Điều trị (chữa) bệnh truyền nhiễm là một biện pháp tích cực vì có tác dụng bao vây tiêu diệt nguồn bệnh (mỗi súc vật bệnh được coi là một nguồn bệnh) đồng thời làm con vật hồi phục nhanh chóng và hoàn toàn không trở thành con vật mang trùng nên hạn chế dịch lây lan. Chữa bệnh kịp thời là một yêu cầu cấp bách của sản xuất làm giảm thiệt hại về kinh tế cho người chăn nuôi. Việc hạn chế tác hại tiến tới tiêu diệt bệnh dịch phải trên cơ sở kết hợp công tác phòng bệnh và chữa bệnh.
29 trang |
Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 2225 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Điều trị bệnh truyền nhiễm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơng ứng, vì vậy chúng có tác dụng khi nồng độ khá cao và dễ
bị mất tác dụng khi cơ chất chuyển hóa có nồng độ cao một cách áp đảo.
Tuy vậy, do các enzym trong cơ thể thường được thay đổi thế hệ liên tục
nên tính thuận nghịch của phản ứng kết hợp này giúp chất kháng sinh
không bị đào thải cùng với enzym bị lão hóa mà được giải phóng và duy trì
tác động trong thời gian kéo dài hơn với enzym mới được tổng hợp. Ngược
lại, trong cơ chế che phủ chất kháng sinh kết hợp không thuận nghịch với
trung tâm hoạt động của enzym làm phản ứng sinh hóa trên enzym đó
không thể xảy ra cả khi hàm lượng chất kháng sinh thấp. Tuy vậy, khi cơ
thể vi khuẩn tiếp tục tổng hợp enzym khác thay thế enzym lão hóa thì tác
dụng của chất kháng sinh bị hạn chế. Khi đó ngoài yếu tố nồng độ khá cao
thì chất kháng sinh muốn có tác dụng đối với vi khuẩn phải được bổ sung
mới thường xuyên.
8
2.2. Điểm tác động
Cơ chất cần chuyển hóa trong cơ thể vi khuẩn nói chung có nhiều
loại cũng như số lượng chủng loại enzym là rất phong phú. Tuy nhiên có
thể chia các phản ứng sinh hóa đó thành bốn điểm chính: vách tế bào,
màng tế bào chất, bộ máy di truyền và bộ máy tổng hợp protein. Các chất
kháng sinh vì vậy cũng có các điểm tác động ở các vùng tương ứng nêu
trên. Như vậy các điểm tác động của chất kháng sinh có thể là vách tế bào,
màng tế bào chất, cấu trúc nhân và ribosom.
Các chất kháng sinh tác động đến vách tế bào (như penicillin) có
đích tác động là enzym xúc tác quá trình kết nối các mạch hở của phân tử
peptidoglycan là thành phần chính của vách tế bào (đặc biệt vi khuẩn
Gram dương). Mạch hở này là kết quả tất yếu cần thiết cho sự phát triển về
thể tích của vi khuẩn khi quá trình sinh trưởng xảy ra. Mối liên kết giữa
các monomer của peptidoglycan liên tục được tháo ra bởi một enzym và
ráp thêm monomer mới nhờ enzym khác. Khi enzym tái lắp ráp không hoạt
động các mạch hở vách tế bào hình thành ngày càng nhiều làm vách tế bào
không thể duy trì được tế bào chất ở bên trong. Màng tế bào chất khi đó bị
vỡ dẫn đến việc dung giải tế bào vi khuẩn. Do ở các vi khuẩn Gram âm
vách tế bào cấu tạo từ lớp peptidoglycan mỏng được bổ sung thêm màng
9
ngoài cấu tạo từ lipopolysaccharid (LPS) và protein nên nói chung chúng
thường ít mẫn cảm với các chất kháng sinh nhóm này.
3. Chủng loại kháng sinh và hoạt phổ kháng sinh
3.1. Phân loại kháng sinh
Kháng sinh có thể phân loại theo nhiều cách: theo nguồn gốc, theo
tính chất chữa bệnh, theo hiệu quả tác động, theo cơ chế tác động và theo
họ (theo bản chất hóa học).
