4. Các di tích lịch sử khác
- Núi Cột Cờ. Phía đông thành có núi Cột
Cờ là nơi treo quốc kỳ Đại Cồ Việt, có
ghềnh tháp là nơi Đinh Tiên Hoàng duyệt
thủy quân, có hang Tiền - nơi cất giữ tài sản
quốc gia, động Thiên Tôn - tiền đồn của Hoa
Lư và hang nhốt hổ, báo để xử người có tội.
- Sông Sào Khê. Sông Sào Khê là dòng
sông nhỏ, nhánh của sông Hoàng Long, nằm
uốn lượn trong khu di tích. Sông Sào Khê là
cửa ngõ đường thủy từ Cố đô Hoa Lư.
- Đền thờ Công chúa Phất Kim. Đinh
Tiên Hoàng có ba con gái là Phất Kim,
Minh Châu và Phất Ngân. Ngô Nhật Khánh
vốn là con cháu của Ngô Quyền. Đinh Tiên
Hoàng vì "sợ sinh biến". nên gả Phất Kim
cho Ngô Nhật Khánh. Nhưng Ngô Nhật
Khánh không thần phục Đinh Tiên Hoàng
nên: "bên ngoài thì nói cười như không, mà
trong bụng vẫn bất bình, mới đem vợ chạy
sang Chiêm Thành, khi đến cửa Nam Giới,
lấy gươm xẻo má vợ rồi bỏ đi"10. Ngô Nhật
Khánh đã trốn vào Chiêm Thành cầu viện
Chiêm Thành để đánh lại Đinh Tiên Hoàng.
Công chúa Phất Kim được đưa về kinh
thành Hoa Lư và ra ở lầu Vọng Nguyệt ở
phía Tây Bắc kinh thành. Uất ức và phẩn nộ
trước việc làm của Ngô Nhật Khánh, bà đã
nhảy xuống giếng nước lầu Vọng Nguyệt tự
vẫn. Đền thờ Phất Kim là một ngôi đền cổ,
được xây dựng ngay trên nền của lầu Vọng
Nguyệt. Chiếc giếng bà nhảy xuống tự vẫn
đến nay vẫn còn trước của đền.
Ngoài ra, Cố đô Hoa Lư còn có cả loạt
các giá trị lịch sử và văn hóa khác đang
được gìn giữ và phát huy tác dụng.
Tồn tại 42 năm với 6 vị vua của 3 triều
được ghi tên trong sử sách, Hoa Lư là kinh
đô của nhà nước Đại Cồ Việt ở thế kỷ X.
Đây từng là một thành trì quân sự, một trung
tâm văn hóa lớn, là nơi sản sinh nghệ thuật
sân khấu chèo. Kinh đô Hoa Lư dù chỉ tồn
tại trong non nửa thể kỷ, nhưng có một vai
trò lịch sử đặc biệt. Nó không chỉ là Kinh đô
của đất nước ở thế kỷ X do người Việt thiết
kế và xây dựng, còn là nơi Đinh Bộ Lĩnh:
“lên ngôi, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Bầy
tôi dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng
Đế”11. là người đầu tiên vị hoàng đế đầu
tiên của nước Việt thống nhất đã xây dựng
kinh đô Hoa Lư dựa trên địa thế hiểm trở,
tận dụng điều kiện tự nhiên với các vách núi
đá vôi và hệ thống sông ngòi làm thành
quách, tạo một “quân thành” phòng ngự
vững chắc, phù hợp với bối cảnh lịch sử của
buổi đầu lập quốc. Và cũng tại đây Lê Hoàn
lên Ngôi vua và chỉ huy quân dân cả nước
đánh bại cuộc xâm lược của nhà Tống vào
năm 981, kế tục sự nghiệp của Đinh Tiên
Hoàng xây dựng và bảo vệ quốc gia độc lập
tự chủ.
Cố đô Hoa Lư có một giá trị lịch sử đặc
biệt quan trọng không chỉ riêng của Ninh
Bình mà còn của cả nước.
