Đối với lực lượng lao động trực tiếp sản xuất:
Tăng cường hơn nữa những chương trình khuyến
ngư tầm cao, ngoài hiểu biết về kỹ thuật cần tổ chức
rộng rãi và sâu sát các lớp học về pháp luật và đào
tạo hướng nghiệp cho người nuôi tôm hùm lồng,
tạo điều kiện cho người nuôi tôm, vừa tham gia khai
thác tốt nguồn lợi thủy sản, vừa bảo vệ và phát triển
môi trường, nguồn lợi thủy sản. Trung tâm khuyến
ngư và các trường đào tạo của tỉnh Khánh Hòa,
của thành phố Cam Ranh cần phải tăng cường mở
thêm những lớp tập huấn ngắn hạn và trung hạn
cho người nuôi tôm. Công nhân kỹ thuật và người
sản xuất chính cần được đào tạo vừa cơ bản, vừa
thường xuyên, do các tiến bộ và công nghệ nuôi
tôm thường tiến rất nhanh.
Tạo điều kiện cho người dân tiếp cận với nguồn
vốn vay tín dụng, giải quyết nhanh chóng các thủ tục
vay vốn. Đồng thời kêu gọi các chính sách hỗ trợ từ
Nhà nước như các gói tín dụng với lãi suất ưu đãi,
giảm thuế
7 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 179 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đo lường lợi nhuận cho nghề nuôi tôm hùm tại thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015
176 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
ĐO LƯỜNG LỢI NHUẬN CHO NGHỀ NUÔI TÔM HÙM
TẠI THÀNH PHỐ CAM RANH, TỈNH KHÁNH HÒA
PROFITABILITY ANALYSIS FOR LOBSTER SHIRMP AQUACULTURE
IN CAM RANH CITY, KHANH HOA PROVINCE
Nguyễn Đức Toàn1, Quách Thị Khánh Ngọc2
Ngày nhận bài: 06/01/2015; Ngày phản biện thông qua: 27/02/2015; Ngày duyệt đăng: 10/6/2015
TÓM TẲT
Nghiên cứu đo lường lợi nhuận cho các lồng nuôi tôm hùm tại Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa năm 2012 -2013. Trong
94 hộ được khảo sát, Lợi nhuận bình quân/lồng là 10 triệu VNĐ/lồng, nhỏ nhất là - 82 triệu VNĐ/ lồng, lớn nhất là 58 triệu
VNĐ/lồng. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu trung bình của một lồng là 0,04, tỷ suất lợi nhuận trên chi phí trung bình là
0,06. Kết quả nghiên cứu hàm ý rằng (i) mặc dù nghề nuôi tôm hùm lồng tại Cam Ranh đang gặp khó khăn nhưng các hộ
vẫn tiếp tục tham gia nuôi; (ii) tôm hùm lồng đây là nghề rủi ro lớn nhưng sức hấp dẫn của nghề cao.
Từ khóa: lợi nhuận, tôm hùm lồng, Cam Ranh
ABSTRACT
This study analyzes profi tability for the lobster shrimp aquaculture in Cam Ranh city, Khanh Hoa province year of
2012 - 2013. In 94 households surveyed, Profi t per cage is 10 million VNDs/cage, the smallest value is - 82 million VNDs/
cage, the maximum value is 58 million VNDs/cage. The ratio of profi t on revenue is 0.04; the ratio of profi t on cost is 0.06.
This imply that (i) although the lobster shrimp aquaculture in Cam Ranh is in diffi culty, the aquacultue cages still are in
production; (ii) the lobster shrimp aquaculture is really risky but incentive .
Keywords: profi tability, lobster shrimp, Cam Ranh
1 Nguyễn Đức Toàn: Cao học Kinh tế thủy sản 2010 - Trường Đại học Nha Trang
2 TS. Quách Thị Khánh Ngọc: Khoa Kinh tế - Trường Đại học Nha Trang
KEÁT QUAÛ NGHIEÂN CÖÙU ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tôm hùm (Panulirus.spp) thuộc họ Palinuniade
là loài tôm có giá trị kinh tế cao. Ở Việt Nam có 7
loài tôm hùm gồm tôm hùm bông, tôm hùm đá, tôm
hùm sỏi, tôm hùm đỏ, tôm hùm ma, tôm hùm sen
và tôm hùm bùn [1]. Nghề nuôi tôm hùm bằng lồng
ở Việt Nam bắt đầu phát triển từ năm 2000, phân
bố từ Quảng Bình đến Bình Thuận nhưng tập trung
chủ yếu ở các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên,
Khánh Hòa, Ninh Thuận. Sản lượng trung bình hàng
năm đạt gần 1.400 tấn, chủ yếu là tôm hùm bông và
tôm hùm xanh mang lại nguồn thu hơn 3.500 tỷ đồng
mỗi năm. Hiện cả nước có khoảng 43.000 lồng, tập
trung nhiều nhất ở Phú Yên và Khánh Hòa [2].
