Quá trình thực hiện dự án di dân tái định cư trên địa bàn Khu kinh
tế Dung Quất đã hơn 10 năm nhưng vấn đề phát triển kinh tế trong các khu
tái định cư vẫn chưa có lối thoát. Hiện tại vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề kinh
tế - xã hội cần phải giải quyết: vấn đề về nghề nghiệp, vấn đề ổn định cuộc
sống, cái nghèo của người dân Do vậy, cần phải đề xuất các giải pháp
nâng cao chất lượng cuộc sống cho các hộ dân tái định cư trên địa bàn Khu
kinh tế Dung Quất.
6 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 09/03/2022 | Lượt xem: 395 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng cuộc sống người dân tái định cư thuộc khu kinh tế Dung Quất, Quảng Ngãi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế
ISSN 1859-1612, Số 04(16)/2010: tr. 113-118
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG NGƯỜI DÂN
TÁI ĐỊNH CƯ THUỘC KHU KINH TẾ DUNG QUẤT, QUẢNG NGÃI
PHẠM VIẾT HỒNG - ĐẶNG THỊ MAI TRÂM
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế
Tóm tắt: Quá trình thực hiện dự án di dân tái định cư trên địa bàn Khu kinh
tế Dung Quất đã hơn 10 năm nhưng vấn đề phát triển kinh tế trong các khu
tái định cư vẫn chưa có lối thoát. Hiện tại vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề kinh
tế - xã hội cần phải giải quyết: vấn đề về nghề nghiệp, vấn đề ổn định cuộc
sống, cái nghèo của người dân Do vậy, cần phải đề xuất các giải pháp
nâng cao chất lượng cuộc sống cho các hộ dân tái định cư trên địa bàn Khu
kinh tế Dung Quất.
Tháng 3 năm 2005, Khu kinh tế Dung Quất (KKT) được thành lập theo quyết định số
50/2005 QĐ-TTg. Để giải phóng mặt bằng xây dựng khu kinh tế Dung Quất, chính quyền
địa phương đã phải di dời 1523 hộ gia đình và thành lập 10 khu tái định cư (TĐC). Tính
đến tháng 12 năm 2009, để thực hiện các dự án tại Khu kinh tế Dung Quất, có hơn 11.000
hộ dân đã bị thu hồi đất với diện tích khoảng 3.000ha. Tỉnh Quảng Ngãi đã phải xây dựng
17 khu tái định cư cho khoảng hơn 2.000 hộ dân bị di dời, giải tỏa. Sau hơn 5 năm, vấn đề
phát triển kinh tế trong các khu TĐC này vẫn còn nhiều khó khăn, nảy sinh nhiều vấn đề
kinh tế - xã hội cần giải quyết [4]. Do đó cần phải có những giải pháp hợp lý phát triển
kinh tế xã hội ở vùng TĐC để ổn định phát triển kinh tế cho những cư dân những vùng
này, đem lại môi trường kinh tế, xã hội, chính trị ổn định, để đảm bảo cho sự phát triển
nhanh, hiệu quả bền vững và toàn diện của cả Khu kinh tế Dung Quất.
