Lê Văn Trương vẫn nổi tiếng với thế giới
nhân vật người hùng của ông. Mỗi tác phẩm,
tác giả lại đem đến cho người đọc sự trân quí
một người hùng nào đó ở một khía cạnh nào
đó trong cuộc đời cuộc đời của họ. Đó là
Giáng Vân trong Cánh sen trong bùn, là
Trọng Khang trong Trường đời, là Chí trong
Trận đời, là Vượng trong Người anh cả,
Nhưng trong tiểu thuyết Sau phút sinh ly,
người đọc thấy tác giả đã coi cả Tuấn, Châm
và Cẩm đều có thể được trân trọng gọi là
người hùng. Tuấn đã hi sinh cái cảm xúc
thăng hoa của tình yêu, hi sinh cả cái cơ ngơi
nếu lấy Cẩm có thể anh sẽ được thừa hưởng
để thủy chung với người vợ tào khang của
mình. Châm cả đời hi sinh cho chồng con,
chưa có một chút gì dám tự mình thưởng
hưởng. Cẩm đã dằn lòng quên đi mối tình đầu
ngang trái nhưng cũng đầy ngọt ngào và nồng
say của mình vì đạo lý và vì người mình yêu
thương, vì nếu như nàng cố tình tranh giành,
Châm có thể mất Tuấn lắm.
Cả ba người cùng hi sinh vì nhau như thế,
khiến cho phần kết của câu chuyện thật bâng
khuâng, đầy lắng đọng. Ranh giới của thủy
chung và phản bội mỏng manh biết bao nhiêu.
Giữ được nó ở bên bờ này hay bị đổ sang bờ
bên kia nhờ cả vào một sợi dây vô hình nhưng
bền chắc vô cùng: đó là đạo lý.
Hơn 70 năm đã qua, thiết nghĩ, câu chuyện về
nghĩa tình vẫn không bao giờ xưa cũ. Trong
giai đoạn xã hội sống đầy thực tế và có phần
bản năng như bây giờ, nhắc lại chuyện đạo lý
liệu có ai cho là giáo điều?
6 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 406 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đọc tiểu thuyết Sau phút sinh lý của Lê Văn Trương, nghĩ về ranh giới mong manh giữa thủy chung và phản bội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lê Thị Ngân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 3 - 8
3
ĐỌC TIỂU THUYẾT SAU PHÚT SINH LY CỦA LÊ VĂN TRƯƠNG,
NGHĨ VỀ RANH GIỚI MONG MANH GIỮA THỦY CHUNG VÀ PHẢN BỘI
Lê Thị Ngân*
Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Tiểu thuyết gia Lê Văn Trương (1906- 1964) đã tạo ra được nhân vật người hùng được một thời
chấp nhận và say mê. Tiểu thuyết Sau phút sinh ly được nhà xuất bản Tân Dân in lần đầu vào
năm 1942. Lê Văn Trương đã làm mới những vấn đề tưởng chừng đã cũ bằng cách thổi vào đó
một luồng sinh khí mới và để nhân vật của mình thể hiện một cách sinh động triết lý “Người
hùng” qua từng trang truyện. Trong tác phẩm, cái ranh giới mong manh giữa tình yêu cao thượng
và dục vọng thấp hèn, giữa hi sinh và ích kỉ, giữa thủy chung và phản bội đã được tác giả thể hiện
khá linh diệu. Con người, để giữ được đạo lý, nhiều khi đã phải đấu tranh quyết liệt và hi sinh hết
sức đau đớn.
