Vận dụng phân tâm học vào nghiên cứu văn
học là một công việc không đơn giản, nó đòi
hỏi nhà nghiên cứu phải vượt qua những
thách thức lớn. Khác với các phương pháp
nghiên cứu khác, phân tâm học là một
phương pháp kén đối tượng. Phân tâm học chỉ
dành cho một số lượng hữu hạn tác phẩm mà
ngay từ đầu bằng trình độ, kinh nghiệm thậm
chí cả cảm quan của mình, nhà phân tâm nhận
ra một vài dấu hiệu của vô thức dẫu còn lờ
mờ để từ đó khảo cứu khám phá những góc
sâu và khuất lấp trong tâm hồn con người. Ý
thức rõ giới hạn nhưng đồng thời cũng là
điểm đặc biệt, là lợi thế của phương pháp
nghiên cứu này nên Đỗ Lai Thúy còn dựng
nên một chân dung tinh thần đầy phức tạp của
Chế Lan Viên với Tháp Chàm bốn mặt, hoặc
tìm cách Đáp lời con quái Sphinx hay cội
nguồn sáng tạo thơ Xuân Diệu. Với cái nhìn
mạnh dạn và thành thực của mình, ông đã
khơi mở giúp người đọc tiếp cận được “bản
thể thơ” của những thi nhân từng xuất hiện
trên văn đàn Việt Nam như những ngôi sao
sáng nhất.
6 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 578 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đỗ Lai Thúy và vấn đề ứng dụng phân tâm học trong Bút pháp của ham muốn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cao Hồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 111 - 116
111
ĐỖ LAI THÚY VÀ VẤN ĐỀ ỨNG DỤNG PHÂN TÂM HỌC
TRONG BÚT PHÁP CỦA HAM MUỐN
Cao Hồng*
Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Đặt trong bối cảnh hiện nay của nghiên cứu phê bình văn học ở Việt Nam, khi mà cách tiếp cận
văn học còn nhiều giới hạn so với mặt bằng thế giới thì sự ra mắt Bút pháp của ham muốn đáng
được coi là một hiện tượng thành công mới. Bài viết cho thấy trong Bút pháp của ham muốn tác
giả Đỗ Lai Thúy đã nhất quán một cách thức ứng dụng lý thuyết phân tâm để khám phá các hiện
tượng văn học: nhà phê bình luôn cố gắng tìm ra một kiểu ứng chiếu sao cho phù hợp giữa mô
hình lý thuyết phân tâm học và tác giả, tác phẩm để đi sâu giải mã thế giới nghệ thuật.
Từ khóa: Đổi mới, phân tâm học, phê bình, ứng dụng, nguyên lý, giải mã.
1. Phân tâm học (Psychanalysis) là một
trường phái triết học Tây phương mà ông tổ
của nó là Sigmund Freud - một bác sĩ người
Áo gốc Do Thái. Phân tâm học đạt được một
số thành tựu nhất định trong việc góp phần
cắt nghĩa các hoạt động của năng lực tính
dục; cắt nghĩa Ngã (Moi), Đại Ngã (Grand
Moi) và Siêu Ngã (Surmoi); thế giới của ý
thức, vô thức và tiềm thức sau này học
thuyết được tiếp nối và phát triển phong phú
hơn bởi nhà tâm lý học phân tích người Thụy
Sĩ là Carl Gustav Jung và nhiều nhà khoa học
khác. Sự ra đời của phân tâm học được coi là
bước ngoặt tiến bộ quan trọng của tư duy
nhân loại thế kỷ XIX trong việc khám phá,
nhận thức những vấn đề thầm kín, vi diệu
nhất của tâm sinh lý con người. Nó dần trở
thành khoa học phân tích tâm lý chiều sâu của
mọi hành vi trong đời sống ý thức và vô thức
của mỗi cá thể người. Phân tâm học được coi
là khoa học nhân văn góp phần làm phong
phú thêm văn hóa nhân loại. *
Vào nửa đầu thế kỷ XX, hơn hẳn các phương
pháp phê bình khác, làn sóng phê bình phân
tâm học rất thịnh hành và có một sự ảnh
hưởng lớn đối với nền phê bình văn học
phương Tây đương thời. Có thể kể đến những
tên tuổi nổi tiếng như Ch.Mauron,
Ch.Baudoin, P.Guiraud, G.Bachelard,
L.Spizetre, có thể thấy “không một nhà phê
*
ĐT: 0974088979 ; Email: caohong5668@gmail.com
bình văn học nào hay nghiên cứu phong cách
hiện đại nào có tầm cỡ mà không chịu ảnh
hưởng của phân tâm học” (P.Guiraud). Mặc
dù cũng có nhiều ý kiến phê phán hạn chế của
phương pháp này nhưng qua thời gian, phê
bình phân tâm học đã chứng tỏ ýu thế ðặc biệt
của mình. Nó đã mở ra cho nghiên cứu văn
học của nhân loại nhiều tiềm năng mới.
