4. KẾT LUẬN
Với những tư tưởng rất có giá trị đối với giáo dục và quản lí con người nêu trên, Tuân
Tử xứng đáng là một nhà tâm lí học, giáo dục học độc đáo. Học thuyết của ông đã vượt
lên tầm thời đại và có ý nghĩa đến tận ngày nay. Kế thừa ông là học trò Hàn Phi Tử, một
đại biểu xuất sắc của Pháp gia. Trước sự nổi tiếng và thành công của tư tưởng pháp trị
của Hàn Phi, người ta không thể không nhắc đến người thầy đầu tiên đã gây ảnh hưởng
cho Hàn Phi, đó là Tuân Tử với thuyết Tính ác. Tất nhiên, là hậu sinh tài năng, Hàn Phi
Tử đã biết khắc phục những hạn chế mang tính thời đại của thầy Tuân Tử để đưa pháp
trị trở thành một học thuyết có tính ứng dụng cao và rất hiệu quả đối với bối cảnh xã hội
Trung Hoa cuối thời Chiến Quốc. Qua đó để chúng ta thừa nhận rằng không phải lúc
nào nhìn nhận vấn để ở mặc tiêu cực cũng là sai hoặc bị lên án. Phải có những suy nghĩ
táo bạo, sáng tạo để tạo ra những bước ngoặ, những bước chuyển biến lớn có ý nghĩa
không chỉ đối với bản thân mà còn đối với lịch sử và thời đại. Đó là những gì mà triết
gia độc đáo Tuân Tử đã làm được với quan điểm phản truyền thống “nhân chi tính ác”
của mình.
10 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 644 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị giáo dục và bài học Quản lí từ thuyết tính ác của Tuân Tử - Võ Thị Ngọc Thúy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế
ISSN 1859-1612, Số 02(30)/2014: tr. 63-72
GIÁ TRỊ GIÁO DỤC VÀ BÀI HỌC QUẢN LÍ
TỪ THUYẾT TÍNH ÁC CỦA TUÂN TỬ
VÕ THỊ NGỌC THÚY
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế
Tóm tắt: Tính ác là một quan niệm phản truyền thống về tính người của
Tuân Tử, một Nho gia Tiên Tần. Nảy nở trong không khí chiến tranh khốc
liệt thời Chiến Quốc, thuyết Tính ác đặt con người trước yêu cầu nhìn nhận
lại nguồn gốc của tranh chấp và rối loạn xã hội nằm ngay trong bản tính hiếu
lợi, tham dục của từng cá nhân. Xuất phát từ quan niệm tính người là ác,
Tuân Tử đã đề xuất nhiều lí luận về giáo dục và quản lí con người. Về giáo
dục, Tuân Tử đề cao vai trò của Lễ nghĩa như là nội dung, phương tiện và
mục đích hướng tới của quá trình giáo dục trong việc khắc chế bản năng con
người. Về quản lí, Tuân Tử khẳng định biện pháp nêu gương và thưởng phạt
công minh của người lãnh đạo là những nhân tố quyết định hiệu quả của
công tác quản lí con người.
Từ khóa: Tuân Tử, tính ác, giáo dục
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tuân Tử là một triết gia với những tư tưởng phong phú và đặc sắc của triết học Trung
Hoa thời Chiến Quốc. Nổi bật trong học thuyết của Tuân Tử là thuyết tính ác. Khi bàn
về tính người, Tuân Tử đã vượt qua cái bóng của những người thầy của mình để khẳng
định rằng bản tính con người ta là ác. Đây là quan điểm trung tâm chi phối các tư tưởng
khác của ông về tâm lí, chính trị, xã hội. Trong khi thầy Mạnh Tử cho rằng “nhân chi
sơ tính bản thiện”, Tuân Tử lại phủ quyết nhận định đó: “nhân chi tính ác, kì thiện giả,
ngụy giả” (tính con người ta là ác, cái thiện là giả ngụy). Tuân Tử phân biệt hai đặc tính
của con người là đặc tính tự nhiên và đặc tính xã hội, trong đó, ông nhấn mạnh đến đặc
tính tự nhiên như là điểm xuất phát chung của tất cả mọi người. Tất cả chúng ta giống
nhau ở bản chất ác, tham dục, hiếu lợi. Từ điểm xuất phát giống nhau đó, ai có thể trở
thành thánh nhân, thiện nhân hay cao nhân là tùy thuộc công phu tu dưỡng, học tập, rèn
luyện của mỗi người. Khẳng định bản tính ác của con người là đương nhiên, Tuân Tử
mượn đó làm bàn đạp để đề cao vai trò của giáo dục trong việc cải tạo bản tính con
người. Mặc dù cho rằng người ta sinh ra vốn ác, nhưng Tuân Tử không phủ nhận bản
tính này có thể được cảm hóa để thay đổi hướng thiện và ông còn thuyết phục rằng
hướng thiện là xu hướng tất yếu của con người như đói muốn no, lạnh muốn ấm, ác nên
muốn thiện. Chính những luận điểm mang tính phản đề trên của Tuân Tử đã đem lại
nhiều gợi ý bổ ích cho các nhà giáo dục và quản lí trong hoạt động của mình. Đây là hai
đối tượng mà việc nắm bắt tâm lí của đối tác đóng vai trò quyết định trong thành công
của họ. Đối với các nhà giáo dục, họ cần hiểu đặc điểm tâm sinh lí người học để đề ra
nội dung, phương pháp giáo dục đúng đắn, phù hợp, hiệu quả. Đối với các nhà quản lí,
64 VÕ THỊ NGỌC THÚY
họ cần hiểu tâm lí nhân viên để quản lí và sử dụng đúng người, đúng việc, đúng mục
đích nhằm đạt kết quả cao nhất trong công việc.