Từ khóa: Lê Văn Trương, người hùng, tình yêu, đạo lý, thủy chung, phản bội
Sau thời gian tiếp biến và chuyển mình, đến
những năm 30 của thế kỉ XX, đời sống văn
học Việt Nam thật sự chuyển sang đường ray
của một nền văn học Việt Nam hiện đại. Sự
tiếp xúc với văn học Pháp nói riêng và văn
học phương Tây nói chung đã làm cho sinh
hoạt văn học tiền chiến trở nên sôi nổi. Làn
sóng văn minh Âu hóa lúc đó như sự đáp ứng
đầy thách thức trước cơn chuyển dạ của văn
học Việt Nam trong buổi giao thời. Một
phong trào sáng tác rộng lớn trên tất cả mọi
thể loại, và với sự kết tinh các thành tựu trong
không ít tác giả - tác phẩm tiêu biểu. Các văn
sĩ châu tuần quanh các tòa báo, các nhà xuất
bản, kiếm sống bằng ngòi bút và được xã hội
công nhận. Họ là Nhất Linh, Khái Hưng,
Thạch Lam, Lê Văn Trương, Vũ Bằng,
Nguyễn Tuân, Trần Huyền Trân, Vũ Trọng
Phụng, Thâm Tâm, Nam Cao, Tô Hoài,
Thanh Châu v.v (Danh sách này còn có thể
kéo dài hơn nữa). Trong đó, Lê Văn Trương
là nhà văn ăn khách hơn cả. Với sức viết đặc
biệt của mình (hơn 200 cuốn tiểu thuyết cho
cuộc đời sáng tác, ông đã tạo ra được một
kiểu nhân vật “người hùng” "được cả một
thời chấp nhận và say mê”.[2]*
Đã từng bị coi là huênh hoang tiên sinh, là
hạng triết học nửa mùa, đã từng chịu những
* Tel: 0912 022777, Email:lengandhkhtn@gmail.com
lời khinh khi, đố kị của văn đoàn Tự lực
nhưng Lê Văn Trương vẫn hồn nhiên là mình,
dám là mình, dù có “nhàm chết người” cũng
vẫn là mình một cách nhất quán trong suốt
đời thực và đời văn. Ông đã coi viết văn là
một nghề để sống và để tự ấn định mặt nạ
nhân cách của mình trên sàn diễn cuộc đời.
Không chịu “khép phòng văn hì hục viết”
(thơ Chế Lan Viên) như Tự lực văn đoàn, Lê
Văn Trương chường mặt ra giữa đời, xông
pha và ngao du sang tận Xiêm, Cao Miên,
Tàu mở điền, buôn bán, làm thầu khoánvà
viết văn. Và tuồng như đi đến đâu, ông mang
cả phong trần theo đến đấy. Con người ấy,
với sức lao động của mình đã tạo nên một
thành tựu, một bản sắc riêng trong đời văn.
Xã hội Việt Nam giai đoạn 1930-1945 là xã
hội thuộc địa hỗn mang với quan niệm đạo
đức bị đảo lộn, ranh giới để phân định các giá
trị dường như rất mong manh. Nhưng một
điều dễ nhận thấy nhất của thời buổi “Á – Âu
tranh nhau, Đông - Tây lẫn lộn” là cuộc sống
của người dân một nước nông nghiệp kiểu
châu Á vốn luẩn quẩn, trì trệ, dù có xảy ra
bao nhiêu cuộc “bể dâu” thì luân thường vẫn
cứ được xem là “khuôn vàng thước ngọc”.
Trung thành với quan điểm sáng tác của
mình, Lê Văn Trương đã làm cho “xu hướng
văn tải đạo mới đượm khí sắc thời đại mà đua
nở với các xu hướng khác "[3]. Là luân lý mà
Lê Thị Ngân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 3 - 8
4
không giáo điều, là tải đạo mà không cứng
nhắc chính bởi ông đã "chuyển ngòi bút nghệ
thuật thức thời để phát huy những thứ không
lỗi thời"[3]. Sau phút sinh ly là một trong
những tác phẩm thể hiện được tính thức thời
ấy của Lê Văn Trương. Trong tác phẩm, cái
ranh giới mong manh giữa tình yêu cao
thượng và dục vọng thấp hèn, giữa hi sinh và
ích kỉ, giữa thủy chung và phản bội đã được
tác giả thể hiện khá linh diệu. Con người, để
được coi là sống có đạo lý, nhiều khi đã phải
đấu tranh quyết liệt và hi sinh đau đớn như
thế nào.
Tiểu thuyết Sau phút sinh ly được nhà xuất
bản Tân Dân in lần đầu vào năm 1942. Tình
yêu nam nữ, đạo lý vợ chồng, tình người
luôn chạm được đến thẳm sâu trái tim mỗi
người. Lê Văn Trương đã làm mới những vấn
đề tưởng chừng đã cũ bằng cách thổi vào đó
một luồng sinh khí mới và để nhân vật của
mình thể hiện một cách sinh động triết lý
“Người hùng” qua từng trang truyện.