Những giá trị lịch sử của Cố đô Hoa Lư
đã tạo nên các giá trị lịch sử vô giá cho khu
du lịch sinh thái Trường An và chính khu du
lịch đó sẽ góp phần không nhỏ để những giá
trị lịch sử của Cố đô Hoa Lư trở thành sức
mạnh vật chất trong thời kỳ đổi mới, phát
triển và hội nhập
6 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 586 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị lịch sử của cố đô Hoa Lư - Hà Mạnh Khoa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CỦA CỐ ĐÔ HOA LƯ
HÀ MẠNH KHOA*
*Năm 938, sau khi đánh tan quân Nam
Hán, Ngô Quyền xưng “vương” và chọn Cổ
Loa làm kinh đô. Định đô ở Cổ Loa, có vị trí
địa lý, điều kiện tự nhiên, địa hình thuận lợi
và nhất là trường thành “lòng dân” của vùng
đất “thiêng” này, Ngô Vương Quyền không
chỉ tận dụng những thành quả của quá khứ,
công sức xây dựng của các thế hệ trước mà
thể hiện một tinh thần cảnh giác cao độ,
khẳng định việc trở về với cội nguồn của
dân tộc, kinh đô của nhà nước độc lập tự chủ
của người Việt.
Từ những bài học xây dựng đất nước,
nhất là việc chọn đất dựng kinh đô của Ngô
Quyền, năm 968, sau khi “đại định thiên
hạ”, non sông thu về một mối, Đinh Bộ
Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, lập nên triều đại
nhà Đinh, đặt tên nước là Đại Cồ Việt và
quyết định lập Kinh đô ở Hoa Lư. Đây là
một bước tiến quan trọng, một sự chuyển
biến về chất về lịch sử đất nước và dân tộc
ta ở thế kỷ X. Sách “Đại Việt sử ký toàn
thư” chép về việc Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi và
định đô như sau: "Mậu Thìn, năm thứ 1
(968) ( Tống Khai Bảo năm thứ 1). Vua lên
ngôi, đặt quốc hiệ là Đại Cồ Việt, dời king
ấp về động Hoa Lư, bắt đầu dựng đô mới,
đắp thành đào hào, xây cung điện, đặt triều
nghi. Bầy tôi dâng tôn hiệu là Đại Thắng
Minh Hoàng Đế" 1.
Từ đây, Hoa Lư trở thành kinh đô của
nước Đại Cồ Việt và đến năm 1010 khi Lý
Thái tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long,
nhưng hơn một nghìn năm qua Cố đô Hoa
Lư vẫn còn nguyên giá trị lịch sử của nó.
* TS. Viện Sử học.
1. Hoa Lư - Kinh đô của nước ta trong
thế kỷ X
Đinh Tiên Hoàng sinh năm Giáp Tý
(924)2, quê ở thôn Kim Lư, làng Đại Hữu,
châu Đại Hoàng (nay là thôn Văn Bồng, xã
Gia Phương, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh
Bình), bố là Đinh Công Trứ, mẹ là Đàm
thị3. Theo sử liệu thì Đinh Công Trứ là
người giữ nhiều chức vụ cao trong bộ máy
chính quyền dưới thời Dương Đình Nghệ
và Ngô Quyền.
Sau khi dẹp xong các “sứ quân”, thống
nhất đất nước, trước khi lên ngôi, Đinh Tiên
Hoàng đã định chọn Đàm Thôn là quê ngoại
(nay thuộc xã Điền Xá, huyện Gia Viễn, tỉnh
Ninh Bình) làm nơi đặt kinh đô. Trải qua
những tháng năm tiến hành chinh phục các
sứ quân, thu giang sơn về một mối, thấy rõ
“vị trí đó chật hẹp, không có lợi cho việc đặt
hiểm”4, nên Đinh Tiên Hoàng đã quyết định
chọn Hoa Lư làm kinh đô của vương triều.