Những thủ thuật của phân tâm học, các khám
phá và sự giải mã của nó đối với tác phẩm
văn học nhiều khi đã đem lại không ít bất
ngờ, thú vị, mở rộng không gian cảm thụ
nghệ thuật.
2. Ở Việt Nam, phê bình phân tâm học đã
được giới thiệu ở nước ta từ những năm 30
của thế kỷ XX trong phê bình của Nguyễn
Văn Hanh và Trương Tửu. Nhưng đáng tiếc,
sau 1954 do bị kỳ thị nặng nề từ nhiều phía
nên phương pháp này hầu như không thấy
xuất hiện trên văn đàn miền Bắc. Ngược lại,
trong đời sống văn chương ở miền Nam, giai
đoạn 1954 - 1975, phê bình phân tâm học có
điều kiện để phát triển hơn, xuất hiện nhiều
công trình dịch thuật, giới thiệu và ứng dụng
phân tâm học vào sáng tác lẫn phê bình văn
học [1]. Từ khi đất nước thống nhất (1975)
cho đến 1986, phân tâm học vẫn bị xem như
một thứ dị thuyết tư sản phản động, nhục mạ
con người, phê bình phân tâm học là lối phê
bình kỳ quặc, thoát ly đời sống xã hội, lịch sử,
chỉ đi tìm dấu ấn của bản năng tính dục, một
thứ bản năng đáng xấu hổ, phải che giấu, và
có lẽ vì vậy nên ít người dám tìm đến với
Cao Hồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 111 - 116
112
phân tâm học, lĩnh vực nghiên cứu này trở
nên vắng bóng trong đời sống văn học.
Từ sau 1986 đến nay, ở nước ta nhiều cấm kị
được tháo gỡ, phê bình phân tâm học đã có cơ
hội được phục hồi và phát triển. Xuất hiện
một số tác giả giới thiệu phân tâm học và vận
dụng phân tâm học vào nghiên cứu phê bình
văn học nghệ thuật. Có thể kể đến: S.Freud và
phân tâm học (2004) của Phạm Minh Lăng;
Học thuyết S.Freud và sự thể hiện của nó
trong văn học Việt Nam (2008) của Trần
Thanh Hà; Từ cái nhìn tham chiếu phân tâm
học qua một số truyện ngắn hiện đại Việt
Nam (2008) của Hồ Thế Hà; Phê bình mẫu cổ
và mẫu nước trong văn chương Việt Nam
(2009) của Nguyễn Thị Thanh Xuân; Diễn
ngôn về tính dục trong văn xuôi hư cấu Việt
Nam (từ đầu thế kỷ XX đến 1945) (2009) của
Trần Văn Toàn; Thơ Bùi Giáng dưới lăng
kính phê bình cổ mẫu của Trần Nữ Phương
Nhi trong Bùi Giáng trong cõi người ta
(2012) Đặc biệt là Đỗ Lai Thúy với các
công trình biên soạn, giới thiệu: Phân tâm học
và văn hóa nghệ thuật (2000); Phân tâm học
và văn hóa tâm linh (2002); Phân tâm học và
tình yêu (2003); Phân tâm học và tính cách
dân tộc (2007); Gần đây nhất là Phân tâm
học và phê bình văn học của Liễu Trương
(2011) và Phân tâm học & tôn giáo (2012)
của E. Fromm do Lưu Văn Huy dịch;
3. Đỗ Lai Thúy không chỉ giới thiệu phân tâm
học một cách có hệ thống mà ông còn soi
chiếu nhiều hiện tượng văn học Việt Nam từ
lý thuyết này. Cùng với chuyên luận Hồ Xuân
