Định hướng quản lý, tổ chức đào tạo chương trình tiên tiến đáp ứng những yêu cầu cơ bản của kiểm định chương trình ABET
35 Advanced Programs (APs) implemented in 23 leading university in Vietnam are based on
applying the original curriculums which are currently carrying out at advanced university in USA
and are taught in English in the best conditions of Vietnameseuniversity. APs imported to Vietnam
are accredited according to different criteria, in which technical programs are accredited by
Accreditation Board of Engineering and Technology (ABET). Experiences in orienting
management and training organization of APs based on the basic requirements of ABET in Thai
Nguyen University of Technology presented in this paper show that this is a new approach in
management and training organization for Vietnamese higher education. Furthermore, this certifies
that building an innovation model in higher education is completely factual basis.
6 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 438 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Định hướng quản lý, tổ chức đào tạo chương trình tiên tiến đáp ứng những yêu cầu cơ bản của kiểm định chương trình ABET, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đỗ Lệ Hà Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 121 - 126
121
ĐỊNH HƯỚNG QUẢN LÝ, TỔ CHỨC ĐÀO TẠO CHƯƠNG TRÌNH TIÊN TIẾN
ĐÁP ỨNG NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA KIỂM ĐỊNH CHƯƠNG TRÌNH ABET
Đỗ Lệ Hà*
Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Chương trình tiên tiến (CTTT) gồm 35 chương trình được triển khai tại 23 trường đại học hàng
đầu Việt Nam trên cơ sở áp dụng chương trình đào tạo gốc đang được triển khai tại các trường đại
học tiên tiến của Hoa Kỳ và được giảng dạy bằng tiếng Anh trong điều kiện tốt nhất của các
trường đại học tại Việt Nam. Các CTTT được nhập khẩu về Việt Nam đều đã được kiểm định theo
các tiêu chuẩn khác nhau, trong đó, các chương trình thuộc khối ngành kỹ thuật được kiểm định
theo tiêu chuẩn khối Kỹ thuật Công nghệ (Accreditation Board of Engineering and Technology -
ABET). Những kinh nghiệm trong việc định hướng quản lý, tổ chức đào tạo CTTT dựa trên các
yêu cầu cơ bản của tiêu chuẩn kiểm định ABET tại trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – ĐH
Thái Nguyên được trình bày trong bài báo này cho thấy đây là một hướng tiếp cận mới trong việc
quản lý, tổ chức đào tạo đại học tại Việt Nam. Hơn nữa, điều này chứng minh cho việc xây dựng
mô hình đổi mới trong giáo dục đại học là hoàn toàn có cơ sở thực tiễn.
Key words: Kiểm định chương trình; ABET; CTTT; Quản lý tổ chức đào tạo
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào
tạo Việt Nam là chủ trương quan trọng của
Đảng và Nhà nước nhằm đưa giáo dục và đào
tạo nước nhà lên ngang tầm với khu vực và
quốc tế, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp công
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Một
trong những hướng đổi mới giáo dục đại học
là triển khai các CTTT nhập khẩu từ các nước
phát triển chủ yếu từ Hoa Kỳ nhằm nhập khẩu
một mô hình đào tạo mới vào Việt Nam để từ
đó xây dựng các mô hình đào tạo tiên tiến cho
đất nước [1].
Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp - Đại
học Thái Nguyên là một trong 23 trường đại
học hàng đầu của cả nước được giao nhiệm
vụ tổ chức đào tạo hai CTTT ngành Kỹ thuật
Cơ khí và Kỹ thuật Điện [1, 2]. Nội dung của
“Đề án đào tạo theo các chương trình tiên tiến
của Nhà nước” chỉ rõ kiểm định chương trình
là một vấn đề mà các trường tổ chức CTTT
bắt buộc phải thực hiện. Xác định được đây là
một công việc rất lớn, đòi hỏi phải có quá
trình thực hiện nên ngay từ khi bắt đầu triển
khai, Nhà trường đã mạnh dạn áp dụng những
yêu cầu cơ bản của các tiêu chuẩn kiểm định
* Tel: 0912.660.336; Email: ap_office@tnut.edu.vn
ABET trong việc định hướng quản lý, tổ chức
đào tạo các CTTT. Thực tế sau 6 năm triển
khai chương trình, Nhà trường đã đạt được
những kết quả đầu tiên về đào tạo thông qua
việc xây dựng thành công môi trường đào tạo
quốc tế tại chính Nhà trường và chỉ ra rằng
CTTT chính là đòn bảy để Nhà trường định
hướng các hoạt động quản lý tổ chức đào tạo.
NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA KIỂM
ĐỊNH CHƯƠNG TRÌNH THEO TIÊU
CHUẨN ABET 2013-2014
Yêu cầu đối với người học
Trong quá trình triển khai đào tạo, Nhà
trường phải đánh giá được thành tích học tập
của sinh viên để làm cơ sở cho việc giám sát,
thúc đẩy việc học tập của sinh viên, người
học phải được Nhà trường thông báo về
chương trình đào tạo và các thông tin liên
quan đến nghề nghiệp. Đảm bảo sinh viên tốt
nghiệp đáp ứng tất cả các yêu cầu đặt ra trong
chương trình đào tạo.
Yêu cầu về chuẩn đầu ra
Sinh viên tốt nghiệp phải đạt được các yêu
cầu sau:
- Khả năng ứng dụng kiến thức, kỹ năng vào
giải quyết các vấn đề kỹ thuật.
- Khả năng áp dụng kiến thức về toán học,
khoa học và kỹ thuật.
Đỗ Lệ Hà Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 121 - 126
122
- Khả năng thiết kế và tiến hành thí nghiệm,
cũng như để phân tích và diễn giải dữ liệu.
- Có khả năng hoạt động trên các nhóm đa
ngành.
- Khả năng xác định, xây dựng và giải quyết
các vấn đề kỹ thuật.
- Sự hiểu biết về trách nhiệm nghề nghiệp và
đạo đức.
- Khả năng giao tiếp hiệu quả.
- Kiến thức rộng cần thiết để hiểu được tác
động của các giải pháp kỹ thuật trong bối
cảnh toàn cầu, kinh tế, môi trường và xã hội.
- Nhu cầu và khả năng tham gia học tập
suốt đời.
- Kiến thức về các vấn đề đương đại.
- Khả năng sử dụng các kỹ thuật, kỹ năng và
công cụ kỹ thuật hiện đại cần thiết cho thực
hành kỹ thuật.
Yêu cầu về chương trình đào tạo
Chương trình đào tạo phải nhất quán với các
mục tiêu giáo dục và có thể đạt được kết quả
kỳ vọng của chương trình. Các yêu cầu về
chương trình đào tạo phải cụ thể với từng học
phần, giảng viên phải đảm bảo thực hiện đầy
đủ các yêu cầu của chương trình, phù hợp với
mục tiêu và tổ chức đào tạo của chương trình.
Điều này được thể hiện thông qua việc kết
hợp giữa kiến thức toán học ở bậc đại học và
các kiến thức khoa học ứng dụng, khả năng
áp dụng các chủ đề khoa học phù hợp với
chương trình
Chương trình phải công bố mục tiêu đào tạo
sao cho phù hợp với nhiệm vụ của tổ chức,
nhu cầu của người học, phải có tài liệu tham
khảo, đảm bảo tính hệ thống, tính hiệu quả
của quá trình, có sự kiểm tra thường xuyên
việc đảm bảo mục tiêu của chương trình đào
tạo đối với sự phát triển của tổ chức và thị
trường lao động.
Yêu cầu về đội ngũ
Giảng viên giảng dạy chương trình phải có
chuyên môn phù hợp với chuyên ngành giảng
dạy thông qua trình độ, tính chuyên nghiệp,
kinh nghiệm, tính liên tục trong phát triển
chuyên môn, tính kỷ luật, khả năng giảng dạy
hiệu quả và kỹ năng giao tiếp. Tóm lại, giảng
viên phải có kiến thức và kinh nghiệm xã hội
rộng và sâu để đảm nhận toàn bộ chương
trình. Từng chuyên ngành đào tạo phải có đủ
số lượng giảng viên để duy trì tính liên tục, ổn
định, giám sát, tương tác và tư vấn sinh viên.
ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC TRONG
QUẢN LÝ ĐÀO TẠO CTTT NHẰM ĐẠT
CHUẨN ABET TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP - ĐH THÁI
NGUYÊN
Từ kinh nghiệm thực tế trong việc triển khai
đào tạo các chương trình đại trà tại một
trường Đại học Kỹ thuật truyền thống kết hợp
với kinh nghiệm quản lý đào tạo được học tập
tại các trường đại học tiến tiến, nhằm triển
khai thành công CTTT đạt được những yêu
cầu cơ bản của chuẩn ABET, Nhà trường cần
phải có định hướng chiến lược trong quản lý
đào tạo CTTT một cách đúng đắn và phù hợp
nhất. Đó là phải đề ra được các chiến lược
quản lý nhằm xây dựng được một đội ngũ
năng động, sáng tạo, cơ sở vật chất tốt và môi
trường văn hóa làm việc và học tập hiện đại.
Chiến lược quản lý được bắt đầu triển khai từ
năm học 2013-2014 với những nội dung cụ
thể như sau: Quản lý theo chất lượng đầu ra;
trao quyền tự chủ về đánh giá chất lượng cho
các Khoa trong nhà trường; phân tích kỹ tất
cả các dữ liệu đầu vào và đầu ra của Nhà
trường; công khai minh bạch về chính sách và
tài chính của Nhà trường; cập nhật những
thông tin mới, kiểm soát và loại bỏ những ảnh
hưởng tiêu cực tác động đến các mặt hoạt
động của Nhà trường. Từ việc xây dựng và
hoàn thiện chiến lược quản lý, Nhà trường đã
thực hiện những công việc cụ thể trong việc
triển khai CTTT, cụ thể:
Xây dựng đội ngũ năng động và sáng tạo
Nhân tố đội ngũ là nhân tố quan trọng nhất để
duy trì sự tồn tại và khẳng định thương hiệu
của Nhà trường. Việc phát triển đội ngũ của
Đỗ Lệ Hà Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 121 - 126
123
trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp được
tiến hành thông qua hai con đường đó là bồi
dưỡng tại chỗ và bồi dưỡng tại nước ngoài.
Đối với bồi dưỡng tại chỗ việc làm đầu tiên
có ý nghĩa quyết định sự thành bại của quản
lý đó là đổi mới tư duy trong đội ngũ giảng
viên về tác phong làm việc, về cách tiếp cận
với giáo dục đại học của các nước tiên tiến
thông qua việc nâng cao trình độ tiếng Anh.
Nhà trường định hướng không chỉ dừng ở chỗ
biết tiếng Anh mà còn phải sử dụng được
tiếng Anh thông qua việc giảng viên phải
được sử dụng tiếng Anh vào việc rà soát, điều
chỉnh chương trình đào tạo theo mô hình của
Hoa Kỳ cũng như việc sử dụng sách tiếng
Anh làm giáo trình cho các học phần kỹ thuật
và công nghệ. Bên cạnh đó, Nhà trường còn
tiến hành bồi dưỡng giảng viên ở nước ngoài
thông qua việc gửi giảng viên sang tập huấn ở
các trường đối tác nhằm trau dồi trình độ
ngoại ngữ, hoạt động chuyên môn và tiếp cận
nghiên cứu khoa học hiện đại.
Xây dựng cơ sở vật chất tốt phục vụ đào
tạo: Bên cạnh nhân tố con người thì yếu tố cơ
sở vật chất để phục vụ đào tạo là vô cùng
quan trọng. Trong đó, Nhà trường đã tập
trung vào việc đổi mới tư duy trong đầu tư cơ
sở vật chất, thay vì đầu tư dàn trải, thì chỉ tập
trung khai thác có hiệu quả các cơ sở vật chất
hiện có, đặc biệt khai thác hệ thống máy móc
hiện đại tại các phòng thí nghiệm để thông
qua đó nâng cao trình độ chuyên môn, rèn
luyện năng lực nghiên cứu khoa học. Nhà
trường đổi mới định hướng đầu tư xây dựng
các phòng thí nghiệm chuyên sâu mũi nhọn,
các phòng thí nghiệm nghiên cứu tiến tới hội
nhập với quốc tế trong việc sáng chế ra các
sản phẩm mới thay thế cho việc nghiên cứu
khoa học mới chỉ dừng ở lý thuyết.