Khác với Ngô Quyền chọn Cổ Loa, Đinh
Tiên Hoàng đã chọn Hoa Lư làm Kinh đô:
"Hoa Lư là nơi núi non trùng điệp. Núi
trong sông, sông trong núi. Căn cứ thủy bộ
rất thuận tiện. Sau lưng là rừng, trước mặt
là đồng bằng, xa nữa là biển cả... Nơi đây
non sông tráng lệ, phong thủy hài hòa xứng
đáng chọn để dựng đô được". Hoa Lư không
chỉ là quê hương, căn cứ ban đầu của quá
trình “dẹp loạn” mà Hoa Lư còn chứa đựng
nhiều lợi thế cho một nhà nước quân chủ
mới được thành lập, đáp ứng các nhu cầu
của lịch sử lúc bấy giờ là “phòng thủ và xây
dựng đất nước”.
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2012
42
Hoa Lư là kinh đô của nước Việt Nam từ
năm 968 đến năm 1010. Kinh đô Hoa Lư tồn
tại được 42 năm, trong đó 12 năm đầu là
triều Đinh (968 - 980), 29 năm kế tiếp là
triều Tiền Lê (980 - 1009) và 1 năm (1009 -
1010) là triều Lý.
Năm 1010 vua Lý Thái Tổ dời kinh đô từ
Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng Long (Hà
Nội), Hoa Lư trở thành Cố đô. Đây là kinh
đô có một quy mô lớn do chính người Việt
tự thiết kế và tổ chức xây dựng. Nó khẳng
định lòng dũng cảm, trí thông minh sáng tạo
và ý thức độc lập tự chủ của người Việt ở
thế kỷ X.
2. Một công trình kiến trúc thành lũy
vĩ đại
Các triều vua Đinh và vua Lê đã dựa theo
địa hình tự nhiên cho đắp 10 đoạn tường
thành nối các núi đá, dựng nên thành Hoa
Lư với diện tích hơn 300 ha. Tại đây, nhà
Đinh và nhà Lê đã cho xây cung điện, đặt
triều nghi, đắp thành, đào hào, dựa vào thế
núi xây dựng một công trình phòng ngự kiên
cố như một pháo đài hiểm, biệt lập với bên
ngoài. Kinh đô Hoa Lư được bao quanh bởi
hàng loạt núi đá vòng cung, cảnh quan hùng
vĩ. Khoảng trống giữa các sườn núi được
xây kín bằng đất ken gạch, chân thành có
gạch bó, đắp cao từ 8-10 m, hiện vẫn còn
dấu vết của nhiều đoạn tường thành
Vua Đinh Tiên Hoàng đã biết khai thác
triệt để thiên nhiên phục vụ cho con người.
Lối kiến trúc này tiết kiệm tối đa sức người
sức của. Có thể nói, kinh đô Hoa Lư là một
quân thành vững chắc do thiên nhiên và con
người làm nên. Phía Bắc thành nằm bên
sông Hoàng Long nên đường giao thông
thủy rất thuận tiện. Khu vực Thành Ngoại,
nay thuộc địa phận thôn Yên Thượng, Yên
Thành, xã Trường Yên, là cung điện chính,
nơi vua Đinh cắm cờ nước, hiện là đền thờ
vua Đinh, vua Lê. Trước cung điện có núi
Mã Yên, tương truyền, vua Đinh Tiên
Hoàng lấy núi này làm án. Khu Thành Nội
rộng hơn, ăn thông với Thành Ngoại bằng
một ngách núi, gọi là Quèn Vòng với những
cầu Đông, cầu Rền... làm bằng đá, là nơi
nuôi trẻ em và kho chứa. Bên ngoài thành có
nhiều trạm gác bảo vệ. Kinh thành nằm giữa
những quả núi lớn bao bọc xung quanh,
mang nặng tính chất quân sự, vị trí kín đáo,
thuận lợi cho việc phòng thủ, tiến công, lại
xa biên thùy, phương Bắc khó có thể mở
những đợt tấn công chớp nhoáng.