Hương hoài niệm phồn thực (Nxb.Văn hóa
thông tin, Hà Nội 1999), tập tiểu luận Bút
pháp của ham muốn (Nxb.Tri thức, Hà Nội
2009) được đánh giá là những công trình
mang tính đột mở quan trọng, “đánh dấu sự
trở lại của phân tâm học với nghiên cứu văn
học Việt Nam giúp đông đảo bạn đọc biết
thế nào là phân tâm học, góp phần xua tan
những định kiến lâu dài về hướng tiếp cận
này” [4/11]. Có thể nói đặt trong bối cảnh
hiện nay của nghiên cứu phê bình văn học
Việt Nam, khi mà cách tiếp cận văn học còn
nhiều giới hạn so với mặt bằng thế giới thì sự
ra mắt Bút pháp của ham muốn đáng được coi
là một hiện tượng thành công mới. Nó minh
chứng sức sống lâu bền của một phương pháp
nghiên cứu có nhiều thăng trầm nhất trong
lịch sử phê bình văn học ở Việt Nam, đồng
thời cũng là mở đầu cho sự hồi sinh của
phương pháp phê bình phân tâm học – một
phương pháp dường như đã không được nói
đến ở giai đoạn tiền đổi mới. Sở dĩ Đỗ Lai
Thúy có những thành công được bạn đọc trân
trọng ghi nhận là bởi ông luôn có ý thức sáng
tạo, tìm ra được nguyên tắc ứng dụng phân
tâm học hợp lý nhất để giải mã các hiện
tượng văn học.
Tác giả Bút pháp của ham muốn đã xuất phát
từ sự gợi dẫn của J.Lacan (1901 - 1981) -
người kế tục S.Freud, coi vô thức được cấu
trúc như một ngôn ngữ để trực tiếp khảo sát
vô thức tiềm ẩn trong văn bản, tìm ra thông
điệp của tác phẩm (chứ không phải dựa vào
tiểu sử tác giả). Đúng như tên gọi của tập
sách, Đỗ Lai Thúy đã đi từ những ham muốn
để đến với bút pháp của những tài năng nghệ
thuật, xuất phát từ những bí ẩn chìm sâu trong
tâm lý, khám phá sự biến dị về bút pháp của
hai nhóm nhà văn Việt Nam cổ điển và hiện
đại - đó là sáu nghệ sĩ có dấu ấn phân tâm tiêu
biểu: Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh
Quan, Nguyễn Gia Thiều, Hoàng Cầm, Chế
Lan Viên, Xuân Diệu. Vận dụng lý thuyết
phân tâm học kết hợp cùng bộ công cụ thao
tác ngôn ngữ của các nhà hình thức luận Nga,
trường phái ngôn ngữ Praha và phê bình mới
Anh - Mỹ, nhà phê bình hướng đến một ham
muốn: vừa lý giải vừa sáng tạo văn bản, nhà
phê bình vừa là nhà khoa học văn học vừa là
nghệ sĩ của ngôn từ. Đỗ Lai Thúy tiếp nối con
đường của một số cây bút đi theo hướng phê
bình phân tâm học, tuy nhiên sự khác biệt của
ông so với những người đi trước là rất rõ bởi
lẽ ông không lặp lại lối mà người đi trước đã
khuôn định.
Trong nghiên cứu phân tâm học, nếu S.Freud
chú trọng vào vô thức cá nhân, C.G.Jung
xoáy vào vô thức cộng đồng thì G.Bachelar
tập trung vào vấn đề bản chất và hoạt động
tưởng tượng trong văn học.