Tại Cam Ranh, từ năm 2000 đến 2004, số lồng
tôm hùm tăng hơn 12 lần, sản lượng tôm thương
phẩm tăng 6,6 lần. Riêng năm 2003, sản lượng
tôm thương phẩm đạt 400 tấn, trị giá khoảng 200
tỷ đồng, tại thời điểm số lồng nuôi đạt cao nhất là
2006 - 2007 với số lượng lên đến 12.000 lồng. Sở dĩ
nghề nuôi tôm hùm phát triển mạnh mẽ như vậy do
những thuận lợi về nhiệt độ, môi trường nước như:
độ mặn, các yếu tố thủy lý, dòng chảy, thủy triều, ít bị
tác động của bão gió và có nguồn thức ăn tự nhiên
dồi dào. Đến 2013, Cam Ranh có 405 bè nuôi tôm
hùm với số lượng 7.950 lồng [4]. Tuy nhiên, tình hình
dịch bệnh trên tôm hùm nuôi diễn biến ngày càng
phức tạp, nhiều vùng nuôi chưa thể kiểm soát được
dịch bệnh gây tâm lý lo ngại cho người nuôi. Hiện
nay công nghệ nuôi tôm hùm lồng vẫn áp dụng theo
kiểu truyền thống, quy mô nhỏ lẻ. Thức ăn chủ yếu
hiện nay cho tôm hùm là cá tạp nên dễ gây ô nhiễm
môi trường nuôi, trong khi đó thức ăn công nghiệp
cho tôm hùm chưa được sản xuất
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 177
Trước thực trạng trên, việc tìm hiểu hiện trạng
và đánh giá lợi nhuận của nghề nuôi tôm hùm lồng
tại Cam Ranh trong thời gian qua là rất cần thiết,
nhằm tạo cơ sở khoa học cho việc quy hoạch vùng
nuôi của địa phương, giúp cho nghề nuôi tôm hùm
lồng phát triển ổn định và bền vững.
II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lý thuyết
- Nghiên cứu về lợi nhuận với quy trình như sau:
Tổng doanh thu
- Chi phí biến đổi
- Chi phí cố định
= Lợi nhuận
Đo lường lợi nhuận của Lồng nuôi tôm hùm trong
nghiên cứu được đo lường bằng các chỉ số: Lợi nhuận/
Lồng, Lợi nhuận/ Doanh thu, Lợi nhuận/ Chi phí [3].
Lợi nhuận/lồng: Đây chính là lợi nhuận thực sự
của nông hộ. Chỉ số này dương cho thấy nông hộ có
đủ khả năng tái đầu tư trong dài hạn. Sự bền vững
của sản xuất chỉ thực sự đạt được nếu lợi nhuận/
lồng dương.
Tỷ số lợi nhuận trên doanh thu là một tỷ số tài
chính dùng để theo dõi tình hình sinh lợi của hộ
nuôi. Nó phản ánh quan hệ giữa lợi nhuận ròng và
doanh thu của hộ nuôi. Tỷ số này cho biết lợi nhuận
chiếm bao nhiêu phần trăm trong doanh thu. Tỷ số
này mang giá trị dương nghĩa là hộ nuôi có lãi; tỷ số
càng lớn nghĩa là lãi càng lớn. Tỷ số mang giá trị âm
nghĩa là hộ nuôi thua lỗ.
Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí: Chỉ tiêu này phản
ánh cứ một đồng chi phí bỏ ra thì thu được bao nhiêu
đồng lợi nhuận, chỉ tiêu này càng lớn thì chứng tỏ
với một mức chi phí thấp cũng cho phép mang lại lợi
nhuận cao cho hoạt động nuôi của hộ nuôi.
- Nghiên cứu lượng chất thải ra môi trường
sử dụng chỉ số hàm lượng N hoặc P thải ra từ các
hộ nuôi tôm hùm đại diện cho chất lượng nước tại
khu vực nghiên cứu. Tuy nhiên, do không có số liệu
về hàm lượng P trong thịt tôm hùm nên nghiên cứu
chọn N là chỉ sô đại diện.
Ước tính lượng P, N thải ra môi trường:
L = P x (Fc x Cfeed – Cfi sh)
Trong đó:
L: lượng N hoặc P thải vào môi trường (kg/m2)
P: tổng sản lượng sản xuất (kg/ m2)
Fc: hệ số chuyển đổi thức ăn (khác nhau cho
từng hộ)
Cfeed: hàm lượng N/P trong thức ăn (%)
Cfi sh: hàm lượng N/P trong tôm hùm (%) thông
tin này được sử dụng từ các nghiên cứu trước [5].
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Dữ liệu nghiên cứu
2.1.1. Địa bàn và qui mô nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các lồng nuôi tôm hùm
tại thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa năm 2012
- 2013, số lượng mẫu nghiên cứu là 94 mẫu.
2.1.2. Phương pháp chọn mẫu nghiên cứu
Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản
bằng cách dựa vào danh sách các hộ nuôi, sau đó
rút thăm ngẫu nhiên không lặp lại từ danh sách lập
để chọn ra các hộ cần điều tra. Số liệu thu thập bằng
phương pháp phỏng vấn trực tiếp chủ hộ.