Phía Đông Bắc thành Hoa Lư có núi Cột
Cờ, là nơi vua Đinh cắm cờ nước Đại Cồ
Việt, sát đó là địa điểm vua thường chỉ huy
các cuộc tập dượt thủy quân trên sông Sào
Khê. Phía Đông Nam khu thành Ngoại còn
có động Am Tiên trên lưng chừng núi là nơi
vua Đinh nuôi nhốt hổ báo và dưới chân núi
là Ao Giải (nơi nuôi giải) để răn đe và trừng
phạt những kẻ có tội. Ngoài ra còn có hang
Muối, hang Tiền... là nơi vua cất giữ lương
thực, ngân khố...
Tất cả núi sông và khu vực thành cổ nhấp
nhô do thiên tạo và nhân tạo, giống như một
vịnh Hạ Long trên cạn đã hình thành một
quần thể kiến trúc trang nghiêm, đồ sộ,
khoáng đạt mà không một kinh đô cổ nào có
được.
Kinh đô Hoa Lư chủ yếu thuộc địa phận
xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh
Bình ngày nay, có diện tích khoảng 300 ha
được bao quanh bởi hàng loạt núi đá vòng
cung, cảnh quan hùng vĩ. Đây là vùng đồng
chiêm trũng, núi non hiểm trở. Đường giao
thông chủ yếu từ Hoa Lư ra Bắc vào Nam là
giao thông đường thuỷ mà sông Hoàng Long
là huyết mạch. Từ sông Hoàng Long thông
với sông Đáy. Sông Đáy như là một “con
hào” tự nhiên che chở phía Bắc cho kinh đô
đồng thời lại là con đường thuận tiện để
thông với sông Vân Sàng đi vào “cửa Thần
Giá trị lịch sử của Cố đô Hoa Lư 43
Đầu”5 đến vùng Châu Ái. Hoa Lư có địa thế
ba mặt Đông, Tây, Nam có núi bao bọc,
phía Đông Bắc và phía Bắc có sông Hoàng
Long tạo nên bức trường thành núi sông che
chở. Vào thời điểm đó, Hoa Lư được Đinh
Bộ Lĩnh chọn làm nơi định đô không chỉ là
nơi dấy nghiệp thành công mà còn là một
địa điểm an toàn sau quá trình “dẹp loạn”,
bắt tay vào xây dựng một vương triều mới
của một quốc gia thống nhất.
Bao quanh Hoa Lư có nhiều núi non, với
tầm nhìn của một thủ lĩnh quân sự, Đinh
Tiên Hoàng đã triệt để lợi dụng địa thế tự
nhiên để xây thành, đắp lũy, tiến hành cho
đào đắp nối liền các khoảng trống giữa các
núi thành một hệ thống thành khép kín.
Khoảng trống giữa các sườn núi được xây
kín bằng đất ken gạch, chân thành có gạch
bó, đắp cao từ 8-10 mét. Vì thế thành Hoa
Lư không có hình dáng cân đối, vuông vức,
chất “quân sự” nổi lên hàng đầu nhưng vẫn
đảm bảo là trung tâm chính trị, văn hóa.
Kinh đô Hoa Lư bao gồm thành Ngoại và
thành Nội6.
Thành Ngoại rộng khoảng 140 ha thuộc địa
phận các thôn Yên Thượng, Yên Thành, xã
Trường Yên có 5 đoạn tường thành nối các dãy
núi tạo nên vòng thành khép kín. Ðây là cung
điện chính mà khu vực đền Ðinh, đền Lê nằm
ở trung tâm. Trước cung điện có núi Mã Yên
tương truyền vua Ðinh lấy núi làm án.
Thành Nội có diện tích tương đương
thành Ngoại, thuộc thôn Chi Phong, xã
Trường Yên có tên là Thư Nhi xã. Trong
thành có nơi nuôi trẻ em và những người
giúp việc trong cung đình. Thành nội cũng
có 5 đoạn tường thành nối liền các dãy núi.
Việc qua lại giữa hai tòa thành rất thuận
tiện. Cả hai thành đều lợi dụng được nhánh
sông Hoàng Long chảy dọc thành, vừa là
hào nước tự nhiên, vừa là đường thủy, phục
vụ việc di chuyển ra vào thành. Trong hai
tòa thành có bố trí các khu triều đình, quan
lại và quân lính. Hai thành này được ngăn
cách với nhau bằng một lối đi tương đối
hiểm trở gọi là Quèn Vòng.