Cao Hồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 111 - 116
113
Theo G.Bachelar: “Bản thân con người thuộc
về một chất liệu và những giấc mơ của họ
mang tính chất của chất liệu ấy, trước khi nó
mang dáng vẻ của những cái mà họ chiêm
ngưỡng được” [3/ 176]. Thuyết tưởng tượng
của G.Bachelar cho rằng hoạt động tưởng
tượng của con người phát triển trên hai trục
cơ bản: tưởng tượng hình thức và tưởng
tượng vật liệu. Ông chú trọng nghiên cứu
tưởng tượng vật liệu trên bốn yếu tố chính của
vũ trụ theo triết học cổ đại: Nước - Đất - Lửa
- Không khí, và coi đây như là chất liệu của
giấc mơ con người. Người nghệ sĩ chìm trong
mơ mộng về bốn yếu tố vật chất ấy và sáng
tạo ra những hình tượng. Mơ mộng, tưởng
tượng bao giờ cũng mang nghĩa và đa nghĩa,
là vô tận và nguồn gốc của thơ. Tiếp cận
Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều -
một trong những nhà nho tài tử tiêu biểu nhất
của văn học trung đại Việt Nam, Đỗ Lai Thúy
vận dụng lý thuyết tưởng tượng của
G.Bachelar, thoát ra khỏi sự cứng nhắc của
những thói quen suy nghĩ được hình thành
qua tiếp xúc với những kinh nghiệm quen
thuộc để thấu cảm và suy ngẫm về những triết
lý thông qua tam giác hình tượng: Bóng -
nguồn sáng (lửa) - hình.
Quan điểm phân tích tâm lý của C.G.Jung cho
rằng trong tâm thức của mình ai cũng có một
cái bóng (bóng âm), một thực thể tâm lý tâm
linh, tồn tại một cách vô thức, cái bóng là ảnh
xạ của một bản ngã vô thức. Cái bóng ấy làm
ta nhạy cảm hơn với những ảnh hưởng của
cuộc sống, làm thức dậy trong con người
những khuynh hướng tiềm sinh, khuất lấp. Từ
quan niệm này Đỗ Lai Thúy đọc thấy: “Người
cung nữ, bởi vậy, chỉ là cái bóng của Nguyễn
Gia Thiều. Trong cô đơn ông tự tạo ra để đối
thoại” [4/100]. Thế giới bóng của Nguyễn Gia
Thiều được cảm nhận một cách sinh động, đa
hình đầy biến điệu và mới mẻ qua tưởng
tượng bay bổng của Đỗ Lai Thúy. Lối phê
bình kết hợp nhuần nhuyễn giữa phương pháp
nghiên cứu phân tâm học và thi pháp học của
Đỗ Lai Thúy đã mang lại sức gợi lớn để
người đọc tiếp tục hành trình khám phá thông
điệp của hình ảnh nghệ thuật. Tự phân thân
mình để mơ tưởng, để đối thoại với chính
mình phải chăng con người ấy đang ở tận
cùng của trạng thái cô đơn? Và phải chăng
nỗi cô đơn của Nguyễn Gia Thiều là nỗi cô
đơn bất tận, tầng tầng, lớp lớp khôn nguôi của
con người sống trong một thế giới đầy bi
kịch, bất trắc và biến ảo? Nhân vật bóng xuất
hiện trùng trùng điệp điệp trong không gian
nghệ thuật có phải minh chứng chứng tỏ thế
giới này đang bị bao phủ bởi ảo giác? Đó là
một thế giới ảo - cuộc đời là một tấn “tuồng
ảo hóa”? Quan niệm hư vô về cuộc đời của
Nguyễn Gia Thiều cho thấy sự hoang mang
trước thế sự của trí thức thời Lê - Trịnh?,
Tiếp tục mạch tưởng tượng và suy ngẫm về
ba yếu tố khác liên quan chặt chẽ với bóng là
nguồn sáng, hình và nền, Đỗ Lai Thúy đã
phát hiện ra nhiều suy tưởng triết học của
Nguyễn Gia Thiều được thể hiện qua cấu trúc
“tam vị nhất thể”. Chính tài năng sắp đặt của
Nguyễn Gia Thiều đã tạo nên một “cấu trúc
song song và đối ứng” cho thi phẩm, thế giới
hình và thế giới bóng, thế giới thực và thế
giới ảo lồng vào nhau, soi chiếu nhau, cấu
trúc đối ứng này được thể hiện “xuyên suốt
tác phẩm, cả ở tư tưởng lẫn nghệ thuật, từ
diện vi mô đến vĩ mô” [4/112]. Đó là đối cực
trong kết cấu của tác phẩm, đối ứng giữa thi
ca và triết học, đối ngẫu trong ngôn ngữ của
thi phẩm, thông qua những hình thức đối
mang tính nội dung người ta có thể mặc sức
bay bổng cùng những thông điệp tầng tầng
lớp lớp ẩn chìm.