2.2. Phương pháp phân tích dữ liệu
Lợi nhuận lồng nuôi trong nghiên cứu được đo
lường bằng các chỉ số: Lợi nhuận/lồng, Lợi nhuận/
Doanh thu, Lợi nhuận/ Chi phí.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Lợi nhuận của nghề nuôi tôm hùm lồng tại
Cam Ranh
Đánh giá lợi nhuận của các hộ nuôi tôm hùm
lồng tại Cam Ranh được trình bày như bảng 1.
Bảng 1. Kết quả kinh tế của nghề nuôi tôm hùm lồng tại Cam Ranh
Tiêu chí Trung bình Giá trị nhỏ nhất Giá trị lớn nhất
1. Số lồng (lồng) 19 2 30
2. Doanh thu/lồng (triệu đồng/lồng) 170 140 200
3. Chi phí/ha (triệu đồng/lồng) 160 142 282
- Chi phí biến đổi/lồng (triệu đồng/lồng) 40 60 80
- Chi phí cố định/lồng (triệu đồng/lồng) 120 80 202
5. Lợi nhuận/lồng (triệu đồng/lồng) 10 -82 58
6. Lợi nhuận/doanh thu 0,04 -0,6 0,29
7. Lợi nhuận/chi phí 0,06 -0,40 0,2
(Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra, năm 2013).
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015
178 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tại Cam Ranh, lợi nhuận/lồng tôm hùm trung
bình là 10 triệu đồng/ lồng.
Lợi nhuận/ doanh thu nuôi tôm hùm trung bình
là 0,04 nghĩa là cứ 100 đồng doanh thu thu được có
4 đồng lợi nhuận. So sánh với lãi suất ngân hàng
thì tỷ lệ này rất thấp. Kết quả tính toán cho thấy có
sự chênh lệch lớn giữa giá trị nhỏ nhất và giá trị lớn
nhất về lợi nhuận thu được trên mỗi lồng nuôi, thể
hiện sự khác biệt về hiệu quả kinh tế của việc nuôi
tôm hùm lồng giữa các hộ là rất lớn. Điều này ngụ ý
nghề nuôi tôm hùm lồng này có mức độ độ rủi ro cao
nhưng cũng là nghề hấp dẫn do các hộ lãi có giá trị
lợi nhuận ròng lớn.
Lợi nhuận/chi phí hộ nuôi tôm hùm trung bình là
0,06 nghĩa là cứ 100 đồng chi phí bỏ ra thu được 6
đồng lợi nhuận.
Nghề nuôi tôm hùm lồng này có mức độ độ rủi
ro cao nhưng cũng là nghề hấp dẫn do các hộ lãi
có giá trị lợi nhuận ròng lớn. Rủi ro cao là do một
số nguyên nhân như: Nguồn khai thác ngày càng
giảm nên không cung ứng đủ cho nhu cầu nuôi;
chất lượng con giống kém khiến người nuôi gặp
nhiều rủi ro. Con tôm hùm giống cũng đang bị thả
nổi về công tác kiểm soát, kiểm dịch nên tôm có
mầm bệnh cũng không ai biết. Thêm vào đó, công
nghệ nuôi tôm hùm hiện nay vẫn theo cách truyền
thống là mỗi bè có khoảng 4- 10 lồng, mỗi lồng thả
nuôi khoảng 100 con. Con tôm hùm khoái ăn tươi
nên thức ăn cho chúng là các loại cá tạp, cua, sò
Khi tôm ăn không hết, còn thức ăn thừa chúng ăn đi
ăn lại vừa gây bệnh cho tôm vừa gây ô nhiễm môi
trường nước. Đó là một trong những nguyên nhân
gây bùng phát dịch bệnh; đặc biệt là các bệnh tôm
sữa, đen mang Nguyên nhân ban đầu được các
nhà chuyên môn cho là do thức ăn kém phẩm chất.
Mật độ nuôi tôm quá dày cũng làm tăng nhanh
độ ô nhiễm vùng, bệnh xuất hiện nhiều, tỉ lệ sống
của tôm hùm giảm dần. Quy hoạch chỉ cho phép
khoảng cách giữa cụm bè này với cụm bè kia phải
đạt tối thiểu 100m. Nhưng hiện nay trong vùng tôm
chết nhiều, các bè tôm nằm san sát nhau, ước tính
mật độ dày gấp hơn ba lần so với tiêu chuẩn trong
vùng quy hoạch. Quy định chỉ 30 - 60 lồng/ha nhưng
ở Cam Ranh nuôi 75 lồng/ha. Ngoài ra mật độ tôm
nuôi quy định chỉ 50 con/lồng, nhưng ở đây nuôi với
mật độ cao hơn 2-4 lần [4].
Bên cạnh nỗi lo về dịch bệnh, đầu ra, giá cả
tôm hùm cũng đang là mối quan tâm hàng đầu của
người nuôi. Chẳng hạn, những ngày đầu năm 2013,
giá tôm lên đến gần 2,5 triệu đồng/kg, nhưng sau
đó giảm xuống từ 1,8 - 2,3 triệu đồng/kg và nay chỉ
còn khoảng 1,6 triệu đồng/kg. Không những thế,
sản lượng tôm hùm thấp, không đều, xuất khẩu tiểu
ngạch sang thị trường Trung Quốc hoặc tiêu thụ
nội địa [2].