Xây dựng môi trường văn hóa làm việc và
học tập hiện đại: Một đội ngũ tốt, một
chương trình đào tạo tốt, một hệ thống cơ sở
vật chất hiện đại vận hành trên một môi
trường làm việc và học tập thiếu sáng tạo liệu
có thể đáp ứng được yêu cầu của một bộ tiêu
chí khắt khe và toàn diện như ABET? Và để
trả lời câu hỏi này, Nhà trường đã và đang
xây dựng cùng lúc các chiến lược đổi mới
song song và xây dựng một môi trường văn
hóa làm việc và học tập hiện đại là công việc
quan trọng nhất. Đó là phòng làm việc riêng
cho giảng viên, là việc đăng ký đề tài NCKH
theo hướng tạo ra sản phẩm. Đó là môi trường
để sinh viên được thể hiện khả năng thông
qua việc chủ động xây dựng được kế hoạch
học tập cho bản thân, xác định được mục tiêu
phấn đấu cá nhân và đáp ứng yêu cầu đầu ra
về chuyên môn, ngoại ngữ, kỹ năng nghề
nghiệp. Đó là nơi có các điều kiện đầy đủ về
học tập, sinh hoạt (khu liên hợp dịch vụ), thể
dục thể thao để mọi hoạt động của sinh viên
có thể gắn bó với nhà trường, tận dụng tất cả
thời gian hành chính của Nhà trường để học
tập theo nhóm, nghiên cứu khoa học và phát
triển các kỹ năng giao tiếp để thành công
trong tương lai.
NHỮNG KẾT QUẢ CƠ BẢN THU ĐƯỢC
TRONG TỔ CHỨC ĐÀO TẠO CTTT
Với định hướng chiến lược trong việc triển
khai đào tạo CTTT như ở trên, Nhà trường đã
thành công trong việc xây dựng môi trường
đào tạo quốc tế, tạo dựng được một mô hình
đào tạo mới trong Nhà trường để từ đó tạo
thành đòn bảy nhân rộng sang các chương
trình đào tạo khác của Nhà trường.
Kết quả thu được từ phía người học: về đầu
vào thì sinh viên CTTT cũng giống như sinh
viên các chương trình đại trà của nhà trường,
điểm khác biệt lớn nhất là sinh viên được học
tập trong môi trường với các giáo sư đến từ
nhiều trường đại học nước ngoài, mang theo
sự đa dạng về phương pháp giảng dạy, về văn
hóa, khối lượng giữa kiến thức lý thuyết và
thực hành, thực tập hiện đại. Khối lượng kiến
thức mà giáo sư cung cấp cho sinh viên
thường không quá lớn nhưng tính thực tiễn
của khối lượng kiến thức này cao hơn rất
nhiều so với khối lượng kiến thức “hàn lâm”
vẫn được cung cấp trong các trường đại học
Đỗ Lệ Hà Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 121 - 126
124
Việt Nam. Hoạt động học có tính chất nghiên
cứu cao, bắt buộc người học phải chủ động,
sáng tạo trong việc tiếp nhận kiến thức. Bên
cạnh đó, phương pháp giảng dạy có tính
tương tác cao, sinh viên “bình đẳng” với giáo
sư trong hoạt động học tập. Ngôn ngữ học tập
bằng tiếng Anh. Để từ đó, kết quả sinh viên
tốt nghiệp có điểm Toefl- ITP từ 500 điểm trở
lên, có khả năng thiết kế, tư duy logic tốt,
kiến thức rộng về các vấn đề kỹ thuật hiện đại
do cập nhật nhanh từ những giáo sư nước
ngoài. Sinh viên học CTTT thường rất năng
động, khả năng giao tiếp tiếng Anh, kỹ năng
làm việc tốt nên rất thuận lợi trong việc tìm
học bổng, thực tập nghề nghiệp tại nước
ngoài và đặc biệt xin việc tại các công ty liên
doanh quốc tế tại Việt Nam. Năm học 2013-
2014, sinh viên CTTT đã đăng được 2 bài báo
trên các tạp chí nước ngoài, 5 sinh viên đi
thực tập tại nước ngoài trong thời gian 6
tháng - 1 năm, 100% sinh viên tốt nghiệp có
việc làm tại các doanh nghiệp nước ngoài
trong thời gian 1-3 tháng.
Kết quả thu được trong việc xây dựng đội
ngũ: Từ chiến lược về phát triển đội ngũ của
Nhà trường, trường Đại học Kỹ thuật Công
nghiệp đã có những “cuộc cách mạng” nhằm
nâng cao năng lực giảng dạy của giảng viên.