Phân loại theo nguồn gốc: theo nguồn gốc các chất kháng sinh có
thể là kháng sinh lấy từ nguyên liệu vi sinh vật (kháng sinh tự nhiên),
kháng sinh sản xuất theo con đường tổng hợp hóa học hoàn toàn (kháng
sinh hóa tổng hợp) và kháng sinh bán tổng hợp. Các loại sinh vật khác
nhau (vi khuẩn gồm cả xạ khuẩn, các loại nấm men, nấm sợi, thực vật và
động vật) đều có thể sản sinh ra chất kháng sinh. Khởi đầu, khái niệm của
chất kháng sinh bắt nguồn từ sự nghiên cứu hiện tượng kháng sinh, vì vậy
yếu tố "do các sinh vật, chủ yếu là vi sinh vật, sản sinh ra" là yếu tố xác
định nghĩa hẹp của khái niệm chất kháng sinh. Nhưng do nhiều chất kháng
sinh được tổng hợp bằng con đường hóa học hoàn toàn (như
chloramphenicol) nên quan niệm chất kháng sinh thay đổi và bao gồm tất
cả các chất có thuộc tính diệt khuẩn hoặc chế khuẩn ở tầm phân tử (hay
liều thấp) một cách đặc hiệu vào một hoặc một số quá trình chuyển hóa
của vi khuẩn. Những chất kháng sinh bán tổng hợp là những chất thu từ
nguyên liệu vi sinh vật nhưng sau đó được cải biến cấu trúc hóa học bằng
con đường hóa học.
Phân loại theo tính chất chữa bệnh: các chất kháng sinh có thể chia
thành hai nhóm: các chất kháng sinh thông dụng (như penicillin,
streptomycin, ampicillin,... và các chất kháng sinh không thông dụng.
Phân loại theo hiệu quả tác động lên tế bào vi khuẩn: chất kháng
sinh có thể là chế khuẩn (kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn) hoặc diệt
khuẩn (phá hủy tế bào). Việc phân loại này có ý nghĩa lớn trong điều trị
các bệnh cảm nhiễm vi khuẩn. Trường hợp bệnh nặng thì nên dùng các
chất kháng sinh diệt khuẩn vào kỳ đầu của bệnh, sau đó sử dụng các chất
kháng sinh chế khuẩn. Các thuốc kháng sinh diệt khuẩn như penicillin và
10
dẫn xuất, oxacyclin, ampicillin, carbenicillin, xeporin, gentamycin,
ristomycin,... Các thuốc kháng sinh chế khuẩn bao gồm erythromycin,
oleandomycin, lincomycin, furidin, tetracyclin, morfocyclin, levomycetin
(chloramphenicol),...
Phân loại theo cơ chế tác động: nghĩa là xác định chính xác phần
gen chịu tác động hoặc khâu nào đó trong quá trình chuyển hóa của tế bào
vi khuẩn chịu tác động. Theo cách này có thể chia các chất kháng sinh
thành 4 nhóm:
- Các chất kháng sinh kìm hãm tổng hợp vách tế bào vi khuẩn:
penicillin, bacitracin, vancomycin,...
- Các chất kháng sinh làm tăng thẩm thấu màng tế bào chất:
streptomycin, polymyxin,... Hai nhóm trên có hiệu quả diệt khuẩn.
- Các chất kháng sinh kìm hãm tổng hợp protein: chủ yếu gồm các
chất kháng sinh tác động lên ribosom (chủ yếu) hoặc kìm hãm sự tổng hợp
ARN. Thuộc nhóm này có chloramphenicol, streptomycin, kanamycin,
tetracyclin,...
- Các chất kháng sinh tác động lên di truyền: là những chất có tính
ái lực cao đối với ADN hai sợi và ngăn trở quá trình tách đôi của chuỗi
xoắn kép hoặc phong tỏa hệ thống enzym tham gia quá trình tổng hợp
ADN. Ví dụ, actinomycin, novobiocin,... Hai nhóm sau có hiệu quả chế
khuẩn.