2. Kiể m đị nh phương sai cho năng suất tôm hùm
lồng tại Cam Ranh, Khánh Hòa
Kiểm định phương sai cho năng suất theo nhóm
kinh nghiệm người nuôi, theo trình độ học vấn, theo
lao động, theo chi phí biến đổi, chỉ có theo trình độ
học vấn là có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê.
Cặ p giả thiế t :
Ho : Không có sự khá c nhau giữ a năng suấ t
theo cá c nhó m trì nh độ họ c vấ n
H1 : Có sự khá c nhau giữ a năng suấ t theo cá c
nhó m trì nh độ họ c vấ n
Bả ng 2. Kiể m đị nh sự khá c nhau củ a năng suấ t trung bì nh giữa cá c nhó m học vấn
Levene Statistic df1 df2 Sig.
0,969 4 89 0,383
Loại biến thiên Biến thiên Df Trung bình biến thiên F Sig.
Giữa nhóm 1471,900 4 735,950 3,328 0,040
Trong nhóm 22112,296 89 221,123
Tổng 23584,196 93
(I) trinhdo (J) trinhdo Khác biệt trung bình (I-J)
Sai lệch
chuẩn Sig.
Khoảng tin cậy 95%
Chỉ số dưới Chỉ số trên
Học trung học Đã qua đào tạo -8,06234* 3,31561 0,044 -15,9506 -,1741
Đã qua đào tạo Học đại học, cao đẳng -0,37738 9,04378 0,999 -21,8935 21,1388
Học đại học, cao đẳng Học trung học 8,43972 8,77228 0,602 -12,4305 29,3100
(Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra, năm 2014)
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 179
Kiểm định phương sai, vớ i mứ c ý nghĩ a
Sig = 0,383 > 0,05 nên chấ p nhậ n giả thiế t H0 vớ i
kiể m đị nh phương sai. Tứ c là không có sự khá c
nhau giữ a phương sai giữ a năng suấ t theo cá c
nhó m trì nh độ họ c vấ n ngườ i nuôi.
Như vậ y, phân tí ch ANOVA để cho thấ y sự khá c
nhau giữ a cá c nhó m. Phân tích ANOVA, vớ i mứ c
ý nghĩ a Sig = 0,040 < 0,05 nên bá c bỏ giả thiế t H0,
chấ p nhậ n giả thiế t H1. Để biế t đượ c sự khá c nhau
giữ a năng suấ t cá c nhó m theo trì nh độ họ c vấ n, sử
dụ ng kiể m đị nh t từ ng cặ p để phân tí ch.
Ở nhóm người nuôi có trình độ học trung học và
nhóm người nuôi có trình độ đã qua đào tạo có sự
khác nhau đáng kể về năng suất nuôi. Cụ thể, năng
suất trung bình của nhóm người nuôi đã qua đào
tạo cao hơn năng suất trung bình của nhóm người
nuôi có trình độ học trung học. Với độ tin cậy 95%
thì mức ý nghĩa Sig = 0,044 < 0,05 nên kiểm định có
mức ý nghĩa thống kê.
Với nhóm người nuôi có trình độ học vấn học
đại học, cao đẳng thì năng suất trung bình cao hơn
nhóm người nuôi có trình độ đã qua đào tạo. Tuy
nhiên với mức ý nghĩa của kiểm định Sig = 0,999 thì
kiểm định không có ý nghĩa thống kê nên chưa thể
kết luận có sự khác biệt giữa năng suất hai nhóm
người nuôi có trình độ học vấn học đại học, cao
đẳng và nhóm đã qua đào tạo.
Đối với nhóm ngườ i nuôi có trì nh độ họ c vấ n là
cao đẳ ng, đạ i họ c so với nhó m ngườ i nuôi có trì nh
độ họ c vấ n họ c trung họ c thì mức ý nghĩa Sig cũng
lớn hơn 0,05 nên không có ý nghĩa thống kê.
Như vậ y, qua phân tí ch ở trên có thể thấ y giữa
2 trình độ trung học và qua đào tạo thì những người
nuôi có trình độ đã qua đào tạo có năng suất lớn
hơn. Giữa các cặp trình độ trung học với cao đẳng
đại học và nhóm trình độ đại học, cao đẳng với đã
qua đào tạo thì không thể kết luận được là có sự
khác biệt về năng suất vì không có ý nghĩa thống kê.
3. Tình hình vay vốn và lượng chất thải ra môi
trường tôm hùm lồng tại Cam Ranh, Khánh Hòa
Để hiểu sâu hơn về vốn cho các hộ nuôi tôm,
nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát, điều tra 94
hộ nuôi tôm với kết quả như sau: có 68,4% hộ nuôi
tôm cho biết họ vay ngắn hạn theo mùa; chỉ có 8,4%
là thường xuyên có nhu cầu vay. Tuy nhiên cũng có
21,5% ít khi vay vốn và 1,6% ý kiến trả lời cho biết
họ chưa vay lần nào. Mức độ khó khăn khi vay vốn
của những người nuôi tôm, kết quả khảo sát có đến
81,5% ý kiến cho rằng việc vay vốn ở các tổ chức
tín dụng chính thức (ngân hàng và quỹ tín dụng) là
khó khăn và rất khó khăn. Chỉ có 19,5% cho rằng,
việc vay vốn từ các nguồn chính thức là dễ dàng.