2. ĐÓNG GÓP CỦA HỌC THUYẾT ĐỐI VỚI GIÁO DỤC
2.1. Về quan điểm giáo dục
* Đối tượng của giáo dục là bản tính của con người
Tuân Tử quan niệm TÍNH là thiên sinh (cái trời sinh ra đã có), vốn thế, không cần học
cũng “không thể làm ra được”. Mở đầu thiên Tính ác, Tuân Tử viết: “Nhân chi tính ác,
kì thiện giả, ngụy dã” [4, tr. 289]. Chữ “ngụy” được Vương Tiên Khiêm giải thích là
“Ngụy, nhân vi dã, kiểu dã, kiểu kì bản tính dã. Phàm phi thiên tính nhi nhân tác vi chi
giả giai vị chi ngụy” [4, tr. 289] (Ngụy là cái người làm ra, sửa chữa cái bản tính mà có.
Phàm những cái không phải thiên tính mà là do người làm ra đều gọi là ngụy). Tuân Tử
không nêu đích danh thuật ngữ “giáo dục” mà dùng chữ “ngụy” để ám chỉ những hoạt
động của con người nhằm thay đổi bản tính ác. Có lúc Tuân Tử lại dùng cụm từ “hóa
tính khởi ngụy” để chỉ công phu hướng thiện. Như vậy, có thể khẳng định hoạt động
“hóa tính” tạo ra “ngụy” chính là hoạt động giáo dục và đối tượng của giáo dục chính là
Tính (bản tính, thiên tính) của con người. Hơn nữa, đối tượng của giáo dục là như nhau,
bởi tính con người đều giống nhau. Ở điểm này Tuân Tử vẫn giữ quan điểm của thầy
Khổng Tử “Tính tương cận, tập tương viễn” (tính vốn gần nhau, do học tập mà xa nhau).
Tuân Tử nói: “Thánh nhân chi sở dĩ đồng ư chúng kì bất dị ư chúng giả, tính dã; sở dĩ dị
nhi quá chúng giả, ngụy dã” [4, tr. 292] (Thánh nhân sở dĩ giống với quần chúng, không
khác quần chúng là ở cái tính, sở dĩ khác và vượt qua quần chúng là ở ngụy)
Điều then chốt cần lưu ý nhất trong quan điểm giáo dục của Tuân Tử là bản tính – đối
tượng của giáo dục - là ác, hiếu lợi, ham dục. Tuyên bố này của Tuân Tử đã phủ nhận
niềm tin ngây thơ và những quan niệm giản đơn trong giáo dục truyền thống (từ các
Nho gia như Khổng Tử, Mạnh Tử đến các nhà giáo dục hiện đại) về bản chất lương
thiện của con người. Đồng thời, ông cũng cảnh tỉnh chúng ta nhận thức lại về nguy cơ
xảy ra tranh chấp, khả năng chống đối, phá hủy tiềm ẩn ở mỗi cá nhân người học trong
những trường hợp đặc biệt vốn rất dễ gặp trong cuộc sống: khi có mâu thuẫn, xung đột
có thể gây tổn hại đến lợi ích cá nhân; khi con người đứng trước sự đe dọa, sợ hãi,...
Suy rộng ra, đó là khi người học bị mất kiểm soát của ý thức đạo đức sẽ dẫn tới sự vi
phạm các chuẩn mực đạo đức, phạm các tội ác. Từ đó, các nhà giáo dục có thể rút ra
những bài học khi thực hiện công tác giáo dục. Thứ nhất, theo truyền thống tôn sư trọng
đạo, học trò tuy ở vị trí buộc phải tôn trọng thầy giáo nhưng không có nghĩa không có
khả năng nảy sinh những hành vi đi ngược lại đạo lí. Thứ hai, không bao giờ được đẩy
học trò vào thế “đường cùng”. Người giáo viên phải giữ tinh thần bao dung và thái độ
gợi mở cho học sinh lối thoát khỏi tình trạng bế tắc. Thứ ba, trong quá trình dạy học,
cần tạo ra không khí cạnh tranh để người học cùng phấn đấu. Tuy nhiên, giáo viên phải
đảm bảo vị trí người trọng tài công minh để không đẩy các cuộc cạnh tranh vượt quá
giới hạn cho phép và không gây ra áp lực nặng nề dẫn tới tâm lí tiêu cực cho học sinh.
GIÁ TRỊ GIÁO DỤC VÀ BÀI HỌC QUẢN LÍ TỪ THUYẾT TÍNH ÁC CỦA TUÂN TỬ 65
Mặt khác, trong Thiên Nho hiệu, Tuân Tử khẳng định tính ác có thể cải hóa được:
“Tính người không thể làm ra, nhưng mà có thể cải hoá”. Tính ác sở dĩ trở nên thiện
được là nhờ:
- Tính có yếu tính có thể cải hoá
- Những nhân tố nội tại: Mọi người đều có cái tài chất “tri” để hiểu được điều nhân
nghĩa, phép thẳng ngay, đều có cái tài chất “năng” để làm được điều nhân nghĩa,
giữ được phép thẳng ngay; không thể trở thành thiện hay thánh nhân được là vì
kém thông minh, kém hiểu biết, suy nghĩ không tới, lựa chọn không đúng cái điều
cần theo đuổi học tập.