Phân loại theo họ: Cách sắp xếp này được coi là hợp lý hơn cả. Các
chất kháng sinh tùy thuộc chủ yếu vào bản chất hóa học được chia thành
các họ khác nhau.
- Họ aminosid: gồm streptomycin, kanamycin, gentamycin,
neomycin, framycetin, paromycin.
- Họ tetracyclin: gồm tetracyclin, oxytetracyclin, chlortetracyclin,
domycyclin, dimethylchlortetracyclin,...
- Nhóm các chloramphenicol: chloramphenicol (chlorocid,
levomycetin), thiamphenicol, synthomycin, eulevomycin,... được sản xuất
chủ yếu bằng con đường hóa tổng hợp, ngày nay chloramphenicol cấm
dùng trong thủy sản và thú y vì vấn đề dư lượng kháng sinh gây hại cho
sức khỏe người tiêu dùng (tuy vẫn sử dụng trong nhân y).
- Các sulfamid: là họ gồm nhiều hợp chất khác nhau, những chất
ban đầu có hoạt phổ rộng nhưng càng ngày càng phát hiện ra những chất
có hoạt phổ hẹp.
11
- Các nitrofuran: furagin, furazolidon,... Các chất này gần đây bị
cấm sử dụng trong thú y vì dư lượng của chúng trong thực phẩm gây tác
hại đối với sức khỏe người tiêu dùng.
- Họ beta-lactam gồm một số nhóm, như sau:
Nhóm penicillin G (benzylpenicillin) và các phân tử gần gũi là
những chất có tác dụng lên vi khuẩn Gram dương và dễ bị phân hủy bởi
enzym penicillinaza do các vi khuẩn tiết ra.
Nhóm methicillin - oxacillin và dẫn xuất là những chất có cấu trúc
phân tử gần giống các penicillin nêu trên nhưng không bị penicillinaza
phân hủy.
Ampicillin là dẫn xuất penicillin có hoạt phổ rộng, tác động lên tất
cả các vi khuẩn Gram dương. Cũng giống penicillin chất kháng sinh này
cũng bị một số penicllinaza phân hủy.
Cephalosporin có chung ba nhóm nhân beta-lactam, có hoạt phổ
rộng như penicillin nhưng ít nhạy cảm với các penicillinaza.
- Các dẫn xuất của axit izonicotinic: izoniazid (rimifon),
etionamid,... Hoạt phổ hẹp (hoạt phổ chọn lọc) và có tác động lên các
Mycobacterium.
- Họ các macrolid có tác động lên các vi khuẩn Gram dương và một
số vi khuẩn Gram âm thuộc họ Parvobacteriaceae (họ cũ, gồm
Pasteurella, Brucella, Bordetella, Francisella, Malleomyces
(Burkholderia)). Họ này gồm erythromycin, oleandomycin, spiramycin,
lincomycin, katazamycin,...
- Họ các synergistin gồm pristinamycin, verginiamycin,...
- Họ các polymyxin gồm các chất có cấu trúc hóa học là polypeptid
vòng, thường chỉ tác động lên vi khuẩn Gram âm: colistin, polymyxin,...
- Nhóm các chất tác động lên vi khuẩn Gram dương có bản chất
hóa học khác nhau: bacitracin, novobiocin, axit furidic, vancomycin,
rifamycin SV,...
- Nhóm các chất kháng sinh chỉ tác động lên vi khuẩn Gram âm:
axit nalidixic,...
- Các chất kháng sinh chống nấm: gồm nhiều loại, có bản chất hóa
học khác nhau (xem kháng sinh chống nấm), thường dùng nistatin,
griseofulvin, các azol.
3.2. Hoạt phổ của các loại chất kháng sinh
12
Tác động của các thuốc kháng sinh có tính chọn lọc hay có tính đặc
hiệu, cũng nhờ vậy mà chúng có tính độc thấp đối với động vật trong khi
tác động mạnh đến những loại vi sinh vật nhất định. Thuốc kháng sinh có
tính đặc hiệu nghĩa là nó có tác dụng ngăn cản sự sinh sản hoặc tiêu diệt vi
khuẩn nhóm này mà không có tác dụng đối với vi khuẩn nhóm khác. Tính
đặc hiệu của một thuốc kháng sinh càng cao thì hoạt phổ của nó càng hẹp.