Xã hội Việt Nam giai đoạn 1930-1945 đã bị
lối sống tư sản hóa thâm nhập. Trong môi
trường ấy, các tầng lớp và giai cấp xã hội ở
thành thị - tư sản và công nhân, tiểu thương,
tiểu chủ, công chức, dân nghèo thành thị, trí
thức tân tiến và nhà nho “Nôm na phá nghiệp
kiếm ăn xoàng” cho tới các cô sen, cậu bồi
tuy rất khác nhau về mức sống và khả năng
thực hiện ước mơ của mình, rất khác nhau,
thậm chí đối lập nhau về thái độ đối với chế
độ đương thời, vẫn gần nhau về những nét
tâm lý, thị hiếu: thích đua đòi, ăn chơi hưởng
lạc, muốn sống và giải trí trong môi trường
náo nhiệt, khao khát cái lạ, cái luôn luôn đổi
thay. Tức là, lối sống Âu hóa đã trở thành một
thứ mốt thời thượng, một vòng quay tịnh tiến
khiến con người phần nào thoát khỏi khuôn
khổ chật hẹp của lễ giáo phong kiến phương
Đông. Tinh thần này khúc xạ khá rõ nét trong
Sau phút sinh ly của Lê Văn Trương.
Tuấn là một công chức tiểu tư sản 26 tuổi, có
vợ và hai con. Hơn hết Tuấn được coi là một
trí thức Tây học vì anh biết tiếng Tây, hiểu
văn hóa Tây và cái tinh thần thể thao của anh
cũng đáng được xem là Tây lắm. Tuấn yêu vợ
và hết lòng vun đắp cho cái gia đình nhỏ ấy
của mình.
Cái nghĩa vụ làm cha, làm chồng của Tuấn sẽ
hoàn hảo biết bao nếu vào một sớm mai kia
trong lúc tập thể dục Tuấn không bắt gặp ánh
mắt nhìn của Cẩm - con gái bà chủ nhà. Cái
thân thể tráng kiện, một mình nhấc bổng cả
giang sơn ấy của Tuấn đã làm xao động tâm
hồn của Cẩm - một thiếu nữ mới 17 tuổi, e lệ,
dịu dàng, gia giáo và nhất là nàng cũng là một
người con gái đẹp!
Cái nhìn vụng trộm khó giấu ấy đã khiến
Tuấn chóng nhận ra. Trong Tuấn thấy “rộn
ràng những ý nghĩ khác”. Tâm hồn Tuấn
dường như bị lung lay, dao động. Nhất là khi
biết Cẩm trộm ngắm mình trong bộ véc đẹp,
trong anh thấy nhẹ nhõm, phơi phới lạ thường.
Có một chút gì như thể sự tự hào của Tuấn khi
được có một người con gái đẹp như thế để mắt.
Lần đầu tiên trong đời, Tuấn sinh ra ý nghĩ so
sánh vợ mình với người con gái khác.
Bằng ấy chi tiết mở đầu tác phẩm đã giúp
người đọc hình dung phần nào thiên cơ của
truyện. Câu chuyện sẽ trở nên nhạt nhẽo nếu
thiếu đi sự khập khiễng giữa Cẩm và Châm -
vợ Tuấn. Cẩm là một người con gái đẹp, “nói
tiếng Tây rất đúng mẹo và có một giọng giống
đầm lắm”[1], nàng lại còn biết thưởng thức
cái đẹp và có gu thẩm mỹ nữa. Trong đó vợ
anh là một người phụ nữ đảm đang, siêng cần
nhưng chỉ là cô gái gốc gác quê mùa, không
có cái Tây học như Cẩm. Tuấn so sánh, và, tự
thấy cái suy nghĩ của mình thật lố bịch. Anh
thấy phục vợ, nếu không nói là biết ơn vợ và
thấy người con gái kia quá xa vời, chẳng thể
so với người vợ tảo tần của mình được.
Nhưng đó chỉ là suy nghĩ ban đầu. Cũng có
thể đó là suy nghĩ tự răn mình của Tuấn.
Cuộc đời là những chuỗi bất ngờ không ai
lường hết được. Một ngày, mẹ con Cẩm đang
tranh cãi với mấy người thợ mộc về việc họ
đóng đồ không đúng yêu cầu. Đám thợ thấy
mẹ con Cẩm toàn đàn bà con gái, cậy thế
Lê Thị Ngân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 3 - 8
5
mạnh lấn tới. Sự việc đang đến hồi nguy nan
thì Tuấn xuất hiện và dàn xếp êm đẹp trong
tích tắc bằng chính cơ bắp và tài ăn nói của
mình. Tuấn xuất hiện như một chàng hiệp sĩ.