Trong khi đó cũng chỉ có 0,6% cho rằng việc vay vốn
là rất dễ dàng. Tìm hiểu rõ hơn nguyên nhân người
nuôi tôm không vay vốn từ ngân hàng để từ đó có
giải pháp, cơ chế chính sách về vốn hợp lý hơn cho
người nuôi tôm, kết quả khảo sát cho thấy có 40,9%
người nuôi tôm không vay được vốn từ các ngân
hàng là do không đủ tài sản thế chấp để được vay
vốn hoặc định giá trị tài sản thế chấp không phù hợp
với giá thị trường (thấp hơn giá thị trường); 37,4%
không vay vốn vì lãi suất cho vay quá cao, sản xuất
khó có khả năng thu hồi vốn; 13,6% viện dẫn lý do
bị từ chối khi xin vay, trường hợp này chủ yếu hồ sơ
không hợp lệ hoặc các dự án không khả thi; 5,6%
cho là thủ tục vay vốn phức tạp và 2,5% vì lý do
khác như không biết thủ tục vay vốn, vay của người
thân, vay trong xóm.
Trong 1 vụ với thời gian nuôi trung bình là 20
tháng, với lượng mẫu thu thập là 94 mẫu, sản lượng
184,5 tấn thì tổng lượng N thải ra môi trường là
khoảng 75,5 tấn. Với tổng số lồng của Cam Ranh là
7.950 lồng, 300 tấn thương phẩm (theo báo cáo của
Phòng Nông nghiệp Thành phố Cam Ranh, 2013)
thì tổng số lượng N thải ra môi trường là khoảng
122,68 tấn. Ước tính tổng chi phí chất thải N là
16,50 tỷ - 32,97 tỷ đồng. Thông tin này chỉ mang tính
tương đối vì con số này có thể thay đổi phụ thuộc
vào rất nhiều yếu tố: giá tôm bán trên thị trường, giá
trị chuyển đổi trong chi phí xử lý, khả năng tự xử lý
của môi trường.
4. Đánh giá chung về nghề nuôi tôm hùm lồng
tại Cam Ranh
4.1. Thành tựu và hạn chế của nghề nuôi tôm hùm
lồng tại Cam Ranh
4.1.1. Thành tựu đạt được
Tổng số lồng nuôi tôm hùm tại Cam Ranh tăng
lên nhanh chóng. Mặc dù nghề nuôi tôm hùm ở
Cam Ranh góp phần rất lớn và việc giải quyết công
ăn việc làm, tăng thêm sinh kế cho người dân, góp
phần phát triển các nghề khác: du lịch, chế biến
Số lồng trung bình của 1 hộ nuôi tôm hùm tại
Cam Ranh là 19 lồng, hộ nhỏ nhất là 2 lồng, lớn nhất
là 30 lồng. Doanh thu trung bình 1 lồng là 170 triệu
đồng/ lồng, nhỏ nhất là 140 triệu đồng/lồng, lớn nhất
là 200 triệu đồng/lồng. Lợi nhuận bình quân/lồng là
10 triệu/lồng, nhỏ nhất là -82 triệu đồng/ lồng, lớn
nhất là 58 triệu đồng/lồng. Tỷ suất lợi nhuận trên
doanh thu trung bình của một lồng là 0,04, tỷ suất
lợi nhuận trên chi phí trung bình là 0,06.
Nghề nuôi tôm hùm lồng tại Cam Ranh giải
quyết việc làm cho các hộ gia đình trực tiếp,
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015
180 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
và hàng ngàn hộ gia đình gián tiếp khác: nậu vựa,
chế biến, cung ứng thức ăn, con giống
4.1.2. Hạn chế
Dịch bệnh sữa trên tôm hùm lồng đã gây thiệt
hại cho người nuôi tôm. Nhiều gia đình lâm vào
cảnh trắng tay, nợ nần chồng chất. Bên cạnh đó, do
chưa có quy hoạch tổng thể, người nuôi phát triển
tự phát nên chưa nắm vững quy trình, kỹ thuật từ
khâu chọn địa điểm, mật độ, hướng đặt bè tôm, sử
dụng và bảo quản thức ăn, đến xử lý chất thải. Hậu
quả nhãn tiền là nguồn nước, môi trường vùng nuôi
bị ô nhiễm, tôm mắc bệnh chết hàng loạt. Tuy nhiên,
cùng với sự phát triển của nghề nuôi tôm hùm tại
Cam Ranh như hiện nay, thiệt hại do ảnh hưởng từ
thiên nhiên, môi trường, dịch bệnh ngày càng lớn.
Bênh cạnh đó, vấn đề giá cả cũng ảnh hưởng
rất lớn đến người nuôi tôm hùm lồng tại Cam Ranh.