Hoạt phổ của một chất kháng sinh được hiểu là tỷ lệ giữa các vi khuẩn mẫn
cảm với chất kháng sinh đó so với toàn bộ giới vi khuẩn hay vi sinh vật.
Các kháng sinh hoạt phổ rộng có tác dụng đối với cả vi khuẩn Gram âm
lẫn vi khuẩn Gram dương, trong khi các kháng sinh có hoạt phổ hẹp chỉ tác
động lên một số ít nhóm vi khuẩn. Chất kháng sinh có hoạt phổ càng rộng
thì thường có độc tính càng cao đối với động vật do tính chọn lọc thấp.
Nhờ độc tính chọn lọc thuốc kháng sinh có tính độc đối với vi khuẩn (vi
sinh vật) mà không có tính độc đối với động vật và đây là điểm khác biệt
cơ bản với các chất sát trùng (có tính độc với cả hai phía và tác động toàn
bộ). Bảng dưới đây nêu hoạt phổ của một số kháng sinh đối với các vi
khuẩn mầm bệnh cảm nhiễm tiêu biểu ở gia súc, gia cầm.
13
Bảng: Hoạt phổ của một số kháng sinh chủ yếu đối với một số vi khuẩn mầm bệnh tiêu biểu ở gia súc, gia cầm
Mầm bệnh
Hóa dược
S
t
a
p
h
y
l
o
c
o
c
c
u
s
S
t
r
e
p
t
o
c
o
c
c
u
s
E
r
y
s
i
p
e
l
o
t
h
r
i
x
C
o
r
y
n
e
b
a
c
t
e
r
i
u
m
C
l
o
s
t
r
i
d
i
u
m
t
e
t
a
n
i
B
a
c
i
l
l
u
s
a
n
t
h
r
a
c
i
s
P
a
s
t
e
u
r
e
l
l
a
B
o
r
d
e
t
e
l
l
a
A
c
t
i
n
o
b
a
c
i
l
l
u
s
H
a
e
m
o
p
h
i
l
u
s
E
s
c
h
e
r
i
c
h
i
a
c
o
l
i
S
a
l
m
o
n
e
l
l
a
K
l
e
b
s
i
e
l
l
a
P
r
o
t
e
u
s
P
s
e
u
d
o
m
o
n
a
s
p
y
o
g
e
n
e
s
L
e
p
t
o
s
p
i
r
a
S
e
r
p
u
l
i
n
a
N
ấ
m
M
y
c
o
p
l
a
s
m
a
R
i
c
k
e
t
t
s
i
a
C
h
l
a
m
y
d
i
a
Các chất kháng sinh (nghĩa hẹp)
Nhóm penicillin
Penicillin G 2 2 2 2 2 2 1 1 1 2
Benzyl penicillin procain 2 2 2 2 2 2 1 1 2
Dichloxysacillin 1 1 1
Nafcillin 1 1 1
Ampicillin 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 2 2 1 2
Amoxicillin 1 1 1 1 1 1
Mesilinam 1 2
Aspoxicillin 1 1
Nhóm cephalosporin
Cephalonium 1 1 1 1 1 2
Cephazolin 1 1 1 1 1 2
Cefloxim 1 1 1 1 1 2
Linkomycin 1 1
14
Colistin 1 1 2 1 1 2
Nhóm aminoglycosid(e)
Streptomycin 1 1 1 1 1 1 1 1 2
Dihydrostreptomycin 1 1 1 1 1 1 1 1 2
Kanamycin 1 1 1 1 1 2 1 2 2 1
Fladiomycin 1 1 1 1 1 1
Gentamycin 1 2 1 1 1 2
Spectinomyci n 1 1 1
Aplamyc in 1
Nhóm macrolid(e)
Erythromycin 1 1 1 1 1 1 1 2 1 1
Oleandomycin 1 1 1 1 1 1 1 2 1 1
Kitasamycin 1 1 1 1 1 1 1 2 1 1
Mypolamycin 1 1 1 1 1 1 1 2 1 1
Spiramycin 1 1 1 1 1 1 1 2 1 1
Tylosin 1 1 1 1 1 1 1 2 1 1
Zusamycin 1 1 1 1 1 1 1 2 1 1
Tirmycosi n 1 1 1
Chloramphenicol 1 1 1 1 1 1 1 1 1 2 1 1 1 1
Nhóm tetracyclin
Tetracyclin 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 2 2