Cẩm quan sát không thiếu một hành động nào
của Tuấn và Tuấn cũng vì muốn gây ấn tượng
với Cẩm mà làm như thế. Chi tiết này là một
cái cớ thật hợp lý để Tuấn có cơ hội gần Cẩm.
Một sự vô tình đầy ngọt ngào.
Luôn luôn dành một niềm ngưỡng mộ và biết
ơn với vợ, đã từng cảm thấy “một hối hận
chớm mọc trong linh hồn”[1] nhưng ngay sau
cái lần ấy, Tuấn đã nghĩ nhiều hơn về Cẩm.
Bởi vì Cẩm hơn Châm, mà cái sự hơn ấy lại
hợp với Tuấn lắm. Được mẹ con bà Cả cảm
ơn và dành cho niềm tri ân, Tuấn lại càng cảm
thấy mình đang dần trở nên vĩ đại trong mắt
Cẩm. Tuấn có cơ hội dạy Cẩm học võ, học
đàn. Cái sự dạy dỗ ấy như một thứ “lửa gần
rơm lâu ngày cũng bén”, mầm mống tình cảm
yêu đương đang được nhen lên. Tình cảm ấy
lại làm bà Cả nghĩ theo chiều hướng khác. Bà
cảm động khi thấy Tuấn chăm lo cho Cẩm
như anh lo cho em, săn sóc việc nhà như việc
của mình thì đã nhận Tuấn làm con nuôi. Núp
sau cái bóng ấy, quan hệ giữa Tuấn và Cẩm
càng khiến người ta không thể nghi ngờ. Nó
được bảo vệ kiên cố bằng lòng tin của cả
Châm và bà Cả.
Tuấn như được sống thêm một cuộc đời khác
từ khi có được tình cảm của Cẩm dành cho,
không lúc nào Tuấn thôi nghĩ về Cẩm và vô
hình chung, anh đã đẩy Châm sang một bên.
Người đọc dễ dàng nhận thấy, Tuấn chỉ thuộc
về Châm phần xác còn phần hồn anh ký thác
nơi Cẩm. Anh trở nên khao khát cái thân thể
nõn nường của Cẩm, càng khát khao anh càng
cảm thấy cái thân hình sồ sề của một người
đàn bà đang bụng mang dạ chửa như Châm
hoàn toàn không phù hợp với thân thể cường
tráng và khổ người đẹp như anh. Người bố
của hai đứa con ấy, trong lúc vợ về quê thu
thóc nợ đã thả sức vui chơi đàn địch với
người con gái khác cho thoả mãn với những
khát khao trong tinh thần. Họ dạy nhau học,
họ chăm sóc cho nhau từng li từng tí - “Mới
hửng sáng, Cẩm đã xuống dựng Tuấn dậy lên
gác sân tập võ. Rồi Cẩm pha sữa cho Tuấn
uống”[1]. Họ thả mình trong những đêm
trăng bát ngát cùng đàn và rượu Tây trong khi
người vợ ở quê đang tất bật thu lúa.
Tuấn đang lạm dụng lòng tin của Châm! Anh
đã từng cho rằng cái ý nghĩ sánh vai cùng
Cẩm là gian tà, đã từng hối hận, bứt rứt
nhưng rồi anh không vượt qua được. Từ khi
Cẩm xuất hiện, Tuấn sống ngợp trong cái gọi
là cảm xúc của tình yêu. Tình cảm mà Tuấn
dành cho Châm lúc này đơn thuần chỉ vì trách
nhiệm, tình nghĩa, lòng trung thành và những
đứa con chung. Trong lòng Tuấn có trăn trở,
chỉ là trăn trở bởi lòng chịu ơn với Châm. Lí
trí luôn nhắc nhở Tuấn rằng mình đã có vợ,
rằng vợ mình là một người hi sinh cho chồng
con, cho gia đình, nhưng lí trí ấy không thắng
sức hút mạnh mẽ và ghê gớm từ phía Cẩm.
Dù tòa án lương tâm dằn vặt, sự tra tấn mình,
anh vẫn cứ ao ước có được Cẩm.