Hiện chưa thể cho tôm hùm sinh sản trong môi
trường nhân tạo. Toàn bộ số tôm hùm con đưa vào
nuôi là do ngư dân bẫy bắt ngoài môi trường thiên
nhiên. Lượng tôm con năm ít, năm nhiều, giá cả
thiếu ổn định. Do khan hiếm, mỗi con tôm hùm con
(loại tôm trắng) có giá tới 350 nghìn đến gần 400
nghìn đồng [4]. Bên cạnh đó, do kích cỡ khác nhau,
nguồn giống khác nhau, sức khỏe khác nhau, cho
nên khi thả nuôi rất vất vả. Đó là chưa kể tới việc
không kiểm soát được tình trạng dịch bệnh của tôm
con, cho nên hiệu quả phòng, chống dịch rất thấp.
Bên cạnh đó, vấn đề đầu ra của tôm hùm
cũng rất bấp bênh. Do giá tôm năm có thời điểm
hạ (khoảng 1,6 đến 1,8 triệu đồng/kg loại một), có
thời điểm lại ít dịch bệnh, giá tôm 2,5 đến 2,8 triệu
đồng/kg [4].
Nghề nuôi tôm hùm lồng phát triển, kéo theo đó
là sự phát triển của nghề khai thác tôm hùm giống
cung cấp cho các vùng nuôi. Những loài tôm là đối
tượng nuôi chính như: tôm hùm bông, tôm hùm đá
càng, tôm con được gia tăng cường độ đánh bắt,
khai thác. Mặt khác, trong quá trình nuôi, tỷ lệ tôm
chết do bệnh dịch khá lớn làm nhu cầu con giống
ngày một tăng, dẫn đến việc khai thác tôm hùm
giống trở nên quá mức. Tại Khánh Hòa, việc khai
thác tôm hùm giống tập trung chủ yếu ở 3 khu vực.
Trong đó, vùng biển Đầm Môn - Đại Lãnh với diện
tích khai thác 11,7km2; vùng biển đầm Nha Phu -
vịnh Nha Trang với diện tích khai thác gần 29,1km2;
vùng biển Bãi Dài (Cam Ranh) với diện tích gần
15,5km2. Loài tôm hùm khai thác gồm: tôm hùm
bông, tôm hùm đá, tôm hùm tre, tôm hùm đỏ và tôm
hùm sỏi. Tuy nhiên, tôm hùm bông và tôm hùm đá
là 2 loài nuôi phổ biến và có giá trị kinh tế nên được
người khai thác chú ý hơn so với các loài khác.
Mùa vụ đánh bắt tôm hùm giống thường bắt đầu
từ tháng 11 năm trước và kéo dài đến tháng 4 năm
sau. Tỷ lệ các kích cỡ tôm hùm giống được khai thác
từ 7 - 8mm chiều dài giáp đầu ngực, chúng có màu
trắng hoặc trắng hồng, chiếm khoảng 78 - 83%; tôm
giống cỡ lớn hơn 9 - 11mm chiều dài giáp đầu ngực,
được gọi là tôm “bọ cạp”, chiếm 15 - 16%; một số
ít tôm con cỡ lớn được khai thác chủ yếu bằng lặn
bắt chiếm 2 - 6%. Hiện nay, ngư dân khai thác tôm
hùm giống chủ yếu dưới các hình thức bằng mành,
bẫy và lặn. Trong đó, khai thác bằng mành có tỷ lệ
cỡ tôm “trắng” và “trắng hồng” là 100%; khai thác
bằng bẫy có cỡ tôm “trắng hồng” chiếm 95%, cỡ
tôm “bọ cạp” chiếm 5%; khai thác bằng lặn có cỡ
tôm “trắng” và “trắng hồng” chiếm 20 - 30%, cỡ tôm
“bò cạp nhỏ” chiếm 50 - 60% và những cỡ tôm lớn
hơn chiếm 15 - 25%. Theo quy định của Luật Thủy
sản và Pháp lệnh Bảo vệ nguồn lợi thủy sản, tôm
hùm chỉ được phép khai thác khi cân nặng trung
bình từ 150g trở lên; từ tháng 4 đến tháng 8 hàng
năm, thời điểm tôm hùm đang kỳ sinh sản, không
được phép khai thác dưới bất kỳ hình thức nào. Nếu
đơn vị, tổ chức, cá nhân nào vi phạm sẽ bị tịch thu
toàn bộ phương tiện đánh bắt, số tôm thu được sẽ
thả về biển và phạt hành chính từ 500 ngàn đến
5 triệu đồng/vụ, tùy vào lượng tôm khai thác nhiều
hay ít. Tuy nhiên, nghề khai thác tôm hùm trên địa
bàn tỉnh đang diễn ra tự nhiên, công khai mà không
hề có sự giám sát của cơ quan chức năng và chính
quyền địa phương. Đây cũng là nguyên nhân khiến
nguồn lợi tôm hùm giống có nguy cơ cạn kiệt [4].
Trước thực trạng trình độ của người nuôi tôm
nên khả năng xây dựng phương án sản xuất hoặc
lập dự án đầu tư còn nhiều hạn chế dẫn đến tình
trạng người nuôi rất khó tiếp cận được đồng vốn
vay, nhất là vay ưu đãi. Bên cạnh những lý do trên
còn có các nguyên nhân khác như: tôm bị chết dẫn
đến nợ xấu và nợ quá hạn nên năm sau tiếp tục nuôi
thì người nuôi tôm không có khả năng tiếp cận được
đồng vốn; sự biến động của chi phí đầu vào (trong
đó có lãi suất ngân hàng) và giá cả đầu ra nên có
thể năm nay nuôi lời nhưng năm sau lại lỗ, người
nuôi tôm không thể dự báo được thị trường và giá
cả thị trường.