Oxytetracyclin 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 2 2
Chlortetracyclin 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 2 2
Doxicyclin 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 2 2
Terdecamycin 2 1
Phosphomycin 1 1 1 1 1
15
Tiamulin 1 1 1 1 1 2 2
Vicosamycin 1 1
Các chất kháng sinh chống nấm
Siccanin 1
Nanaomycin 1
Các chất hóa trị liệu tổng hợp
Nhóm nitrofuran
Furazolido n 1 1
Diflazo n 1 1
Nhóm sulfamid(e)
Sulfothiazin 1 1 1 1 1
Sulfamethoxin 1 1 1 1 1
Nhóm neoquinolon(e)
Ofloxacin 1 1 1 1 1 1 1
Enrofloxacin 1 1 1 1 1 1 1
Danofloxacin 1 1 1 1 1 1 1
Venofloxacin 1 1 1 1 1 1 1
Orbifloxacin 1 1 1 1 1 1 1
Các thuốc hóa trị liệu tổng hợp khác
Carbado x 1 1 2
Axit oxolinic 1 1 1 1 1 1 1
Thiamphenicol 1 1 1 1 1 1 1 1
Florphenico l 1
Ghi chú: Các số 1 và 2 chỉ mức độ tác dụng của các chất kháng sinh với mầm bệnh tương ứng; 1, tác dụng tốt; 2, tác dụng rất tốt,
là kháng sinh cần chọn thứ nhất trong điều trị bệnh tương ứng.
16
4. Ứng dụng khả năng kháng khuẩn của các chất kháng sinh
4.1. Các thuốc kháng sinh thông dụng
Thuốc kháng sinh có nhiều loại. Dưới đây trình bày một số chất
kháng sinh thông dụng.
Penicillin được lấy từ một số nấm sợi Penicillum rotatum và
Penicillum crysogenum. Có nhiều loại penicillin (F, G, X, K), trong đó
penicillin G là tốt nhất. Các dạng penicillin về thực chất khác nhau ở cấu
trúc nhóm bên còn nhóm chức tác dụng diệt khuẩn đều là vòng beta-
lactam. Các dạng khác nhau có tính chất vật lý, hóa học khác nhau, do đó
tính diệt khuẩn, tính tiện dụng, bảo quản và khả năng duy trì nồng độ điều
trị trong cơ thể khác nhau. Ở liều thấp penicillin kìm hãm vi khuẩn, liều
cao làm dung giải vi khuẩn. Tác dụng tốt đối với các vi khuẩn Gram dương
(liên cầu khuẩn, tụ cầu khuẩn, vi khuẩn uốn ván, đóng dấu lợn, nhiệt
thán,...). Tuy nhiên chất kháng sinh này có tác dụng yếu đối với vi khuẩn
tụ huyết trùng và không có tác dụng đối với vi khuẩn lao, sẩy thai truyền
nhiễm (các Brucella), phó thương hàn và các virut. Khi tiêm vào bắp thịt,
penicillin G thấm rất nhanh vào máu, duy trì lâu được hàng giờ trong các
tổ chức, tuy nhiên khó thấm vào các khớp, màng phổi, màng tim, phúc
mạc, không thấm vào dịch não - tủy, hầu hết bài tiết qua thận. Trong khi
đó, penicillin V nhờ tính thấm tốt qua niêm mạc ruột và đề kháng với axit
dạ dày nên có thể áp dụng cho người và động vật dạ dày đơn qua đường
miệng (cho uống).