Kinh đô Hoa Lư do Đinh Tiên Hoàng tổ
chức xây dựng là một công trình kiến trúc
lớn nhất của đất nước sau ngàn năm Bắc
thuộc. Từ đây, bộ máy chính quyền của nhà
nước độc lập tự chủ do Đinh Tiên Hoàng
đứng đầu đã thực hiện tốt chủ quyền của
quốc gia và dân tộc.
Phía Nam kinh thành có núi cao bao bọc
xung quanh, bảo vệ mặt sau thành, từ đây có
thể nhanh chóng rút ra ngoài bằng đường
thủy. Đây chính là hệ thống hang động của
khu sinh thái Tràng An hiện tại.
Đến đời Tiền Lê, sau cuộc kháng chiến
chống Tống lần thứ nhất (981) vua Lê Đại
Hành cho xây dựng thêm nhiều cung điện
lộng lẫy. Đại Việt sử ký toàn thư có ghi:
"Năm Giáp Thân thứ 5 (984): dựng nhiều
cung điện, làm điện Bách Bảo Thiên tuế ở
núi Đại Vân, cột điện dát vàng, bạc, làm nơi
coi chầu; bên đông là điện Phong Lưu, bên
tây là điện Tử Hoa, bên tả là điện Bồng Lai,
bên hữu là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại
Vân, rồi lại dựng điện Trường Xuân làm nơi
vua nghỉ, bên cạnh điện Trường Xuân dựng
điện Long Lộc lợp bằng ngói bạc"7.
Tại kinh đô Hoa Lư người ta đã phát hiện
khá nhiều di vật. Những viên gạch hoa
vuông, hoa văn trang trí đẹp được phát hiện
trên sân cung điện. Ngoài ra người ta còn
phát hiện những viên gạch quý hình chữ chữ
nhật có ghi những dòng chữ “Đại Việt quốc
quân thành chuyên”, “Giang Tây quân”8...
Ngoài ra còn thấy cả gạch trang trí hình hoa
sen cách điệu và hình chim phượng, vịt và
các tượng bằng đất nung, nhiều cọc gỗ lớn
nhỏ; bậc thềm tam cấp được lát bằng gạch,
ngói ống, lò bát đĩa, chân đèn, đĩa đènVào
năm 1963, ngành Khảo cổ học còn phát hiện
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2012
44
ở đây một số di vật quý là một cột bằng đá
có 8 cạnh, dài khoảng 80cm, trên khắc kinh
Phật và có khắc dòng chữ “Đệ tử Tĩnh Hải
quân Tiết độ sứ Nam Việt vương Đinh Liễn
kinh tạo bảo tràng nhất bách toà, Quý Dậu
tuế” (nghĩa là: Đệ tử của Phật là Nam Việt
vương Đinh Liễn kính dâng 100 cột kinh
Phật năm Quý Dậu (973)9. Sau đó hơn 20
năm sau (1986) còn phát hiện thêm 14 cột
kinh Phật nữa cũng có nội dung như trên.
Với những di vật tìm thấy trong lòng đất tại
kinh đô Hoa Lư chứng tỏ văn hóa phi vật thể
dưới thời Đinh rất đa dạng, phong phú và đã
đạt đến một trình độ tương đối cao.
Suốt 42 năm tồn tại (968-1010), kinh đô
Hoa Lư là trung tâm chính trị, văn hóa của
nhà nước độc lập, tự chủ của nước ta ở thế
kỷ X. Đó cũng là nơi tạo thế và lực cho dân
tộc ta bước sang một thời kỳ phát triển rực
rỡ dưới các thời kỳ Lý - Trần trong các thế
kỷ tiếp theo.