Những phút giây bên nhau ngọt như mộng
ước, những cử chỉ trìu mến đong đầy yêu
thương tưởng chừng như không có điểm dừng
thì cái tin Châm thu thóc xong sắp ra đã làm
“cả hai đều thấy quặn ruột” – “thôi thế là từ
nay hết những giây phút thân mật mà người
ta hòa cảm giác vào nhau”[1]. Cẩm cáo ốm.
Mà nàng ốm thật. Còn Tuấn như người đã
chết. Chàng sụt đi trông thấy. Trước ánh mắt
xót xa của Châm, Tuấn đã dối vì nhớ Châm
mà Tuấn sa sút! Giá mà Châm biết cái tin
mình lên đã làm cho Tuấn thành ra như thế!
Giá như Châm gắt gỏng, Châm lạnh nhạt với
anh thì anh còn thấy dễ chịu hơn, đằng này
người vợ quê mùa ấy, người vợ không biết
tiếng Tây ấy lại lại rơm rớm nước mắt vì
thương chồng ở nhà một mình, tuyệt nhiên
không có một ý nghĩ lỉnh kỉnh nào hơn. Đọc
tác phẩm ta thấy Châm là một người phụ nữ
hiền đảm, rất mực cổ xưa. Một người vợ luôn
dành một niềm tin tuyệt đối nơi đức ông
chồng, lúc nào cũng chỉ thấy ở chồng mình
“siêu thường như thể - trên đời này tốt nhất là
anh”. Người mẹ ấy đã không chịu mặc tân
thời, không chịu phấn sáp nước hoa chỉ muốn
Lê Thị Ngân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 3 - 8
6
để dành tiền cho con sau này ăn học. “Nàng
đã được bảo vệ bằng một triết lý yêu đời do
giáo dục của gia đình và hoàn cảnh của nàng
trước kia gây nên, nàng chỉ thấy ở đời những
góc đẹp”[1]. Ta tự hỏi tại sao trong tác phẩm
này Lê Văn Trương lại để nhân vật Châm
không biết một chút gì về mối quan hệ của
Tuấn và Cẩm? Dù chỉ là mảy may nghi ngờ
cũng không? Đàn bà thường giỏi linh cảm. Có
thể chứng cớ chưa có, nhưng linh giác mách
nước cho họ. Mà sự lúng túng của Tuấn, sự
gượng gạo của Cẩm khi hàng ngày giáp mặt
nhau, chả nhẽ Châm không hay? Đọc Lê Văn
Trương, độc giả thấy nhân vật nữ chính của
tiểu thuyết gia thường trong sáng đến tận
cùng như thế. Tác giả không nỡ để “linh hồn
trong sáng” của nàng vương phải những vẩn
đục. Giá như Châm đời thường hơn một chút,
nàng đã biết được mối quan hệ này. Và nếu
chi tiết ấy có thật trong tác phẩm thì cũng rất
có thể tinh thần của tác phẩm lại đi theo một
hướng khác, tức là Tuấn đã thành người phản
bội rồi.
Từ ngày Châm lấy thóc ở quê ra, Tuấn và
Cẩm không có những đêm trăng đẹp nữa. Cả
hai đều có cảm giác như bị tù đày. Cẩm như
chết mòn trong tinh thần vì từ nay sẽ không
được làm nũng Tuấn nữa, sẽ không còn
những cảm giác hồi hộp yêu đương. Tuấn đau
khổ đến tận cùng bởi sự giằng xé giữa một
bên là cảm xúc yêu đương với người tình,
một bên là tình thương đối với người vợ.
Tuấn biết bên kia vách, Cẩm cũng đang vật vã
vì đau đớn, vì hờn ghen, vì cảm giác tội lỗi.