- Nhân tố ngoại lai là HOÀN CẢNH: “Sửa chữa tập nhiễm để cải hoá cái tính Sự
tập nhiễm làm thay đổi cái chí, thói quen lâu dần thay đổi khí chất Ở nước Sở
thì hoá (theo người) Sở, ở nước Việt thì hoá (theo người) Việt”
Tuy nhiên, Tính chỉ có thể cải hoá một phần chứ không thoát li hoàn toàn cái ác, cái ác
là cái “nguyên thuỷ tài phác” vẫn không mất hẳn, bởi vì chính cái ác là cơ sở nảy sinh
và tồn tại cho cái thiện: “Không có tính thì không có chỗ để mà gia công phu tích nguỵ,
không có công phu tích nguỵ thì tính tự nó không thể tốt đẹp Tính hợp với công phu
tích nguỵ mà sau thành cái danh thánh nhân Tính hợp với công phu tích nguỵ mà
thiên hạ trị” (Lễ luận). Qua đó Tuân Tử muốn nhắc nhở các nhà giáo dục cần ý thức về
việc từ bỏ tham vọng thay đổi hoàn toàn bản tính người học. Trong thiên Chính danh,
Tuân Tử viết: “Nói chuyện bình trị mà lại hòng ai nấy bỏ lòng dục và không nghĩ đến
việc hướng dẫn lòng dục thì sẽ bị khốn, vì lẽ đã là người ai mà chẳng có lòng dục.” Ông
còn viết: “Lòng dục tuy không thể thỏa mãn hết nhưng nếu dẫn dắt nó thì có thể thỏa
mãn nó gần hết. Lòng dục tuy không thể bỏ nhưng vẫn có thể tiết chế nó mà cầu thỏa
mãn... nếu cầu thỏa mãn không được thì người biết suy nghĩ lựa chọn vẫn có thể tự
nguyện tiết chế nó...” [2, tr. 349]. Điều chúng ta có thể làm chỉ giới hạn trong khả năng
nâng cao ý thức đạo đức cho người học để người học tự giác chứ không phải triệt tiêu
hết những mầm mống cái ác trong bản thân mỗi người. Tức là có sự phối kết hợp giữa
giáo dục và tự giáo dục, giữa tác động bên ngoài và sự tự giác, vận động bên trong bản
thân người học. Chúng ta cũng có thể tin tưởng rằng không có đối tượng nào là không
thể cảm hóa được bằng sức mạnh của văn lí lễ nghĩa. Điều này trở thành động lực thúc
đẩy sự thay đổi phương pháp, nội dung, phương tiện giáo dục cho phù hợp với từng đối
tượng người học.
* Giáo dục là con đường thiện hóa bản tính ác
Tuân Tử nói: “Tính của người ta vốn ác, nó mà hóa thiện được là do công của người ta”,
“phải có thầy, có phép để cái hóa cái tính đi, có lễ nghĩa để dẫn dắt nó...” [2, tr. 354].
“Công” và “có thầy có phép”, “lễ nghĩa” để cải hóa tính ác trong cách diễn đạt của Tuân
Tử chính là giáo dục trong ngôn ngữ hiện đại. Đối với nhân cách, đạo đức, khả năng của
con người, giáo dục là con đường tất yếu, duy nhất và chắc chắn có thể cải tạo bản tính
con người. Tuân Tử tin tưởng tuyệt đối vào khả năng hướng thiện và sự tiết chế lòng
tham dục của con người sao cho phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội: “Người quân
66 VÕ THỊ NGỌC THÚY
tử có thể lấy cái nghĩa công mà thắng cái dục tư” [2, tr. 225]. Đây là nguồn động viên,
là niềm tin cho các nhà giáo dục trong việc đào tạo, cải biến người học.
2.2. Về môi trường giáo dục
Tuân Tử khẳng định bản tính ác, hiếu lợi, tham dục của con người có thể cải hóa bằng
con đường giáo dục, nhưng phải là một môi trường giáo dục tốt: “Học thì không gì tiện
bằng ở gần người hiền” [2, tr. 214]; “Được thầy hiền mà thờ thì nghe toàn đạo vua
Nghiêu, vua Thuấn, vua Vũ, vua Thang, được bạn tốt mà chơi thì thấy toàn hành vi
trung tín, kính, nhượng... Nay cùng ở với người bất thiện thì nghe toàn chuyện lọc lừa,
vu khống, thấy toàn hành vi bẩn thỉu, dâm tà, dối trá, tham lam, thân còn vướng vào
vòng tù tội, giết chóc mà không tự biết... Sách xưa nói: “Không biết con mình, thì nhìn
chúng bạn nó, không biết vua mình, thì nhìn bọn cận thần”.
Môi trường tốt mà Tuân Tử nói đến ở đây là thầy tốt, bạn tốt và nội dung giáo dục tốt.
Ba nhân tố đó quyết định đến sự phát huy hay kìm hãm, phát triển đúng hướng hay
chệch hướng của khả năng, tài chất con người. Cũng như các giống ngựa quý, vốn là
những con ngựa có tố chất tốt, nhưng phải kèm thêm hàm thiếc khống chế, được người
cưỡi giỏi điều khiển, cộng với sự ra oai của roi vọt, mới có thể chạy ngày ngàn dặm.