3. Nơi gắn liền với sự nghiệp dựng nước
giữ nước và yên nghỉ vĩnh hằng của vua
Đinh, vua Lê
3.1. Núi Mã Yên và lăng mộ vua Đinh,
vua Lê
Ngay trước đền Đinh là núi Mã Yên. Tên
núi Mã Yên vì trông xa núi có hình yên
ngựa. Trên đỉnh Mã Yên Sơn là lăng mộ vua
Đinh. Đứng ở lăng vua Đinh Lê trên núi có
thể nhìn rõ toàn cảnh cố đô Hoa Lư với dãy
núi Rù bao quanh đền hai vua, rặng Phi Vân,
núi Kiến, núi Cột Cờ. Lăng mộ Vua Đinh
Tiên Hoàng được đặt ở chính giữa núi, nơi
võng xuống thấp mà dân gian hình dung là
cái yên ngựa. Lăng xây bằng đá, có một bệ
thờ trên đặt một lư hương cũng bằng đá.
Trước lăng một tấm bia đá có đề chữ: "Đinh
triều, Tiên Hoàng đế chi lăng, Minh Mạng
nhị thập nhất niên ngũ nguyệt, sơ nhị nhật
phụng sắc kiến". Mặt sau bia cũng có đề
"Hàm Nghi nguyên niên cửu nguyệt, nhị
thập tứ nhật trùng tu tiên đế lăng". Qua bia
đá, người đời sau biết được lăng được xây
dựng từ năm Minh Mạng thứ 21 và đến năm
Hàm Nghi thứ nhất (1885) được trùng tu lại.
Lăng mộ Vua Lê Đại Hành nằm dưới
chân núi Mã Yên quay về hướng Nam. Hai
bên lăng có hai quả núi mà theo các nhà
phong thủy cho là "Long chầu, hổ phục".
Lăng cũng được xây bằng đá như lăng vua
Đinh. Trước lăng cũng có bia dựng từ đời
Minh Mạng.
Lăng vua Đinh Tiên Hoàng và lăng vua
Lê Đại hành được xây từ năm 1840 (đời
Minh Mạng thứ 21) và trùng tu vào năm
Hàm Nghi thứ nhất (1885).
2.2. Đền thờ vua Đinh, vua Lê
- Đền thờ Đinh Tiên Hoàng ở làng
Trường Yên Thượng, xã Trường Yên, huyện
Hoa Lư trên khuôn viên rộng 5ha, thuộc khu
di tích lịch sử văn hoá cố đô Hoa Lư. Đền
quay về hướng Đông, trước mặt đền là núi
Mã Yên.
Đền được xây dựng vào khoảng thế kỷ
thứ 17, theo kiểu "nội công ngoại quốc".
Đền Đinh Tiên Hoàng là một kiến trúc độc
đáo trong nghệ thuật chạm khắc gỗ của các
nghệ sĩ dân gian Việt Nam ở thế kỷ 17 - 19.
Đền vua Đinh là công trình nghệ thuật
đặc sắc trong quần thể lịch sử - văn hóa của
Cố đô Hoa Lư với hàng nghìn cổ vật quý
hiếm đang được bảo tồn, như gạch xây cung
điện có khắc chữ Đại Việt quốc quân thành
chuyên, cột kinh Phật khắc chữ Phạn, các
bài bia ký...
- Đền vua Lê Đại Hành. Đền còn có tên
gọi là đền Hạ. Nằm cách đền vua Đinh 500
mét. Đền soi bóng xuống nhánh sông Hoàng
Long. Trước mặt đền là núi Đèn, sau lưng là
núi Đìa. Đền vua Lê qui mô nhỏ hơn đền
Giá trị lịch sử của Cố đô Hoa Lư 45
vua Đinh, nhưng cũng có ba toà: Bái
Đường, Thiên Hương, Chính Cung - thờ Lê
Hoàn, bên phải là Lê Long Đĩnh, bên trái là
hoàng hậu Dương Vân Nga. Nét độc đáo ở
đền thờ vua Lê Đại Hành là nghệ thuật chạm
gỗ thế kỷ XVII đã đạt đến trình độ điêu
luyện, tinh xảo.