Để thoát khỏi trạng thái này, Tuấn đã tự cho
mình buông thả không cần biết ngày đêm –
“Tuấn đi chơi vì chàng không chịu được cách
mình một bức tường, có một người con gái
đau đớn vì mình mà mình không có quyền
được an ủi”[1]. Tuấn phát điên, Tuấn thấy
nhục vì phải lừa dối. Và như một thông lệ của
những kẻ đang bế tắc, con người bất đắc chí
ấy tìm đến sự giải sầu giải uất trong men
rượu. Nhưng cả rượu cũng chẳng làm cho anh
vơi đi mà chỉ làm cho anh thêm thấm thía nỗi
khổ sở đắng cay của mình. Mỗi một lần uống
là anh lại cảm thấy đau xót, hối hận, hổ
thẹn Anh vùi mình vào thế giới nửa người
nửa ma chỉ để “ru ngủ một cơn buồn”. Đó
không phải là thứ hối hận ồn ào hời hợt của
kẻ lấy việc xỉ vả mình để khoe khoang cũng
không phải là thứ hối hận có tính chu kỳ của
những kẻ dùng để xoa dịu cái lương tâm rách
nát của mình trong khi mình vẫn buông thả
theo cái xấu. Với Tuấn đó là sự giằng xé chảy
máu giữa hai thái cực: giữa một bên là sự ân
hận của mình khi đã phụ lòng tin của Châm,
đã gần như là phản bội Châm với một bên là
cái khát khao trong tình yêu với Cẩm. Tuấn là
loại nhân vật có tư tưởng, cũng là một kiểu
“người hùng” mà Lê Văn Trương cất công
xây dựng.
Tuấn đã đóng dấu được suy nghĩ của mình
rằng vĩnh viễn từ nay không thể có Cẩm từ
sau buổi nói chuyện trên gác ấy. Họ đã nói
hết cùng nhau, bộc bạch hết suy nghĩ trăn trở
mà chỉ hai người mới hiểu. Cẩm yêu cầu
Tuấn chấm dứt ngay lối sống hiện tại và
“thương em với tấm lòng ân ưu của một
người”[1] mặc dù Cẩm biết và mãi mãi biết
một khi đã không thuộc về Tuấn thì cô sẽ
không thuộc về ai. Cả hai đều thấy việc thuộc
về nhau là hoàn toàn không thể. Mối quan hệ
này sẽ không đến một cái đích nào cả bởi về
bản chất đó là một cuộc tình mù quáng, nói gì
thì nói cũng đã giẫm đạp phần nào lên gia
pháp hôn nhân! Cẩm đã chọn cách chôn vùi
những kỷ niệm đẹp đã có và sống như trước
kia. Tuấn khác, để giải quyết dứt điểm cơn
“bão tình” này anh quyết định sẽ kén chồng
cho Cẩm tuy việc ấy không khác việc anh tự
đem muối xát lòng mình.
Cẩm đã không nghe theo sự sắp đặt ấy của
Tuấn. Sau lần sát cánh cuối cùng cùng Tuấn
trong chuyến thi đấu tại Hà Nội để tranh giải
quán quân bóng bàn Bắc kì, Cẩm đã thú nhận
đã nói dối Kế và Bằng trong bữa cơm hôm ấy.
Nàng nói với hai người rằng nàng đã có người
hỏi để họ dập tắt hi vọng có đựơc Cẩm. Nói
ra điều này, Cẩm cũng đồng thời khẳng định,
nàng chỉ muốn giữ nguyên một tấm lòng yêu
Lê Thị Ngân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 3 - 8
7
với Tuấn mà thôi. Nhưng Tuấn đã quyết tâm.
Ngày nào chưa cưới được chồng cho “cô
Cẩm” ngày ấy “anh Cả” còn thấy bứt rứt
trong lòng. Phải yên vị với cái ý nghĩ rằng
Cẩm đã có chồng Tuấn mới không bị giày vò
nữa. Giải pháp này cho thấy Tuấn đã thực sự
“nhận chân lấy cái thiên chức của mình”, đã
dừng lại một cách đúng lúc, đã nhận ra rằng
chỉ có Châm mới là bến đỗ bình an nhất của
cuộc đời mình. Anh phải giữ trọn một mối
chung thủy với Châm, tin vào một hạnh phúc
gia đình có thật mà trước kia mình luôn có,
vào niềm tin son sắt của Châm.
Đám cưới của Cẩm và Kế, Tuấn cố tình tránh
mặt không đến dự. Dù rất cảm động tấm lòng
của bà Cả nhưng Tuấn biết mình không thể làm
khác, ở lại dự đám cưới - rất có thể chỉ chuốc
lấy một chứng tích trong tâm hồn mà thôi.