Về chuyên môn nghiệp vụ, Nhà trường đã và
đang tập trung kết hợp bồi dưỡng giảng viên
về kiến thức chuyên môn và tiếng Anh. Nhà
trường đã cử gần 50 giảng viên đi thực tập
chuyên môn và nâng cao trình độ tiếng Anh
tại Hoa Kỳ trong thời gian từ 2-5 tháng, tính
đến tháng 6/2014, 75% giảng viên của Nhà
trường đã đạt điểm Toelf- ITP từ 450 điểm trở
lên và một nửa trong số đó đã đạt điểm Toefl
– ITP 500. Nhà trường đã thành lập Khoa
Quốc tế với 4 bộ môn chuyên môn giảng dạy
bằng tiếng Anh. Nhà trường cũng bố trí
phòng làm việc cho giảng viên giống các
trường đại học ở nước ngoài nhằm tăng
cường tính tương tác giữa giảng viên và sinh
viên. Điều này đã phần nào hạn chế được việc
giảng viên chỉ tập trung việc học thuộc lòng
các dữ kiện (lý thuyết) trong giáo dục đại học
và thiếu các nghiên cứu hiện đại, giảm thiểu
tối đa tính thụ động và không muốn thay đổi
hoặc cải tiến của giảng viên.
Kết quả thu được về cơ sở vật chất: Trải
qua quá trình xây dựng và tích lũy, nhà
trường có hệ thống cơ sở vật chất tốt, cơ bản
đảm bảo nhu cầu học tập và sinh hoạt của
sinh viên. Nhà trường có 2 thư viện, đặc biệt
là thư viện sách tiếng Anh gần 3.000 cuốn với
hệ thống số hóa toàn bộ tài liệu. Nhà trường
cũng đang cho xây dựng khu liên hợp dịch vụ
cho sinh viên và đưa vào hoạt động từ tháng
9/2014, khu liên hiệp thể thể dục thể thao (sân
vận động, sân bóng cỏ nhân tạo).
MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG QUẢN
LÝ NHẰM TRIỂN KHAI THÀNH CÔNG
CTTT TRÊN CƠ SỞ CÁC TIÊU CHUẨN
CƠ BẢN CỦA ABET
Từ chiến lược trong quản lý đào tạo CTTT
nhằm đạt chuẩn ABET đến những kết quả thu
được trong quá trình triển khai, với mục tiêu
phát triển tiếp sang các chương trình đại trà
khác, nhà trường đã rút ra một số kinh
nghiệm như sau:
Bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý và giảng
viên là chìa khóa của sự thành công
Do chương trình tiên tiến được giảng dạy
bằng tiếng Anh, có thể nói đây là rào cản lớn
nhất đối với giảng viên của Nhà trường. Một
số giảng viên được đào tạo ở nước ngoài về,
song vẫn không tự tin để giảng dạy. Vì vậy,
để bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ việc đầu
tiên là phải bồi dưỡng tiếng Anh. Về chuyên
môn, có thể tiến hành bằng hai con đường bồi
dưỡng tại chỗ và cử sang các trường đối tác
của CTTT để bồi dưỡng. Việc bồi dưỡng
ngoại ngữ và các kỹ năng trong nghiên cứu và
thực hành giảng dạy hiện đại cần có con
đường riêng đó là phát huy được nhận thức
của giảng viên trong việc cần phải có các kỹ
năng đó để phục vụ giảng dạy. Đặc biệt, Nhà
trường tạo cơ hội cho giảng viên cập nhật
Đỗ Lệ Hà Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 121 - 126
125
những kiến thức mới về chuyên ngành và trực
tiếp giải quyết các vấn đề của thực tiễn để lấy
kinh nghiệm giảng dạy cho sinh viên. Nhà
trường có cơ chế đánh giá năng lực làm việc,
bồi dưỡng, đề bạt giảng viên thông qua việc
lượng hóa được khối lượng công việc và
những đóng góp, thành tích của giảng viên
đối với Nhà trường.