1. TÌNH HÌNH CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG HỘ GIA ĐÌNH SAU KHI TĐC
1.1. Thu nhập bình quân trong năm của hộ dân trong các khu TĐC
Bảng 1. Thu nhập bình quân trong năm của các hộ dân TĐC trên địa bàn các xã của KKT Dung
Quất năm 2010 (số hộ)
STT Vị trí các khu TĐC Số hộ
Từ 3-5 triệu đồng Từ 5-10 triệu đồng Trên 10 triệu đồng
Trước
TĐC Sau TĐC
Trước
TĐC Sau TĐC
Trước
TĐC Sau TĐC
1 Xã Bình Thạnh 225 0 1 20 52 205 172
2 Xã Bình Chánh 27 0 2 2 10 25 15
3 Xã Bình Đông 29 0 4 5 9 24 16
4 Xã Bình Thuận 64 0 3 8 17 56 44
5 Xã Bình Hải 17 0 2 5 7 12 8
6 Xã Bình Trị 121 11 24 28 45 82 52
7 Xã Bình Hòa 6 0 1 0 1 6 4
Tổng số 489 11 37 68 141 410 311
(Nguồn: Điều tra thực tế)
PHẠM VIẾT HỒNG - ĐẶNG THỊ MAI TRÂM
114
Sự thay đổi điều kiện hoạt động kinh tế đã làm thay đổi cơ bản nguồn thu nhập của các
hộ gia đình TĐC. Số hộ thu nhập thấp dưới 10 triệu đồng/năm tăng nhiều so với trước
TĐC, ngược lại, số hộ thu nhập trên 10 triệu đồng giảm mạnh. Sự thay đổi này cho thấy
sau khi TĐC, hoạt động kinh tế của bộ phận dân cư này bị biến động mạnh. Thực chất
của hiện tượng tăng số lượng các hộ có thu nhập dưới 10 triệu đồng chủ yếu là do tác
động của xu hướng tăng trưởng kinh tế của cả nước và khu vực và một phần do lạm
phát. Nguồn thu nhập của nhóm hộ này chủ yếu nhờ tham gia làm việc thêm trong các
dự án xây dựng công nghiệp ở Dung Quất. Nguồn thu nhập này không ổn định, có tính
chất vụ việc. Do vậy, tuy giá trị thu nhập tăng nhưng đời sống không được cải thiện và
gặp nhiều khó khăn hơn. Điều đáng quan tâm là số lượng hộ có thu nhập trên 10 triệu
đồng giảm mạnh. Đây là những hộ đóng vai trò “đầu kéo” đối với phát triển kinh tế
nông thôn vì thu nhập cao là nhân tố quan trọng để thực hiện tái sản xuất mở rộng và
sản xuất hàng hóa, thực hiện phân công lao động xã hội [1].
1.2. Nhà ở và một số phương tiện, vật dụng chủ yếu của các hộ dân TĐC
Nhà ở của 489 hộ được điều tra có 115 nhà kiên cố, 332 bán kiên cố, 42 nhà tạm. So với
trước khi di dời, nhà ở của các hộ dân tại các khu TĐC khang trang hơn, phần nhiều đã
xây dựng nhà đạt chuẩn cấp IV, mỗi nhà đều có nhà vệ sinh riêng. Một số hộ đã xây dựng
được nhà cấp III.
Bảng 2. Một số phương tiện, vật dụng chủ yếu của các hộ dân TĐC trên địa bàn các xã của
KKT Dung Quất 2010
STT Vị trí các khu TĐC Số hộ Xe máy Ti vi Số lượng % Số lượng %
1 Xã Bình Thạnh 225 159 70,67 186 82,67
2 Xã Bình Chánh 27 21 77,78 19 70,37
3 Xã Bình Đông 29 22 75,86 23 79,31
4 Xã Bình Thuận 64 44 68,75 51 79,69
5 Xã Bình Hải 17 12 70,58 14 82,35
6 Xã Bình Trị 121 89 73,55 87 71,90
7 Xã Bình Hòa 6 4 66,67 5 83,3
(Nguồn: Điều tra thực tế)
Nhìn chung số lượng ti vi và xe máy ở các khu TĐC có được chiếm khoảng 2/3 số hộ
trong mỗi khu. Phần lớn phương tiện, đồ dùng sinh hoạt đều được trang bị nhờ nguồn
kinh phí đền bù giải tỏa. Theo kế hoạch di dân, các dự án đều có dự toán vốn để khôi
phục hoặc hình thành sinh kế mới cho hộ gia đình TĐC nhưng do hạn chế về trình độ
nên phần lớn nguồn vốn này được sử dụng cho sinh hoạt. Do vậy, hầu hết các hộ TĐC
có được một nơi ở khang trang hơn, phương tiện sinh hoạt tốt hơn nhưng tâm lý của
người dân ở các khu TĐC hiện nay còn lo lắng do chưa có sinh kế ổn định. Sản xuất
nông nghiệp gặp khó khăn vì diện tích đất ít, độ phì nhiêu thấp. Các chủ hộ có nhu cầu
chuyển đổi ngành nghề nhưng gặp khó khăn về trình độ, vốn, kinh nghiệm quản lý. Để
đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội bền vững cho các khu TĐC, vấn đề hình thành sinh
kế cho các hộ gia đình, tạo việc làm cho người lao động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG NGƯỜI DÂN TÁI ĐỊNH CƯ...