Cả nhà Tuấn rời Hải Phòng trong yên lặng và
đêm tối. Với Tuấn nó không khác một cuộc
chạy trốn. Khoảnh khắc ấy có hai con người
lặng lẽ bước trong nhau, lòng rạo rực – “Hình
như họ quên hết cả loài người. Họ bước mà
cũng không biết rằng mình bước, lúc ấy chân
họ chỉ có bản năng sai khiến”[1], họ không
còn bận lòng về những lối đi ẩm ướt và cũ kỹ
trong lòng nhau bởi thời gian khi ấy là một
cái gì quá đỗi xa xỉ, và người bước cạnh nhau
để tiếc thôi, chỉ tiếc thôi cũng vội vã lắm
rồi Người đọc có cảm tưởng như nhà văn
muốn dẫn người đọc đi mãi hơn là muốn
người đọc tưởng tượng sau chuyến tàu ấy,
Tuấn sẽ thế nào khi mà trước “phút sinh ly”
đó anh chỉ bước một bước nữa thôi là sang bờ
bên kia của sự phản bội?
Lê Văn Trương vẫn nổi tiếng với thế giới
nhân vật người hùng của ông. Mỗi tác phẩm,
tác giả lại đem đến cho người đọc sự trân quí
một người hùng nào đó ở một khía cạnh nào
đó trong cuộc đời cuộc đời của họ. Đó là
Giáng Vân trong Cánh sen trong bùn, là
Trọng Khang trong Trường đời, là Chí trong
Trận đời, là Vượng trong Người anh cả,
Nhưng trong tiểu thuyết Sau phút sinh ly,
người đọc thấy tác giả đã coi cả Tuấn, Châm
và Cẩm đều có thể được trân trọng gọi là
người hùng. Tuấn đã hi sinh cái cảm xúc
thăng hoa của tình yêu, hi sinh cả cái cơ ngơi
nếu lấy Cẩm có thể anh sẽ được thừa hưởng
để thủy chung với người vợ tào khang của
mình. Châm cả đời hi sinh cho chồng con,
chưa có một chút gì dám tự mình thưởng
hưởng. Cẩm đã dằn lòng quên đi mối tình đầu
ngang trái nhưng cũng đầy ngọt ngào và nồng
say của mình vì đạo lý và vì người mình yêu
thương, vì nếu như nàng cố tình tranh giành,
Châm có thể mất Tuấn lắm.
Cả ba người cùng hi sinh vì nhau như thế,
khiến cho phần kết của câu chuyện thật bâng
khuâng, đầy lắng đọng. Ranh giới của thủy
chung và phản bội mỏng manh biết bao nhiêu.
Giữ được nó ở bên bờ này hay bị đổ sang bờ
bên kia nhờ cả vào một sợi dây vô hình nhưng
bền chắc vô cùng: đó là đạo lý.
Hơn 70 năm đã qua, thiết nghĩ, câu chuyện về
nghĩa tình vẫn không bao giờ xưa cũ. Trong
giai đoạn xã hội sống đầy thực tế và có phần
bản năng như bây giờ, nhắc lại chuyện đạo lý
liệu có ai cho là giáo điều?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Văn Trương (1942), Sau phút sinh li, Hà
Nội, Nhà in Tân Dân.
2. Lan Khai (1940), Mớ tài liệu cho văn sử Việt
Nam, Nhà xuất bản Minh Phương
3. Thanh Lãng (1967), Bảng lược đồ văn học Việt
Nam, Quyển hạ, Ba thế hệ của văn học mới (1862-
1945), Trình bày xuất bản Sài Gòn.
Lê Thị Ngân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 3 - 8
8
SUMMARY
AFTER READING NOVEL SAU PHUT SINH LY OF LE VAN TRUONG,
THINK ABOUT FINE LINE BETWEEN GENERAL
AND AQUATIC BETRAYAL
Le Thi Ngan*
College of Sciences – Thai Nguyen University
Novelist Le Van Truong (1906-1964) has created a hero accepts and charm. Novel physiological
minutes later the New Democratic print publishers first time in 1942. Le Van Truong has new
problems seemed outdated by blowing into it a new spirit and to express their characters vividly
philosophy "hero" through each story page. In the work, the fine line between love and lust noble
vile, between sacrifice and selfishness, between loyalty and betrayal was the author shows quite
flexible magic. Man, to keep the moral, sometimes had to fight fierce and downright painful
sacrifices.
Keywords: Le Van Truong, hero, love, morality, loyalty, betrayal
Ngày nhận bài:28/2/2014; Ngày phản biện:01/3/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: TS. Phạm Phương Thái – Trường Đại học Khoa học – ĐHTN
* Tel: 0912 022777, Email:lengandhkhtn@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_48389_52304_792015948361_0839_2046510.pdf