4.2. Một số nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng đến các
hộ nuôi tôm hùm lồng tại Cam Ranh
Các hộ nuôi nuôi với mật độ dày, do đó việc gây
bệnh là thường xuyên xảy ra. Để cứu tôm, trong
những năm qua, các ngành chuyên trách đã đưa
ra nhiều giải pháp. Tuy nhiên, đến nay việc ngăn
chặn tôm chết vẫn chưa thực sự hiệu quả. Tôm hùm
nuôi chết hàng loạt là do bị bệnh sữa, đen mang,
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 181
long đầu, vẫn biết đây là loại bệnh thường gặp trên
tôm. Song, phác đồ điều trị vẫn chưa thống nhất,
thiếu sức thuyết phục, và vì vậy, nông dân vẫn đang
mày mò thử nghiệm [4].
Giá tôm hùm giống không ổn định do phụ thuộc
vào nguồn cung tự nhiên. Do tôm hùm giống bán
được giá cao nên người dân tận thu, bắt cả những
con tôm có kích thước rất nhỏ; cách thức vận
chuyển, lưu giữ và ương tôm giống lại chưa phù
hợp khiến tỷ lệ hao hụt tôm hùm giống lên đến 50%.
Giá tôm hùm thương phẩm bấp bênh, do phụ thuộc
nhiều vào giá thị trường xuất khẩu.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Nghiên cứu lợi nhuận của nghề nuôi tôm hùm
thương phẩm tại Cam Ranh năm 2012 -2013 cho
thấy: Số lồng trung bình của 1 hộ nuôi tôm hùm tại
Cam Ranh là 19 lồng, hộ nhỏ nhất là 2 lồng, lớn nhất
là 30 lồng. Doanh thu trung bình 1 lồng là 170 triệu
đồng/ lồng, nhỏ nhất là 140 triệu đồng/lồng, lớn nhất
là 200 triệu đồng/lồng. Lợi nhuận bình quân/lồng là
10 triệu đồng/lồng, nhỏ nhất là -82 triệu đồng/ lồng,
lớn nhất là 58 triệu đồng/lồng. Tỷ suất lợi nhuận trên
doanh thu trung bình của một lồng là 0,04, tỷ suất
lợi nhuận trên chi phí trung bình là 0,06. Nghề nuôi
tôm hùm lồng tại Cam Ranh giải quyết việc làm cho
nhiều gia đình trực tiếp và hàng ngàn hộ gia đình
gián tiếp khác: nậu vựa, chế biến, cung ứng thức
ăn, con giống
Nguyên nhân người nuôi tôm không vay vốn từ
ngân hàng để từ đó có giải pháp, cơ chế chính sách
về vốn hợp lý hơn cho người nuôi tôm, kết quả khảo
sát cho thấy có 40,9% người nuôi tôm không vay
được vốn từ các ngân hàng là do không đủ tài sản
thế chấp để được vay vốn hoặc định giá trị tài sản
thế chấp không phù hợp với giá thị trường (thấp hơn
giá thị trường); 37,4% không vay vốn vì lãi suất cho
vay quá cao, sản xuất khó có khả năng thu hồi vốn;
13,6% viện dẫn lý do bị từ chối khi xin vay, trường
hợp này chủ yếu hồ sơ không hợp lệ hoặc các dự
án không khả thi; 5,6% cho là thủ tục vay vốn phức
tạp và 2,5% vì lý do khác như không biết thủ tục
vay vốn, vay của người thân, vay trong xóm. Trước
thực trạng trình độ của người nuôi tôm thấp nên
khả năng xây dựng phương án sản xuất hoặc lập
dự án đầu tư còn nhiều hạn chế dẫn đến tình trạng
người nuôi rất khó tiếp cận được đồng vốn vay, nhất
là vay ưu đãi. Bên cạnh những lý do trên còn có
các nguyên nhân khác như: tôm bị chết dẫn đến
nợ xấu và nợ quá hạn nên năm sau tiếp tục nuôi thì
người nuôi tôm không có khả năng tiếp cận được
đồng vốn; sự biến động của chi phí đầu vào (trong
đó có lãi suất ngân hàng) và giá cả đầu ra nên có
thể năm nay nuôi lời nhưng năm sau lại lỗ, người
nuôi tôm không thể dự báo được thị trường và giá
cả thị trường.
2. Kiến nghị
- Đối với người nuôi
Tăng cường học hỏi, đúc kết kinh nghiệm
để nâng cao kiến thức quản lý cũng như kỹ thuật
nuôi tôm tôm hùm lồng. Đoàn kết, tự giác, có trách
nhiệm trong việc phòng chống dịch bệnh, giữ sạch
môi trường và nguồn nước nuôi. Không sử dụng
các hóa chất, thuốc và thức ăn có hàm lượng các
chất vượt quá giới hạn cho phép nằm trong danh
mục cấm sử dụng, đồng thời thường xuyên theo
dõi thường xuyên danh mục cập nhật các hóa chất,
kháng sinh cấm để thực hiện kịp thời.