115
Cần phải có những giải pháp thiết thực để phát triển kinh tế cho các hộ dân trong các
khu TĐC hiện nay một cách hiệu quả [3].
1.3. Tình hình đời sống nhân dân ở các khu TĐC
Bảng 3. Mức sống của các hộ dân TĐC ở nơi mới so với nơi cũ năm 2010
STT Vị trí các khu TĐC Số hộ
So với nơi ở cũ
Tốt hơn % Như cũ % Kém hơn %
1 Xã Bình Thạnh 225 14 6,22 54 24 157 69,79
2 Xã Bình Chánh 27 5 18,52 7 25,93 15 55,55
3 Xã Bình Đông 29 4 13,78 7 24,12 18 62,1
4 Xã Bình Thuận 64 40 62,5 17 26,56 7 10,94
5 Xã Bình Hải 17 4 23,52 5 29,41 8 27,06
6 Xã Bình Trị 121 21 17,35 55 42,45 45 37,2
7 Xã Bình Hòa 6 1 16,67 2 33,33 3 50
(Nguồn: Điều tra thực tế)
TĐC là đảm bảo tổ chức cho các hộ dân có cuộc sống tốt hơn hoặc tối thiểu là bằng nơi
ở cũ nhưng ở đây hơn một nữa số dân có cuộc sống tại nơi ở mới kém hơn nơi ở cũ, như
vậy công tác TĐC trên địa bàn KKT Dung Quất hiện nay chưa đảm bảo được nguyên
tắc TĐC. Nguyên nhân của hiện tượng đa số không hài lòng với nơi ở mới là do sinh kế
của các hộ TĐC chưa đảm bảo. Sự phân hóa về mức độ hài lòng về cuộc sống mới phân
hóa rõ rệt. Nhóm chủ hộ và lao động trẻ có mức độ hài lòng cao hơn vì họ đã tận dụng
các cơ hội từ KKT Dung Quất và sử dụng hợp lý nguồn vốn hỗ trợ tái định cư để nhanh
chóng hình thành được sinh kế mới. Nhóm chủ hộ trên 45 tuổi gặp nhiều khó khăn hơn,
đặc biệt đối với những hộ trước đây sinh sống chủ yếu bằng nghề nông [2].
2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG DÂN CƯ CÁC KHU
TĐC THUỘC KKT DUNG QUẤT
2.1. Đào tạo ngành nghề chuyên môn kỹ thuật cho người lao động
- Hình thành và phát triển các khu thực nghiệm và tập huấn nghề cho nông dân:
chuyển tải những thông tin kỹ thuật về nuôi trồng - chế biến thủy sản và sản xuất
nông nghiệp cho người dân và “cầm tay chỉ việc” tạo nghề thành thạo cho nông
dân chuyển dần phát triển theo hướng đào tạo nghề công nhân nông nghiệp.
- Có cơ chế, chính sách ưu tiên thu hút số lao động trẻ và con cái của các hộ thuộc diện
di dời – TĐC vào học ở các trung tâm dạy nghề, các trường Cao đẳng, Đại học; đồng
thời phải thực hiện bố trí việc làm cho các đối tượng này tại các cơ sở công nghiệp –
dịch vụ trên địa bàn Khu kinh tế Dung Quất sau khi tốt nghiệp ra trường.
- Mở rộng các cơ sở dạy nghề, truyền nghề, chương trình đào tạo phù hợp về văn
hóa, chuyên môn nghiệp vụ, kỹ thuật gắn liền với giải quyết việc làm cho lực lượng
lao động nông nghiệp thuộc diện di dời – TĐC và cho người lao động trong các cơ
sở công nghiệp nông thôn; đồng thời đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ cán
bộ, công nhân để trở thành đội ngũ cán bộ, công nhân có trình độ kỹ thuật cao.