Chính Tuân Tử là người đã đưa ra nhận định nổi tiếng “Kẻ chê ta mà đúng thì là thầy ta,
kẻ khen ta mà đúng thì là bạn ta, kẻ a dua với ta, siểm nịnh ta thì là thù địch của ta.”
Trước Tuân, mẹ của thầy Mạnh Tử cũng đã nêu gương về sự đề cao môi trường hình
thành nhân cách cho con cái. Bà hai lần chuyển nhà vì không muốn con mình lớn lên
gần bãi tha ma hay cạnh nơi buôn bán, và chỉ dừng lại khi nhà ở gần trường học, nơi có
thầy Tử Tư đến giảng đạo cho các đệ tử [3, tr. 158]. Ở Việt Nam cũng lưu truyền câu
tục ngữ với nội dung tương tự “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”, cũng là nói đến sự
ảnh hưởng rất lớn của môi trường đến tính cách, phẩm chất con người. Mặc dù quan
điểm này của Tuân Tử là không mới, nhưng đóng góp của ông là đã đề cập đến nó một
cách hệ thống và do đó đưa môi trường chính thức trở thành một điều kiện tiên quyết
cho quá trình giáo dục nhân cách con người.
2.3. Về phương pháp giáo dục
Với việc đưa ra quan điểm đối lập với thầy Mạnh Tử, Tuân Tử đã mở đường cho lối
giáo dục hiện đại:
Khích lệ khả năng tư duy phản biện của người học đối với vấn đề được truyền thụ. Điều
này giúp người học có thể tiếp cận vấn đề ở nhiều góc độ, phát triển tư duy biện chứng.
Có nhiều cách để truyền thụ kiến thức, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, phản đề: hướng
thiện từ nêu gương thiện hay thông qua việc phê phán tính ác.
Trong giáo dục cũng áp dụng phương pháp thưởng phạt phân minh để khuyến khích
người học. Thưởng là để ghi nhận và động viên những nỗ lực tích cực. Phạt là để cảnh
cáo và răn đe các lỗi lầm. Riêng đối với hình phạt, phải nghiêm khắc với các lỗi nhỏ để
phòng ngừa các lỗi lớn. Đây có thể coi là một đột phá mới của Tuân Tử so với các bậc
thầy đi trước là Khổng Tử và Mạnh Tử. Những nhà giáo dục vĩ đại này xuất phát từ
GIÁ TRỊ GIÁO DỤC VÀ BÀI HỌC QUẢN LÍ TỪ THUYẾT TÍNH ÁC CỦA TUÂN TỬ 67
quan niệm tính người là thiện nên có phần coi nhẹ vai trò chủ thể của người học mà
nặng về áp đặt chân lí của người dạy, từ đó không đề cập đến vấn đề thưởng phạt trong
giáo dục. Ngược lại, Tuân Tử quan niệm tính người là ác nên rất đề cao cảnh giác trước
khả năng phản kháng từ phía người học, từ đó mà phải có các biện pháp “khuyến thiện,
trừng ác” rất khéo léo để dẫn dắt người học chứ không áp đặt một chiều. So với học trò
Hàn Phi Tử của mình - một Pháp gia điển hình, Tuân Tử vẫn giữ phẩm chất truyền
thống của một Nho gia, ông không tuyệt đối hóa hình phạt. Với Tuân Tử, hình phạt chỉ
mang tính chất là một biện pháp, một giải pháp xử lí tình huống chứ không hoàn toàn là
cách thức để thực thi công việc như quan niệm cực đoan hóa của Hàn Phi. Đối với giáo
dục hiện đại, khi các thế hệ trẻ đang chứng tỏ sự trưởng thành rất nhanh, rất toàn diện
và cũng rất chủ động, rất táo bạo trong việc đấu tranh tự bảo vệ quyền lợi của mình thì
không một người thầy nào, một chế độ giáo dục nào có thể là chuẩn mực tuyệt đối và
không phải hình phạt nào cũng có thể được chấp nhận hay tuân thủ một cách êm đẹp.
Các nhà giáo dục lúc này không chỉ là những người chỉ đường mà còn phải đóng vai trò
người “cầm cân nẩy mực”, khích lệ bằng khen thưởng và uốn nắn bằng hình phạt khi
cần thiết. Các hình phạt cũng phải được xem xét, thảo luận, thống nhất tạo thành các
điều luật, các quy định công khai, không trái với pháp luật của nhà nước, không xâm
phạm quyền tự do nhân thân và phù hợp với tâm lí lứa tuổi cũng như đạo đức luân lí xã
hội. Không chỉ đạo đức, nhân cách của nhà giáo phải nâng cao mà cả nghệ thuật ứng xử
sư phạm cũng phải được rèn luyện.
