), “Thực trạng tai nạn thương tích trong lao
động sản xuất chè tại Thái Nguyên”, Tạp chí Khoa
học và Công Nghệ (Đại học Thái Nguyên), 97(09),
tr.153-157.
[5]. J.D. Bloom, M.D. Englehart, E.J. Furst, W.H.
Hill, D.R. Krathwohl (1956), Txonomy of
educational objectives: The classification of
educational goals: Hanbook I. The cognitive
doman. New York: Longman.
[6]. L.M. Hagel, Pickett, W., Pahwa, P., Day, L.,
Brison, R.J., Marlenga, B., Crowe, T., Snodgrass,
và Ulmer P., K., Dosman, J.A., (2008),
"Prevention of agricultural injuries: an evaluation
of an education-based intervention", Injury
Prevention, 14(5), p.6.
SUMMARY
SOLUTIONS TOWARDS INJURY PREVENTION AND CONTROL
IN TEA PRODUCTION IN THAI NGUYEN
Nguyen Minh Tuan*
College of Medicine & Pharmacy – TNU
Background: Tea is a major industrial plant in Thai Nguyen province, so that to ensure safe in tea
production and to prevent injuries for people growing tea is essential.
Objectives: To evaluation effectiveness of some interventional solutions towards injury prevention and
control for people growing tea in Thai Nguyen
Method: An Intervention study comparing before - after with sample size of 587 households in
intervened commune (Hoa Binh commune) and a control commune (La Bang commune).
Interventional measures done are to build competence for village health workers (VHWs) and health
education and communication on injuries were conducted for one year.
Results and conclusion: After intervention, First Aid skills for injury for VHWs at a good degree was
4/7. Behaviors towards injury prevention and control for households was considerably changed as
compared to before intervention (p <0,05). The standards on machine, power safety, safe use of crop
protection chemicals as well as safe use of labor protection were developed according to active
orientation, norms increasing at least was 3% and highest was 29%. The ratio of injury in the
intervened commune decreased to 13.7% from 15.9 ‰ , and in the control increased up 15.5% from
14.6 ‰ (p>0,05). Effectiveness of intervention was 19.7%.
Keywords: Injuries, machine safety, power safety, labor protection, growing tea
Ngày nhận bài:09/3/2013, ngày phản biện:01/4/2013 , ngày duyệt đăng:24/4/2013
*
Tel: 0912 173001, Email: minhtuanytn@gmail.com
71Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giai_phap_phong_chong_tai_nan_thuong_tich_trong_lao_dong_san.pdf