PHẠM VIẾT HỒNG - ĐẶNG THỊ MAI TRÂM
116
2.2. Giải pháp tạo việc làm tại chỗ bằng các chương trình khuyến nông, khuyến
lâm, khuyến ngư và phát triển dịch vụ thương mại
- Khuyến nông: Đối với các khu TĐC sử dụng đất nông nghiệp mới cần phải cung
cấp thông tin về đặc điểm đất, nước và một số mô hình sản xuất nông nghiệp hiệu
quả như:
+ Mô hình nuôi heo hướng nạc, tập trung phát triển ở vùng đệm KKT Dung Quất.
+ Mô hình nuôi các loại đặc sản: heo ky, nhím, thỏ, nhông...
+ Mô hình nuôi gà thả vườn (gà ta, gà công nghiệp), tận dụng vườn rừng và vườn
cây ăn quả.
+ Mô hình sản xuất rau theo hướng an toàn trái vụ hiệu quả kinh tế cao. Mô hình
sản xuất rau an toàn tập trung trong nhà lưới và ngoài trời.
+ Mô hình trồng cỏ phục vụ chăn nuôi phổ biến các loại cỏ voi, cỏ họ đậu (cỏ
Stylo), cỏ giống mới VA06, chuyển diện tích trồng lúa và vườn tạp để trồng cỏ
chăn nuôi.
+ Mô hình trồng cây ăn quả: dưa hấu, sầu riêng, măng cụt, bưởi xen sầu riêng,
chôm chôm... tập trung tại vùng Bình Trị, Bình Hải, Bình Hòa. Phát triển mô
hình trên các vùng đất gò đồi, đồng thời phát triển theo hướng du lịch vườn
sinh thái.
Trên cơ sở đó hình thành các vùng chuyên canh rau, hoa quả, cây cảnh ở Bình Trị,
Bình Thạnh, áp dụng công nghệ sản xuất của Đà Lạt hoặc công nghệ nước ngoài
(tùy theo khả năng đầu tư); hình thành siêu thị rau, hoa, thực phẩm sạch; vùng sản
xuất nông nghiệp tổng hợp khép kín phục vụ cho sự phát triển của KKT Dung Quất.
- Khuyến ngư: Ứng dụng công nghệ sinh học trong nuôi trồng, chế biến và sản xuất
giống (nuôi cá chình, lươn, ếch, ba ba, cá bống tượng, cá thác lát, cá lóc) ở các
khu TĐC.
- Phát triển dịch vụ thương mại: Ngoài các điểm dịch vụ tổng hợp đã được quy hoạch
tại các xã Bình Trị, Bình Hải, Bình Đông... đồng thời trong quy hoạch các vùng
TĐC cần phải có quy hoạch chợ, khu dịch vụ thích hợp với quy mô từng vùng TĐC
để tạo điều kiện cho lao động thuộc diện di dời thiếu việc làm chuyển sang hoạt
động thương mại – dịch vụ.
2.3. Giải pháp về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn vốn ở các khu TĐC
- Cơ sở hạ tầng:
+ Giáo dục: Nhanh chóng hoàn thiện các cơ sở trường lớp đúng như trong hạng
mục đã thiết kế của dự án. Có các chính sách hỗ trợ về giáo dục cho người
ngoài độ tuổi lao động thuộc diện nghèo, hỗ trợ cho con em thuộc diện hộ
nghèo được đến trường.
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG NGƯỜI DÂN TÁI ĐỊNH CƯ...
117
+ Y tế: Đầu tư toàn diện cơ sở vật chất cho các trạm y tế xã, khu vực TĐC; đảm
bảo số lượng y bác sỹ tại các trạm; đào tạo đội ngũ y, bác sỹ về làm việc tại các
cơ sở y tế. Thực hiện lồng ghép với “Đề án nâng cấp trạm y tế và đầu tư cho
các trung tâm giáo dục sức khỏe” để đẩy mạnh các hoạt động xã hội hóa chăm
sóc sức khỏe tại cộng đồng.
+ Bưu chính, viễn thông: Các doanh nghiệp viễn thông cần cung cấp các dịch vụ
đơn giản, dễ sử dụng và hữu ích cho người dân nông thôn; hỗ trợ phát triển, ứng
dụng các công nghệ mới cho nông thôn; khuyến khích mọi thành phần kinh tế,
cá nhân trong việc xây dựng, phát triển dịch vụ, thông tin cho nông thôn.