Tự giáo dục là phương pháp quyết định hiệu quả của việc học. Tuân Tử nhấn mạnh đặc
tính tự nhiên của con người, rất chú ý đến bản năng người học nên ông cũng đề cao tính
chủ thể của người học trong quá trình giáo dục. Ông khẳng định con đường tự giáo dục
tốt nhất là trí khí, dưỡng tâm: “Học là phải chuyên nhất, giữ mình luôn hợp đạo... Học
đến toàn thiện, tận thiện mới gọi là học” [2, tr. 216]. Chuyên nhất ở đây là tập trung cao
độ, giây phút không xa rời đạo nhân nghĩa, biết loại suy để biết những điều chưa được
học, biết liên hệ cổ kim để học tập cái tốt, bỏ nết xấu mà tự tu dưỡng để hoàn thiện. Hơn
nữa, người học còn phải chú ý rèn luyện đạo đức học tập: “Thấy điều thiện phải nghiêm
chỉnh tự xét xem mình có điều thiện đó không; thấy điều chẳng thiện phải lo sợ tự xét
xem mình có điều bất thiện đó không. Thấy có điều thiện ở nơi mình thì phải thích thú
mà kiên quyết giữ đừng để mất; thấy điều bất thiện ở nơi mình thì phải ghê tởm mà
mạnh dạn trừ cho bằng được” [2, tr. 218]. Ngoài ra, một bí quyết nữa để thành tựu trong
học tập là sự chịu khó, bền bỉ, bởi vì “kẻ cầu học giống kẻ đi đường”, “không góp từng
nửa bước thì không tới được nghìn dặm..., đang cắt mà bỏ dở thì gỗ mục cũng chẳng
đứt, rạch cưa mãi không ngưng thì vàng đá cũng chạm trổ được”, ví như “con giun
không có răng móng sắc, không có gân xương mạnh thế mà nhoi lên ăn được đất bụi,
chui xuống uống được nước mạch là vì nó chuyên tâm” [2, tr. 211]. Vì tư chất, tính tính
con người ta tuy khác nhau, cũng không quá chênh lệch, nên mấu chốt làm nên sự phân
biệt người hay kẻ dở là ở quá trình tu tập, làm hay không làm: “đường dù gần, không đi
không tới, việc dù nhỏ, không làm không thành”. Tóm lại, để có thể học hiệu quả thì
người học cần chuyên nhất, bởi “cùng một lúc theo hai đường thì chẳng tới đâu hết,
68 VÕ THỊ NGỌC THÚY
cùng một lúc thờ hai vua thì chẳng vua nào dùng, cùng một lúc nhìn hai vật thì mắt nào
thấy thật rõ? Cùng một lúc nghe hai tiếng thì tai nào nghe được thật rành?” [2, tr. 211]
2.4. Về nội dung giáo dục
Tuân Tử khẳng định tính ác có thể được cải biến nhờ văn lí lễ nghĩa, coi lễ là nội dung
quan trọng nhất của quá trình giáo dục. Nho gia có Kinh Lễ là kinh điển về lễ nghi phép
tắc quy định cách hành xử của con người. Tuân Tử coi lễ là công cụ để uốn nắn bản tính
ác, chế ngự lòng dục vốn là nguyên nhân sâu xa dẫn tới sự loạn lạc của xã hội. Tác dụng
điều chỉnh của lễ là: “ưa ghét nhờ lễ mà đúng mức; mừng giận nhờ lễ mà thích đáng; lễ
khiến cho người dưới thuận, lễ khiến người trên sáng, lễ khiến cho vạn vật biến đổi mà
không rối loạn”, cũng như “dây là thứ chuẩn mực thẳng nhất; cân là loại chuẩn mực
phân chia công bình nhất; qui củ là công cụ để xác định vẽ vuông tròn chính xác nhất; lễ
là nguyên tắc căn bản nhất của việc trị nước” [1, tr. 328].
Lễ thể hiện ra ở hai mặt: hình thức thực hiện (bên ngoài: văn) và thái độ thực hiện lễ
(bên trong: lí): “Lễ hiến dâng bằng vật dụng, làm cho long trọng bằng những nghi thức,
tỏ rõ sang hèn” [Lễ luận], “lễ rất được hoàn bị khi hội đủ cả phần ý tình lẫn phần nghi
thức” [Lễ luận]. Theo Kinh Lễ, con người không những phải tuân theo các nghi thức
định sẵn trong tất cả các lĩnh vực từ giao tiếp, hành sự đến tang chế (kính), mà còn phải
thực hiện chúng một cách nghiêm ngặt với thái độ nghiêm túc (cung). Cho nên, với
Tuân Tử, lễ vừa là nội dung (dạy Kinh Lễ), vừa là phương tiện (dạy bằng lễ), vừa là
mục đích của giáo dục (hướng đến con người có lễ nghĩa).
Trong thực trạng giáo dục hiện nay, chúng ta thường quá chú trọng vào kiến thức khoa
học mà ít đưa vào những kiến thức bổ trợ về kĩ năng sống. Trên thực tế, người học bao
giờ cũng cần được giáo dục một cách toàn diện cả về kiến thức lẫn kĩ năng. Kĩ năng
sống quan trọng hàng đầu của con người trong xã hội chính là cách đối nhân xử thế,
cách xử trí công việc,... mà phần đa trong số đó chính là lễ nghi phép tắc. Mặc dù ngày
nay chúng ta không có một tài liệu nào gọi là quy chuẩn cho lễ nghi phép tắc để giáo
dục người học mà chủ yếu là những bài học đạo đức từ các thế hệ lớn tuổi trong gia
đình, chúng ta vẫn có thể vận dụng những nội dung hợp lí và tích cực từ Kinh Lễ.
3. ĐÓNG GÓP CỦA HỌC THUYẾT ĐỐI VỚI QUẢN LÍ CON NGƯỜI
Trong thiên “Quân đạo”, Tuân Tử nói: “Người xưa lựa mình phải có đạo, dùng người
phải có phép. Đạo lựa người là lấy lễ làm tiêu chuẩn, phép dùng người là phân chia thứ
bậc.” [2, tr. 287] Chính phát biểu này đã thể hiện rất rõ quan điểm của Tuân Tử về quản
lí con người.