Đúng như phân tâm học của G.Bachelar đã
khẳng định, sự suy ngẫm về một chất liệu đều
rèn luyện được trí tưởng tượng mở, cấu trúc
đối ứng của thi phẩm cho phép người đọc
hình dung sự hô ứng với tài năng đa dạng và
khối mâu thuẫn lớn tồn tại trong con người
tác giả Cung oán ngâm khúc. Có lẽ dưới ánh
sáng thuyết Phân tâm học về Lửa của
Bachelard, nhà nghiên cứu đã thấu tỏ sâu sắc
tiếng vọng từ những câu thơ tha thiết như có
lửa của Nguyễn Gia Thiều. Nó ẩn chứa bao
thông điệp, thấm đượm vẻ thiêng liêng của
triết lý cõi người. Trải nghiệm sau bao khổ
đau, dâu bể của cuộc đời Nguyễn Gia Thiều
Cao Hồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 111 - 116
114
đã tìm đến với một quan điểm nhân sinh: dẫu
buồn bực oán thán, kết án về cuộc đời phù du,
hư vô, đau khổ nhưng cuộc đời vẫn đáng để
cho con người sống và tham dự hết mình.
Trong Hồ Xuân Hương cọ tình vào đá Đỗ Lai
Thúy đã nhờ đến phương pháp tâm lý học
phân tích (tâm lý học các chiều sâu), lý thuyết
siêu mẫu (archetype) của C.G.Jung (1876 -
1961) kết hợp với tín ngưỡng phồn thực. Nhìn
dưới góc độ văn hóa học, ông xây dựng một
hệ pháp nghiên cứu: Thơ Hồ Xuân Hương -
văn hóa dâm tục - tục thờ cúng phồn thực -
tín ngưỡng phồn thực. Xuất phát từ mô hình
này nhà phê bình đã giải mã biểu tượng và
bút pháp nghệ thuật thơ nữ sĩ qua ba phương
diện cơ bản: 1/ Những biểu tượng ám ảnh; 2/
Sự lấp lửng hai mặt; 3/ Triết lý phồn thực.
Với cách tiến hành trên, nhà phê bình đã
ngược dòng thời gian để đưa cái dâm và cái
tục trong thơ Hồ Xuân Hương trở về với ngọn
nguồn của nó: Tín ngưỡng phồn thực - một tín
ngưỡng ra đời khi nhân loại bước vào thời kỳ
trồng trọt và chăn nuôi, nảy sinh mơ ước, cầu
mong cuộc sống nhiều sinh sôi, nảy nở.
Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín
ngưỡng phồn thực, từ góc độ văn hóa nên
mặc dù cũng bàn về những biểu tượng “ám
ảnh” trong thơ Hồ Xuân Hương nhưng Đỗ
Lai Thúy có một nhãn quan tiến bộ, mới mẻ
và nhân văn hơn so với các nhà nghiên cứu
trước đây. Ông phát hiện thêm nhiều ý nghĩa,
giá trị nhân văn từ thơ Hồ Xuân Hương. Có
thể coi Hồ Xuân Hương cọ tình vào đá là sự
sáng tạo trên nền của một sáng tạo - sự cộng
hưởng của những giá trị sáng tạo này mang
đến cho người thưởng thức những giá trị tinh
thần vượt mọi giới hạn thời gian.
Nếu Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia
Thiều được soi chiếu từ thuyết tưởng tượng
(phân tâm học về lửa) của G.Bachelard, thơ
Hồ Xuân Hương được thấu thị từ lý thuyết
siêu mẫu (archetype) của C.G.Jung kết hợp
với tín ngưỡng phồn thực thì những ám ảnh
thơ của Bà Huyện Thanh Quan được Đỗ Lai
Thúy giải mã từ “bản năng chết” (thanatos)
của S.Freud.