Người nuôi nên kết hợp nuôi tôm hùm với một
số đối tượng có giá trị cả về kinh tế và môi trường.
Ví dụ, nuôi tu hài thương phẩm bằng lồng (khay)
treo dưới bè. Hình thức nuôi trên có ưu điểm là
không tốn chi phí đầu tư làm bè riêng mà chỉ cần
gia cố bè nuôi tôm hùm có sẵn. Đây là phương thức
nuôi sáng tạo trong điều kiện chưa có quy hoạch
vùng nuôi riêng cho tu hài tại các đầm, vịnh. Với
phương thức này, người nuôi thường treo khoảng
100 lồng (khay) tu hài vào bè nuôi tôm hùm sau khi
đã được gia cố với số lượng tu hài giống từ 5.000 -
6.000 con. Thực tế cho thấy, tu hài nuôi chung với
tôm hùm phát triển nhanh hơn so với tu hài nuôi
bằng bè riêng. Chỉ sau 10 - 11 tháng, tu hài đạt kích
cỡ 50 con/kg trở lên và có thể thu hoạch, tỷ lệ sống
đạt trên 90%, trong khi tu hài nuôi bằng bè riêng thì
phải sau 13 - 14 tháng nuôi mới đạt kích cỡ 50 con/
kg, tỷ lệ sống chỉ đạt 80 - 85% [4].
- Đối tỉnh Khánh Hòa
Nâng cao hiệu quả công tác quan trắc, cảnh
báo môi trường tại các vùng nuôi tôm tập trung. Đẩy
mạnh nghiên cứu các biện pháp phòng, trị các loại
bệnh trên tôm nuôi. Chuẩn hóa hệ thống phòng xét
nghiệm bệnh tôm để tránh gây những tổn thất không
đáng có cho người nuôi và người sản xuất giống.
Có chính sách thu hút, đào tạo đội ngũ cán bộ
thủy sản. Đồng thời thường xuyên tổ chức các cuộc
hội thảo, các đợt tập huấn về kỹ thuật nuôi tôm,
thông qua đó trao đổi kinh nghiệm, tìm ra giải pháp
nuôi tôm hiệu quả hơn, truyền đạt và chuyển giao
những kỹ thuật nuôi tiên tiến cho người dân để họ
áp dụng vào quá trình nuôi tôm. Trong thời gian tới
cần có giải pháp: Sắp xếp và tổ chức lại, củng cố,
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2015
182 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
nâng cấp, mở rộng, hệ thống cơ sở đào tạo nguồn
nhân lực thủy sản phù hợp với nhu cầu phát triển
sản xuất. Ban hành chính sách khuyến khích các
cơ sở nghiên cứu, đào tạo gắn kết với các doanh
nghiệp, trang trại và cơ sở sản xuất để đưa nhanh
tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất.
Đối với lực lượng lao động trực tiếp sản xuất:
Tăng cường hơn nữa những chương trình khuyến
ngư tầm cao, ngoài hiểu biết về kỹ thuật cần tổ chức
rộng rãi và sâu sát các lớp học về pháp luật và đào
tạo hướng nghiệp cho người nuôi tôm hùm lồng,
tạo điều kiện cho người nuôi tôm, vừa tham gia khai
thác tốt nguồn lợi thủy sản, vừa bảo vệ và phát triển
môi trường, nguồn lợi thủy sản. Trung tâm khuyến
ngư và các trường đào tạo của tỉnh Khánh Hòa,
của thành phố Cam Ranh cần phải tăng cường mở
thêm những lớp tập huấn ngắn hạn và trung hạn
cho người nuôi tôm. Công nhân kỹ thuật và người
sản xuất chính cần được đào tạo vừa cơ bản, vừa
thường xuyên, do các tiến bộ và công nghệ nuôi
tôm thường tiến rất nhanh.
Tạo điều kiện cho người dân tiếp cận với nguồn
vốn vay tín dụng, giải quyết nhanh chóng các thủ tục
vay vốn. Đồng thời kêu gọi các chính sách hỗ trợ từ
Nhà nước như các gói tín dụng với lãi suất ưu đãi,
giảm thuế
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2005, Thực trạng nguồn lợi và khai thác thủy sản ở Việt Nam. Tạp chí Thông tin
Khoa học Công nghệ và Kinh tế Thủy sản. Số 10, năm 2005.
2. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2014, Báo cáo tổng kết năm 2013, Hà Nội.
3. David Begg. Stanley Fischer, Dornbusch Rudiger. “Kinh tế học, tập 1”. NXB Giáo dục, 1992
4. Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2014, Báo cáo tổng kết năm 2013, Khánh Hòa.
Tiếng Anh
5. Alejandro H. Buschmann, Daniel A. López, Alberto Medina (1996), A Review of the Environmental Effects and Alternative
Production Strategies of Marine Aquaculture in Chile, Aquacultural Engineering, Volume 15, Issue 6, November 1996, Pages
397–421.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- do_luong_loi_nhuan_cho_nghe_nuoi_tom_hum_tai_thanh_pho_cam_r.pdf