3.1. Quan điểm quản lí
Tư tưởng truyền thống của Nho gia “Nhân chi sơ tính bản thiện” cho rằng bản tính con
người ai cũng lương thiện như nhau nên chỉ dùng cách thức giống nhau để quản lí
những con người khác nhau; hoặc chỉ để ý đến mặt tích cực mà không chú ý đến mặt
trái, những phần tiêu cực trong bản tính con người. Nho giáo đặt ra Tam cương, Ngũ
thường quy định các mối quan hệ trong sự phân chia vị trí cao thấp và người bề trên có
GIÁ TRỊ GIÁO DỤC VÀ BÀI HỌC QUẢN LÍ TỪ THUYẾT TÍNH ÁC CỦA TUÂN TỬ 69
quyền quản lí, điều khiển người dưới. Nho giáo còn đề ra thuyết Chính danh định phận
quy định mỗi con người cư xử đúng danh phận, địa vị của mình trong mọi trường hợp.
Với thuyết này, người cầm quyền phải nêu gương ngay chính thì người dưới ắt là phải
theo mà bắt chước, như vậy xã hội sẽ trật tự phân minh. Tuân Tử lại chủ trương tính con
người ta không phải vốn là lương thiện, phần lương thiện đó chỉ là cái mà con người tạo
ra (ngụy). Tính người không chỉ ác mà còn thay đổi thường xuyên và không giống nhau
ở những người khác nhau, trong những hoàn cảnh khác nhau. Tuân Tử cũng nhấn mạnh
rằng con người sinh ra vốn đầy lòng tham dục, nếu thuận cho bản tính đó phát triển thì
xã hội rối loạn, không còn lễ nghĩa. Quan niệm về quản lí con người từ khi xuất hiện
luận thuyết Tính ác của Tuân Tử cũng phải ít nhiều thay đổi.
Trước hết là sự thay đổi quan niệm về nguồn gốc tình trạng bất ổn của xã hội: “Lòng
ham muốn không có chừng mà vật ham muốn thì có hạn, trạng huống đó đưa tới cảnh
tranh giành” [2, tr. 270]. Hơn nữa, “lao tác là cái người ta ghét, lộc vị là cái người ta ưa,
không phân định chức nghiệp thì ai nấy sẽ ngán làm lụng mà lo giành lấy công lao của
người” [2, tr. 270]. Xuất phát từ thực tế “loài người không thể sống mà không hợp quần.
Sống hợp quần mà không định phận bằng lễ thì tất tương tranh, tương tranh thì loạn,
loạn thì khốn cùng...”, Tuân Tử đề ra các quan điểm quản lí sau:
- Vấn đề then chốt của trật tự xã hội là tìm được “đấng nhân chủ”, tức là người quản lí
tốt: “đấng nhân chủ tốt đẹp là làm cho cái gốc thiên hạ tốt đẹp, làm cho đấng nhân chủ
yên vững là làm cho cái gốc thiên hạ yên vững, tôn quý đấng nhân chủ là tôn quý cái
gốc của thiên hạ.” [2, tr. 272]. Về điểm này, Tuân Tử kế thừa tư tưởng Khổng - Mạnh
(thuyết Chính danh).
- Về cách thức quản lí cụ thể: vẫn dùng nhân, lễ, nghĩa, trí, tín mà đối xử như truyền
thống; nhưng còn phải dùng Lễ Nhạc mà uốn nắn, biến hóa, không để thuận theo tự
nhiên nữa. Ở đây Tuân Tử thể hiện rõ sự khác biệt so với các Nho gia tiền bối khi ông
chủ trương phối hợp Lễ trị (dùng lễ mà trị) và Bá đạo (lấy sức mà trị).
Về Lễ trị: Theo sách Lễ kí, tính chất của lễ là trung, nguyên lí của lễ là biến (biến về
hình thức để giữ vẹn tính chất trung) và tác dụng của lễ là tiết, văn, phòng ngừa. Đối với
Tuân Tử, Lễ cụ thể là định phận, tiết dục và dưỡng dục. Lễ chính là bài thuốc trị tính ác,
là cái thắng bảo đảm cho sự hài hoà và đoàn kết của đời sống tập thể. Nhờ có Lễ mà
người ta tiết chế cho vừa đạo trung, tức là không thái quá cũng không bất cập, biết thay
đổi cho phù hợp chữ Thời. Trong thiên “Nghị binh”, Tuân Tử chỉ ra ba thuật kiêm tính:
dùng đạo đức, dùng của cải, dùng sức mạnh, trong đó “Lấy đức mà kiêm tính người thì
thành vương nghiệp, lấy sức mà kiêm tính người thì thành yếu, lấy của mà kiêm tính
người thì thành nghèo”. Như vậy, quan điểm quản lí của Tuân Tử là phải tìm được
người quản lí có năng lực và phải dùng đức, dùng lễ để quản lí con người. Quan điểm
này gần với học thuyết Nhân trị, Đức trị của Khổng Tử.
Về Bá đạo: Tuân Tử đối lập hẳn với các bậc Nho gia đi trước khi cho tính người là ác
thì phải chủ trương lấy sức mà trị, tức phải dùng Bá đạo. Tất nhiên, là một nhà Nho,
Tuân vẫn “truất bá, tôn vương”, chê Bá “không lo sửa sang cái gốc của chính giáo (lễ
70 VÕ THỊ NGỌC THÚY
nghĩa)..., thủ thắng bằng mưu trá, vờ nhường nhịn để tranh giành, giả nhân giả nghĩa để
trục lợi” [2, tr. 222]. Nhưng khi xét đến chính sự đời Xuân Thu, ông vẫn thừa nhận rằng
“Bá” có những điểm khả thủ: Họ khéo tổ chức, chăm lo thực lực, khéo dùng kẻ sĩ,
nghiêm việc thưởng phạt và nhất là biết thủ tín...” [2, tr. 224]. Từ đó ông đề xuất áp
dụng các biện pháp “bá đạo” vào trong quản lí.