Tiếp tục có cơ chế đầu tư chọn lọc để nhân
rộng CTTT sang các chương trình đào tạo
khác phù hợp điều kiện thực tế của Nhà
trường và hướng phát triển của các trường
Đại học trên thế giới
Đến thời điểm hiện nay, kết quả lớn nhất mà
CTTT đạt được tại trường Kỹ thuật Công
nghiệp là đổi mới tư duy cho hơn 400 giảng
viên, bồi dưỡng được tiếng Anh cho trên 400
giảng viên và bồi dưỡng nghiệp vụ tại trường
đối tác của CTTT gần 100 giảng viên. Từ đó
khẳng định, CTTT có ý nghĩa vô cùng quan
trọng đối với các trường đại học ở ngoài các
thành phố lớn nơi mà còn nhiều hạn chế trong
việc hội nhập với các trường đại học của thế
giới. CTTT đã hoàn thành sứ mệnh xây dựng
một ngành, một khoa trọng điểm để từ đó lan
rộng sang toàn trường. Tuy nhiên, với mục tiêu
tiếp tục triển khai chương trình ở một cấp độ
mới và lan tỏa sang sâu, rộng và có hiệu quả
tích cực sang các chương trình đào tạo khác
đòi hỏi Nhà trường phải chọn lọc được ngành
đào tạo, quyết định mức đầu tư và lượng hóa
bằng các số liệu cụ thể mà các đơn vị được đầu
tư cam kết đạt được, giao quyền chủ động
trong việc quyết định hướng cho ngành sẽ
được đầu tư để phát triển cho Khoa triển khai.
Giao cho đơn vị toàn quyền quyết định việc
nâng cao chất lượng và cập nhật chương trình
đào tạo; cách thức để thiết lập một cơ chế
nhằm bảo đảm các nguồn lực được phân bổ
dựa trên thành tích công việc và chất lượng;
đào tạo năng lực cho giảng viên trong việc
thiết kế nội dung chương trình, phương pháp
sư phạm, tiếp xúc với sinh viên và nghiên cứu
thông qua các nỗ lực phát triển về mặt chuyên
môn nghiệp vụ có hệ thống; Cách thức tổ chức
lại khối lượng công việc để giảng viên có thêm
thời gian chuẩn bị giáo án, tiếp xúc với sinh
viên và thực hiện nghiên cứu.
KẾT LUẬN
Những kinh nghiệm được rút ra trong quá
trình triển khai, quản lý tổ chức đào tạo CTTT
chưa thực sự đủ để đáp ứng được những yêu
cầu của việc kiểm định chương trình. Việc
kiểm định chương trình đòi hỏi phải được áp
dụng trong điều kiện cụ thể tình hình hình của
từng Nhà trường, song những kinh nghiệm
này có ý nghĩa giúp cho Nhà trường rút kinh
nghiệm, tổng hợp để điều chỉnh công tác quản
lý một cách phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao
nhất, bên cạnh đó tích lũy được các biện pháp
quản lý phục vụ tốt cho quá trình tổ chức
kiểm định sau này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Đề án đào tạo
theo chương trình tiên tiến tại một số trường đại
học của Việt Nam giai đoạn 2008-2015, Hà Nội.
2. Các Giáo sư của các trường Đại học USA, Các
báo cáo kết thúc giảng dạy, Thái Nguyên.
3. Phạm Quốc Hùng, Giới thiệu về bộ tiêu chuẩn
ABET (tổng hợp), 2010
Đỗ Lệ Hà Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 121 - 126
126
SUMMARY
ORIENTING MANAGEMENT AND TRAINING ORGANIZATION
OF ADVANCED PROGRAM TO MEET THE BASIC REQUIREMENTS
OF ABET EDUCATION ACCREDITATION
Do Le Ha*
College of Technology – TNU
35 Advanced Programs (APs) implemented in 23 leading university in Vietnam are based on
applying the original curriculums which are currently carrying out at advanced university in USA
and are taught in English in the best conditions of Vietnameseuniversity. APs imported to Vietnam
are accredited according to different criteria, in which technical programs are accredited by
Accreditation Board of Engineering and Technology (ABET). Experiences in orienting
management and training organization of APs based on the basic requirements of ABET in Thai
Nguyen University of Technology presented in this paper show that this is a new approach in
management and training organization for Vietnamese higher education. Furthermore, this certifies
that building an innovation model in higher education is completely factual basis.
Key words: accreditation; ABET; AP; trainingorganization
Ngày nhận bài:27/8/2014; ngày phản biện:15/9/2014; ngày duyệt đăng: 26/9/2014
Phản biện khoa học: ThS. Nguyễn Thị Thu Hương – Đại học Thái Nguyên
* Tel: 0912.660.336; Email: ap_office@tnut.edu.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_48551_52464_16920159524120_5085_2046633.pdf