Cùng với những di tích trên mặt đất, gần
đây các nhà khảo cổ học đã phát hiện và
khai quật dưới tầng đất giữa hai đền vua
Đinh, vua Lê vốn là nền cung điện cách đây
trên 1.000 năm nhiều hiện vật quý giá, minh
chứng cho những công trình kiến trúc của cố
đô Hoa Lư và trình độ phát triển về kiến
trúc, nghệ thuật, kinh tế, văn hóa xã hội của
dân tộc Việt thời bấy giờ.
4. Các di tích lịch sử khác
- Núi Cột Cờ. Phía đông thành có núi Cột
Cờ là nơi treo quốc kỳ Đại Cồ Việt, có
ghềnh tháp là nơi Đinh Tiên Hoàng duyệt
thủy quân, có hang Tiền - nơi cất giữ tài sản
quốc gia, động Thiên Tôn - tiền đồn của Hoa
Lư và hang nhốt hổ, báo để xử người có tội.
- Sông Sào Khê. Sông Sào Khê là dòng
sông nhỏ, nhánh của sông Hoàng Long, nằm
uốn lượn trong khu di tích. Sông Sào Khê là
cửa ngõ đường thủy từ Cố đô Hoa Lư.
- Đền thờ Công chúa Phất Kim. Đinh
Tiên Hoàng có ba con gái là Phất Kim,
Minh Châu và Phất Ngân. Ngô Nhật Khánh
vốn là con cháu của Ngô Quyền. Đinh Tiên
Hoàng vì "sợ sinh biến". nên gả Phất Kim
cho Ngô Nhật Khánh. Nhưng Ngô Nhật
Khánh không thần phục Đinh Tiên Hoàng
nên: "bên ngoài thì nói cười như không, mà
trong bụng vẫn bất bình, mới đem vợ chạy
sang Chiêm Thành, khi đến cửa Nam Giới,
lấy gươm xẻo má vợ rồi bỏ đi"10. Ngô Nhật
Khánh đã trốn vào Chiêm Thành cầu viện
Chiêm Thành để đánh lại Đinh Tiên Hoàng.
Công chúa Phất Kim được đưa về kinh
thành Hoa Lư và ra ở lầu Vọng Nguyệt ở
phía Tây Bắc kinh thành. Uất ức và phẩn nộ
trước việc làm của Ngô Nhật Khánh, bà đã
nhảy xuống giếng nước lầu Vọng Nguyệt tự
vẫn. Đền thờ Phất Kim là một ngôi đền cổ,
được xây dựng ngay trên nền của lầu Vọng
Nguyệt. Chiếc giếng bà nhảy xuống tự vẫn
đến nay vẫn còn trước của đền.
Ngoài ra, Cố đô Hoa Lư còn có cả loạt
các giá trị lịch sử và văn hóa khác đang
được gìn giữ và phát huy tác dụng.
Tồn tại 42 năm với 6 vị vua của 3 triều
được ghi tên trong sử sách, Hoa Lư là kinh
đô của nhà nước Đại Cồ Việt ở thế kỷ X.
Đây từng là một thành trì quân sự, một trung
tâm văn hóa lớn, là nơi sản sinh nghệ thuật
sân khấu chèo. Kinh đô Hoa Lư dù chỉ tồn
tại trong non nửa thể kỷ, nhưng có một vai
trò lịch sử đặc biệt. Nó không chỉ là Kinh đô
của đất nước ở thế kỷ X do người Việt thiết
kế và xây dựng, còn là nơi Đinh Bộ Lĩnh:
“lên ngôi, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Bầy
tôi dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng
Đế”11. là người đầu tiên vị hoàng đế đầu
tiên của nước Việt thống nhất đã xây dựng
kinh đô Hoa Lư dựa trên địa thế hiểm trở,
tận dụng điều kiện tự nhiên với các vách núi
đá vôi và hệ thống sông ngòi làm thành
quách, tạo một “quân thành” phòng ngự
vững chắc, phù hợp với bối cảnh lịch sử của
buổi đầu lập quốc. Và cũng tại đây Lê Hoàn
lên Ngôi vua và chỉ huy quân dân cả nước
đánh bại cuộc xâm lược của nhà Tống vào
năm 981, kế tục sự nghiệp của Đinh Tiên
Hoàng xây dựng và bảo vệ quốc gia độc lập
tự chủ.