Lễ trị và Bá đạo tuy về hình thức có vẻ trái ngược nhau nhưng về bản chất lại hài hòa
với nhau. Trong thực tế quản lí nhân sự, người lãnh đạo phải đồng thời áp dụng cả hai
phương pháp trên, cương nhu kết hợp. Đây là quan niệm rất thực tế, thực dụng và tỏ ra
phù hợp hơn trong hoàn cảnh “chiến quốc” nhiều nước đánh chiếm lẫn nhau tranh đoạt
ngôi vị thời bấy giờ. Ngày nay, trong thời buổi thị trường với những chuyển biến chóng
mặt về kinh tế, chính trị, xã hội, không có gì đảm bảo cho những chuẩn mực luân lí hay
đạo đức truyền thống của con người có thể bền vững mãi. Thị phi, thiện mĩ, thiện ác
theo lịch sử, thời đại và dân tộc cũng có nhiều chỗ xuất nhập. Quản lí con người do đó
không thể cứ nhất nhất một quan điểm cũ.
3.2. Phương pháp quản lí
Trong thiên “Nghị binh”, Tuân Tử khẳng định lẽ thường của sự mạnh yếu: “Người trên
đáng trông cậy thì người dưới mới hết lòng, người trên không đáng trông cậy thì người
dưới không hết lòng... Chuộng lễ, thận trọng việc thưởng công là hơn hết, thứ đến là coi
trọng lộc vị, quý người trung nghĩa, chỉ trọng chiến công mà coi rẻ trung nghĩa là kém
nhất... Trọng hiền sĩ thì mạnh, không trọng hiền sĩ thì yếu... chính lệnh được dân tin thì
mạnh, không được dân tin thì yếu, dân cùng góp sức thì mạnh, dân không cùng góp sức
thì yếu, coi trọng việc thưởng thì mạnh, coi khinh việc thưởng thì yếu, hình phạt có oai
thì mạnh, hình phạt bị khinh nhờn thì yếu,...”. Như vậy, phương pháp quản lí theo Tuân
Tử là nêu gương và thưởng phạt chính xác, công minh.
Phương pháp nêu gương xuất phát từ quan điểm người quản lí là yếu tố quyết định:
“Điều luật trong đạo trị nước, ví như dòng nước, chứ không phải nguồn, người quân tử
mới là nguồn... Nguồn trong thì dòng trong, nguồn đục thì dòng đục. Cho nên người
trên mà thích lễ nghĩa, chuộng người hiền tài, dùng người giỏi không ham lợi, thì người
dưới tất nhún nhường, trung thành, tín thực mà cẩn thận giữ bổn phận” [2, tr. 285]. Bởi
vì, “đấng tiên vương làm sáng tỏ điều lễ nghĩa mà tề nhất dân, lấy hạnh trung tín mà
thương yêu họ, chuộng người hiền, dùng người tài mà định ngôi thứ họ, dùng tước lộc,
ân sủng mà trọng đãi, tưởng lệ học, việc làm đúng thời, người dùng vừa sức để nương
nhẹ họ... Như vậy cho nên gian tà không nảy nở, trộm cướp không nổi dậy... Trên một
đạo thì dưới theo một đường, trên nhiều khóe thì dưới sinh nhiều dạ, chẳng khác gì cỏ
cây, gốc rễ sao thì cành lá vậy.” Do đó, cần thận trọng trong việc lựa chọn, cất nhắc
người đứng vào vị trí quản lí đó: “người không có đức không được tôn quý, người
không có tài không được dùng làm quan”; “phải cẩn thận lựa chọn vị tể tướng; trí mà
không nhân, không được, nhân mà không trí cũng không được. Người vừa trí vừa nhân,
đó là của báu của đấng nhân chủ.” [2, tr. 287]
GIÁ TRỊ GIÁO DỤC VÀ BÀI HỌC QUẢN LÍ TỪ THUYẾT TÍNH ÁC CỦA TUÂN TỬ 71
Phương pháp thưởng phạt xuất phát từ quan điểm phối hợp cả Lễ trị và Bá đạo trong
quản lí. Cho nên, “người không có công không được ban thưởng, người không có tội
không được trừng trị, chốn triều đình không có người vì may mà được chức vị, nơi dân
gian không có người vì may mà được tạm sống, quý người có đức, dùng người có tài,
chức vị mọi người đều xứng với khả năng. Giết bỏ quân bạo ngược, ngăn ngừa kẻ hung
hãn mà hình phạt không nghiêm khắc thái quá” [2, tr. 260] và “đức ắt tương xứng với vị,
vị ắt tương xứng với lộc, lộc ắt tương xứng với công” [2, tr. 272].