- Về cơ sở vật chất kỹ thuật:
+ Đầu tư phát triển giao thông vận tải gắn liền với phát triển thương mại – dịch
vụ. Hoàn thiện, nâng cấp các tuyến đường, hệ thống điện, nước trong các khu
TĐC trên địa bàn KKT Dung Quất.
+ Xây dựng các trụ phát thanh tại các khu TĐC để người dân nắm bắt những
thông tin liên quan một cách kịp thời.
+ Đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở phục vụ cho ngành chế biến thủy sản; đảm bảo
thị trường ổn định cho sản phẩm.
- Về nguồn vốn:
+ Chủ động bố trí các chi nhánh giao dịch tại Khu kinh tế Dung Quất nhằm đáp
ứng kịp thời nhu cầu vốn, mở rộng các dịch vụ tài chính phục vụ sản xuất kinh
doanh.
+ Xúc tiến đầu tư các mô hình thí điểm đánh giá nhân rộng mô hình Quỹ tín
dụng ở các địa phương.
+ Phối hợp chặt chẽ với các tổ chức đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội tổ
chức triển khai cho vay hộ gia đình để đầu tư sản xuất thông qua các Tổ vay
vốn theo văn bản liên tịch giữa Ngân hàng và các hội đoàn thể.
3. KẾT LUẬN
Giải quyết việc làm, ổn định và nâng cao chất lượng cuộc sống cho lao động bị thu hồi
đất, mặt nước sản xuất tại các khu tái định cư trên địa bàn Khu Kinh tế Dung Quất là
vấn đề mang tính kinh tế - xã hội lớn. Bên cạnh các giải pháp cấp thiết cho phát triển
kinh tế để người dân thuộc diện di dời TĐC nhanh chóng ổn định cuộc sống, đồng thời
còn phải giải quyết các vấn đề về mặt an sinh xã hội, môi trường (sinh hoạt sinh động,
thân thiện; sinh thái xanh - sạch - đẹp, đa dạng)... Sự kết hợp các giải pháp nâng cao
chất lượng cuộc sống không những tạo cơ sở vững chắc để phát triển các khu TĐC một
cách toàn diện mà còn góp phần phát triển Khu kinh tế Dung Quất.
PHẠM VIẾT HỒNG - ĐẶNG THỊ MAI TRÂM
118
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ban quản lý KKT Dung Quất (2009). Báo cáo “Tình hình giải quyết việc làm, tạo quỹ
sản xuất và xây dựng cơ sở hạ tầng các khu tái định cư trong Khu kinh tế Dung
Quất”. Quảng Ngãi.
[2] Ban quản lý KKT Dung Quất (2009). Đề án TĐC phát triển bền vững trong KKT
Dung Quất – Quảng Ngãi. Quảng Ngãi.
[3] Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Ngãi (2009). Điều chỉnh, bổ sung quy
hoạch bố trí dân cư trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, giai đoạn 2008-2010, định hướng
đến năm 2015. Báo cáo tóm tắt thuyết minh đề tài, Quảng Ngãi.
[4] Ủy Ban Nhân dân huyện Bình Sơn - Quảng Ngãi (2009). Báo cáo “Kết quả thực hiện
công tác chi trả hỗ trợ an sinh xã hội cho các hộ dân di dời, nhường đất để thực hiện
dự án Nhà máy lọc dầu Dung Quất”. Quảng Ngãi.
Title: SOLUTIONS FOR IMPROVING QUALITY OF LIFE PEOPLE RESETTLEMENT IN
DUNG QUAT ECONOMIC ZONE, QUANG NGAI
Abstract: The project on migrant resettlement in Dung Quat Economic Zone has carried on for
more than 10 years but the problem of economic development in the resettlement area is
unescaped. There currently exist many problems - economic and social problems, such as
unemployment, resettlement. So, solutions to raise the living standards for the resettled
households of the area of Dung Quat Economic Zone should be proposed.
TS. PHẠM VIẾT HỒNG
Khoa Địa lý, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế
ĐẶNG THỊ MAI TRÂM
Học viên Cao học, Trường Đại Sư phạm - Đại học Huế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 17_259_phamviethong_dangthimaitram_18_pham_viet_hong_1873_2021044.pdf