Cố đô Hoa Lư có một giá trị lịch sử đặc
biệt quan trọng không chỉ riêng của Ninh
Bình mà còn của cả nước.
Những giá trị lịch sử của Cố đô Hoa Lư
đã tạo nên các giá trị lịch sử vô giá cho khu
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2012
46
du lịch sinh thái Trường An và chính khu du
lịch đó sẽ góp phần không nhỏ để những giá
trị lịch sử của Cố đô Hoa Lư trở thành sức
mạnh vật chất trong thời kỳ đổi mới, phát
triển và hội nhập.
___________________
Chú thích
1. Ngô Sĩ Liên, Lê Văn Hưu,... 1967. Đại Việt Sử ký
toàn thư, tập I, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.
154.
2. Vua bị giết hại mùa đông năm Kỷ Mão (979). Sử
cũ ghi rằng vua ở ngôi 12 năm, thọ 56 tuổi (âl)
(TT,CM), hoặc ở ngôi 11 năm thọ 55 tuổi (ĐVSL),
như vậy vua sinh năm Giáp Thân (924), hoặc năm
Ất Dậu (925).
3. Truyền thuyết dân gian cho rằng Đinh Bộ Lĩnh
sinh ra không có cha, gia đình rất nghèo khổ.
4. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, Sđd, tr. 154.
5. Thần Đầu sau có tên là Thần Phù, nay thuộc địa
phận hai huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá và Yên
Mô, tỉnh Ninh Bình. Là cửa ngõ giao thông đường
thuỷ quan trọng Bắc - Nam trong nhiều thế kỷ.
6. Theo kết quả nghiên cứu của Viện Khảo cổ, Viện
KHXH Việt Nam và tài liệu điều tra của Ban quản lý
Di tích Danh thắng tỉnh Ninh Bình: “Trong dân gian
có câu: “Nhà Đinh xây thành, nhà Lê dựng cung
điện”. Qua các lần thám sát, khai quật trước đây ở
một số đoạn tường thành cho thấy các tường thành
được xây dựng một lần thuần nhất, không có hiện
tượng pha tạp, bồi trúc nhiều lần ở nhiều thời điểm
khác nhau. Có thể đoán định rằng về cơ bản, các
đoạn tường thành ở đây được xây đắp dưới thời
Đinh, đặc biệt là những tuyến thành ngoài, vì yêu
cầu an toàn cho kinh đô. Giờ đây hầu hết các tường
thành đều đã bị san phẳng hoặc được bồi đắp làm
đê ngăn nước lụt, nhưng qua một số dấu tích còn lại,
có thể thấy tường thành được xây đắp rất kiên cố:
dùng cành lá cây để lót móng chống lún, dùng các
cây gỗ đặt dọc phía ngoài để chống sạt lở, bên trong
xây gạch, thân tường đắp đất... Về kích thước, chân
tường rộng từ 15 - 17 m, mặt rộng từ 3 - 4 m, chiều
cao khoảng 8 - 10 m. Tổng chiều dài tường thành
nhân tạo phía ngoài là 1630 m (không kể các đoạn
tường phân ngăn nội thành).
7. Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, Sđd, tr. 169.
8. Viện Khảo cổ học, 2002. Khảo cổ học Việt Nam,
T3, Chương 2, Khảo cổ học thời Đinh Lê, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội.
9. Hà Văn Tấn, “Từ một cột kinh Phật năm 973 vừa
phát hiện ở Hoa Lư”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số
76, năm 1965. Theo thống kê của Ban Quản lý Di
tích và Danh thắng Ninh Bình đến nay đó phát hiện
được gần 40 cột kinh Phật thời Đinh.
10. Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, Sđd, tr. 216.
11. Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, Sđd, tr. 154.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 30763_103191_1_pb_4198_2012783.pdf