Trong quản lí phải áp dụng phương pháp thưởng phạt vì “việc tưởng lệ thi hành có
hiệu quả, việc trừng phạt thi hành có hiệu lực thì người hiền tài tự tiến, kẻ hư hỏng tự
lui, mà người hiền tài, kẻ hư hỏng đều được đặt vào đúng chỗ. Như vậy thì vạn vật được
đắc nghi, sự biến đều đắc ứng...” [2, tr. 276]
Thưởng phạt phải đúng đối tượng, đúng mức độ, đúng thời điểm, bởi vì “không dạy dỗ
trước mà trừng trị, giết chóc, thì hình phạt tuy nhiều, dân vẫn không bỏ được thói tà,
nhưng chỉ dạy dỗ mà không trừng trị, giết chóc, thì kẻ gian không sợ. Chỉ giết chóc mà
không tưởng thưởng thì người dân cần mẫn không hứng khởi, giết chóc, tưởng thưởng
mà không đúng, thì người dưới sẽ sinh nghi, phong tục sẽ trở nên nham hiểm, dối trá mà
trăm họ rã rời.” [2, tr. 277]
Để thực hiện được thưởng phạt, theo Tuân Tử, phải đặt ra một hệ thống pháp chế và
dùng “pháp chính mà trị, trọng hình mà phạt”, để tài chế những hành vi phi lễ và bảo
đảm, tăng cường cái hiệu lực uốn nắn và phân biện của lễ. Tuy nhiên, Tuân Tử không
tuyệt đối hóa pháp. Ông khẳng định “Pháp là cái ngọn của sự trị dân, quân tử (tức người
tài đức) là cái gốc của pháp”, “hình phạt nên tinh giảm” và “chính lệnh phải rất phân
minh” [2, tr. 217], “dùng hình pháp không quá cái tội, ban thưởng tước lộc không vượt
cái đức [2, tr. 218].
Như vậy, trong quan điểm về quản lí con người, Tuân Tử không tuyệt đối hóa Lễ hay
Pháp mà chủ trương phối hợp cả hai phương pháp này khi quản lí xã hội. “Ông cho rằng
pháp luật nghiêm minh có thể ngăn cấm điều bạo ngược, ghét bỏ điều ác, răn đe những
điều xấu chưa xảy ra; pháp lệnh thi hành, phong tục tốt đẹp” [1, tr. 332]. Đây cũng
chính là điểm khác biệt lớn nhất trong quan niệm về quản lí của Tuân Tử so với các nhà
tư tưởng thời bấy giờ (Nho gia và Pháp gia). Quan điểm này của Tuân Tử vẫn ý nghĩa
trong xã hội hiện đại. Do đó, các nhà quản lí, những người lãnh đạo thời nay cũng cần
biết kết hợp cương nhu, lễ và pháp thì mới đạt hiệu quả cao trong công việc.
4. KẾT LUẬN
Với những tư tưởng rất có giá trị đối với giáo dục và quản lí con người nêu trên, Tuân
Tử xứng đáng là một nhà tâm lí học, giáo dục học độc đáo. Học thuyết của ông đã vượt
lên tầm thời đại và có ý nghĩa đến tận ngày nay. Kế thừa ông là học trò Hàn Phi Tử, một
đại biểu xuất sắc của Pháp gia. Trước sự nổi tiếng và thành công của tư tưởng pháp trị
của Hàn Phi, người ta không thể không nhắc đến người thầy đầu tiên đã gây ảnh hưởng
cho Hàn Phi, đó là Tuân Tử với thuyết Tính ác. Tất nhiên, là hậu sinh tài năng, Hàn Phi
Tử đã biết khắc phục những hạn chế mang tính thời đại của thầy Tuân Tử để đưa pháp
72 VÕ THỊ NGỌC THÚY
trị trở thành một học thuyết có tính ứng dụng cao và rất hiệu quả đối với bối cảnh xã hội
Trung Hoa cuối thời Chiến Quốc. Qua đó để chúng ta thừa nhận rằng không phải lúc
nào nhìn nhận vấn để ở mặc tiêu cực cũng là sai hoặc bị lên án. Phải có những suy nghĩ
táo bạo, sáng tạo để tạo ra những bước ngoặ, những bước chuyển biến lớn có ý nghĩa
không chỉ đối với bản thân mà còn đối với lịch sử và thời đại. Đó là những gì mà triết
gia độc đáo Tuân Tử đã làm được với quan điểm phản truyền thống “nhân chi tính ác”
của mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Doãn Chính (chủ biên) (1997). Đại cương triết học Trung Quốc, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
[2] Giản Chi - Nguyễn Hiến Lê (1994). Tuân Tử, NXB Văn hóa.
[3] Phạm Quýnh (2005). Bách gia chư tử giản thuật (Nguyễn Quốc Thái dịch), NXB Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
[4] 王先謙 (1891). 諸子集成 2- 荀子集解, 上海書店.
Title: EDUCATIONAL VALUES AND MANAGEMENT LESSONS OF XUNZI’S IDEA
“HUMAN NATURE IS BAD”
Abstract: “Human nature is bad” is an abtraditional thought about human nature of Xunzi, an
ancient Confucist. Flourish in fierce air of the Warring States period (453-221 BCE), “Human
nature is bad” brought us to the origin of fighting and misorder status which were right in our
wish of benefit and desire. With this thought, Xunzi proposed many ideas on education and
management. On education, Xunzi enhanced the role of “Le” (civility) as content, means and
purpose in educational process of addressing human instincts. On management, Xunzi insisted
that exemplary measures and fair pay-off of the leader were determining factors for effective
managing.
Keywords: Xunzi, human nature is bad, education,
ThS. VÕ THỊ NGỌC THÚY
Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 23_373_vothingocthuy_11_vo_thi_ngoc_thuy_0655_2020435.pdf