Từ thuyết bản năng chết kết hợp thi pháp học
hiện đại Đỗ Lai Thúy khẳng định thơ Bà
Huyện Thanh Quan: “Không chỉ bị cuốn hút
bởi sự suy tàn, mà còn thấy vẻ đẹp của suy
tàn. Điều “nghịch dị” này thường trực trong
thi phẩm của bà đến mức thành ám ảnh. Ám
ảnh đó ẩn chứa một xung năng vô thức mạnh
mẽ mà phâm tâm học gọi là bản năng chết
(thanatos)” [4/136, 137]. Phát hiện này của
Đỗ Lai Thúy cho thấy nỗi nhớ về nỗi nhớ - sự
ám ảnh sâu sắc về vẻ đẹp của sự suy tàn mới
là cội nguồn tạo thành “nội dung sống” trong
những vần thơ trác việt của Bà Huyện Thanh
Quan, chứ không phải như xưa nay người ta
thường cho rằng tâm sự Hoài Lê là tư tưởng
chủ đạo chi phối sáng tác của bà.
Hành trình đi vào miền thơ của Hoàng Cầm là
điều không mấy dễ dàng, bởi lẽ những gì ban
đầu Đỗ Lai Thúy cảm được chỉ là trong thơ
Hoàng Cầm có “một ma lực khó giải thích
() một quyến rũ khó hiểu” [4/146]. Vậy
chìa khóa nào đã giúp nhà phê bình thám mã
để mở cánh cửa thế giới nghệ thuật thơ đầy
“ma lực” khó hiểu của Hoàng Cầm? Đỗ Lai
Thúy bộc bạch, ông đã “mang Freud đi trồng”
trên mảnh đất thơ Hoàng Cầm với tập Về
Kinh Bắc. Sở dĩ ông chọn tập thơ này để gieo
mùa đơn giản chỉ bởi vì: “Về Kinh Bắc là tập
thơ hay nhất của Hoàng Cầm và là một trong
vài tập thơ hay nhất của Việt Nam đương đại”
[3/ 90]. Cái hay của tập thơ “trầm đầy một nỗi
phương Đông” (Nguyễn Thụy Kha), đã nhận
được không ít lời tán thưởng, đặc biệt sự phát
hiện ra những ám ảnh tính dục, “những ẩn ức,
những giấc mơ yêu đầy khắc khoải” [2/ 201],
“những khát khao mang màu sắc libido” [2/
207] đã được nhiều người nhận ra. Tuy nhiên,
để cắt nghĩa thấu đáo cội nguồn của nó thì
phải đợi sau bao trăn trở, đến khi Đỗ Lai
Thúy bỗng “mặc khải” bởi sự gặp gỡ của vô
thức người đọc và vô thức của tác phẩm. Nhà
phê bình phát hiện giá trị thơ Hoàng Cầm
được làm nên bởi một kỹ thuật căn bản nhất:
lối viết tự động theo sự mách bảo của cảm
hứng, chìm vào trong tiềm thức đã hồn nhiên
bộc bạch những điều tinh vi nhất, sâu kín
nhất, mong manh nhất, mơ hồ nhất trong tâm
Cao Hồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 111 - 116
115
hồn con người. Quay về với cội nguồn, đào
sâu vào bản thể hồn mình là một ứng xử nghệ
thuật nhất quán trong thơ Hoàng Cầm, đúng
như Đỗ Lai Thúy viết: “Về Kinh Bắc là một
vũ hội hóa trang của các hình ảnh, màu sắc,
âm thanh, nhịp điệu tưởng như hỗn độn,
nhưng thực ra được gắn kết nhau bởi một ẩn
ngữ - mặc cảm Oedipe - và được viết ra bằng
bút pháp của sự ham muốn (écriture du
désir)” [4/167, 168].
Triệt để soi chiếu thơ Hoàng Cầm dưới ánh
sáng của lý thuyết phân tâm học, Đỗ Lai Thúy
đã “bóc ra”[4/196] đúng con người thầm kín
nhất ở trong Hoàng Cầm, “nói toạc”[4/ 196 ]
ra những giấc mơ hoa tình ái, những khát
khao đầy ẩn ức của thi nhân. Tài năng và bút
pháp phê bình phân tâm học của Đỗ Lai Thúy
đã khơi mở, nói hộ Hoàng Cầm nhiều điều
còn mơ hồ chìm sâu trong vô thức, tôn vinh
thơ của nhà thơ số một xứ Kinh Bắc lên một
cấp độ mới: Thơ Hoàng Cầm - Thơ của
những khát khao “nhục cảm lành mạnh”
(Ph.Ăng - ghen), một thứ thơ tiềm tàng những
giá trị nhân bản vững bền.
Vận dụng phân tâm học vào nghiên cứu văn
học là một công việc không đơn giản, nó đòi
hỏi nhà nghiên cứu phải vượt qua những
thách thức lớn. Khác với các phương pháp
nghiên cứu khác, phân tâm học là một
phương pháp kén đối tượng. Phân tâm học chỉ
dành cho một số lượng hữu hạn tác phẩm mà
ngay từ đầu bằng trình độ, kinh nghiệm thậm
chí cả cảm quan của mình, nhà phân tâm nhận
ra một vài dấu hiệu của vô thức dẫu còn lờ
mờ để từ đó khảo cứu khám phá những góc
sâu và khuất lấp trong tâm hồn con người. Ý
thức rõ giới hạn nhưng đồng thời cũng là
điểm đặc biệt, là lợi thế của phương pháp
nghiên cứu này nên Đỗ Lai Thúy còn dựng
nên một chân dung tinh thần đầy phức tạp của
Chế Lan Viên với Tháp Chàm bốn mặt, hoặc
tìm cách Đáp lời con quái Sphinx hay cội
nguồn sáng tạo thơ Xuân Diệu. Với cái nhìn
mạnh dạn và thành thực của mình, ông đã
khơi mở giúp người đọc tiếp cận được “bản
thể thơ” của những thi nhân từng xuất hiện
trên văn đàn Việt Nam như những ngôi sao
sáng nhất.
Như vậy có thể thấy trong Bút pháp của ham
muốn Đỗ Lai Thúy đã nhất quán một cách
thức ứng dụng lý thuyết phân tâm để khám
phá các hiện tượng văn học: ông luôn cố
gắng tìm ra một kiểu ứng chiếu phù hợp giữa
mô hình lý thuyết phân tâm học và tác giả, tác
phẩm để giải mã thế giới nghệ thuật. Với
cách nghiên cứu sáng tạo, linh hoạt, những
trang viết của Đỗ Lai Thúy đã vượt qua lối
phê bình đơn điệu, cũ kỹ chỉ đáp ứng lối đọc
truyền thống theo cảm tính, thụ động, nhà phê
bình đã trở thành người đọc tích cực, đối sánh
kinh nghiệm của bản thân với kinh nghiệm
của tác giả từ đó không những tự tìm thấy mà
còn giúp người đọc tìm thấy ý nghĩa phong
phú của tác phẩm văn học vốn mang tính đa
nghĩa, mơ hồ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Xin xem thêm Trần Hoài Anh, (2009), Lý
luận - phê bình văn học ở đô thị miền Nam
1954 – 1975, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.
[2]. Nguyễn Đăng Điệp (2003), Vọng từ con chữ,
Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
[3]. Nhiều tác giả (2009), Nghiên cứu văn học
Việt Nam những khả năng và thách thức,
Nxb Thế Giới, Hà Nội.
[4]. Đỗ Lai Thúy(2009), Bút pháp của ham
muốn, Nxb Tri thức, Hà Nội.
Cao Hồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 111 - 116
116
SUMMARY
DO LAI THUY AND PSYCHOANALYSIS APPLICATION ISSUE
IN CALIGRAPHY OF DESIRE
Cao Hong*
College of Sciences – TNU
In the current situtation of Vietnam Literature criticism study, where the approach literature is
still limited compared with the world, Caligraphy of Desire comes out into society should be
considered as a phenomenon of new success. That article show that in the Caligraphy of
Desire of Do Lai Thuy has consistently applied a principle of psychoanalytic theory to
explore the literary phenomenon: in each author, his works found a type of reference to
match with psychoanalytic theory.
Key words: Renavation, psychoanalysis, criticism, principle, unconscious, decode.
Phản biện khoa học: TS. Trần Hoài Anh – Trường Đại học Văn hóa TPHCM
*
ĐT: 0974088979 ; Email: caohong5668@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_41487_45258_85201416354820_2482_2048517.pdf