Penicillin gây rối loạn sự quá trình tổng hợp peptidoglycan của
vách tế bào vi khuẩn nên làm cho tế bào vi khuẩn bị vỡ trong quá trình tế
bào tăng trưởng thể tích. Vì vậy, các penicillin có tác dụng tốt đối với vi
khuẩn đang phát triển mạnh (thường trong bệnh cấp tính) nhưng tác dụng
rất hạn chế đối với vi khuẩn phát triển chậm (trong bệnh mãn tính). Các
thuốc kháng sinh làm chậm quá trình tăng trưởng của vi khuẩn (như nhóm
tetracyclin,...) có tác động làm giảm hiệu quả điều trị của penicillin.
Penicillin thường gây hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc, còn ở
người có thể gây dị ứng nặng.
Streptomycin: được chiết xuất từ vi khuẩn dạng sợi Streptomyces
griseus. Chất kháng sinh này có tác dụng rộng rãi đối với vi khuẩn Gram
âm (tụ huyết trùng, Brucella, các trực khuẩn đường ruột,...), các vi khuẩn
gram dương (tụ cầu khuẩn, liên cầu khuẩn,...), vi khuẩn lao và xạ khuẩn.
Chất kháng sinh này có thể dùng tiêm hoặc cho uống do thuốc ít bị phá
hủy ở ruột và thải trừ ra ngoài theo phân, còn nếu tiêm bắp thịt thuốc vào
17
máu rất nhanh, thấm dễ dàng vào các tổ chức, thấm cả vào bào thai, thấm
không đều vào dịch não - tủy, màng phổi, phúc mạc. Streptomycin thải trừ
ra ngoài chậm hơn penicillin, chủ yếu bài tiết qua thận, một phần nhỏ theo
mật bài tiết ra ngoài.
Streptomycin cũng dễ gây hiện tượng vi trùng kháng thuốc, nên khi
dùng phải phối hợp các loại kháng sinh khác. Kháng sinh này cũng gây
nên hiện tượng dị ứng, làm tổn thương dây thần kinh số VIII (phổ biến
nhất ở người, gây điếc), dễ gây ngộ độc nặng và có khi làm chết gia cầm.
Nhóm tetracyclin: Nhóm này gồm có ba chất thường dùng là
chlortetracyclin, tetracyclin, oxytetracyclin, có tính chất dược lý giống
nhau. Chúng có tác dụng đối với nhiều loài mầm bệnh: vi khuẩn gram
dương, vi khuẩn gram âm, trực khuẩn lao, Rickettsia và Chlamydia, cũng
như một số virut có kích thước lớn,... Ngoài tác dụng chữa bệnh nhóm
kháng sinh này trước đây còn được dùng bổ sung vào thức ăn để phòng
bệnh và kích thích sinh trưởng gia súc non.
Chlortetracyclin (oreomycin, biomycin) được sản xuất từ vi khuẩn
dạng sợi Streptomyces aureofaciens, có tác dụng kháng khuẩn đối với
nhiều loại vi khuẩn Gram dương và Gram âm, với một số virut có kích
thước lớn (nhóm virut đậu), rickettsia, chlamydia và nhiều loại nguyên
trùng (Coccidia hay Eimeria). Khi uống, ở ruột thuốc không bị phá hủy, dễ
hấp thụ và phân phối đều trong cơ thể. Đậm độ thuốc trong vẫn cao sau khi
uống 8 giờ. Thuốc này dùng chữa các bệnh nhiệt thán, ung khí thán, nhất là
các bệnh viêm phổi, bệnh bạch lỵ, phó thương hàn, tụ huyết trùng, bệnh
cầu trùng ở gà và các động vật khác, có tác dụng cả đối với cả những bệnh
mà mầm bệnh đã kháng penicillin và streptomycin.
Oxytetracyclin (teramycin, tetran) được sản xuất từ vi khuẩn dạng
sợi Streptomyces grimosus, có tác dụng kháng khuẩn rộng tương tự
chlortetracyclin, nhưng ít độc và có tác dụng kéo dài hơn.
Tetracyclin (ambromycin, achromycin, tetracin, mediacyclin,...) là
chất kháng sinh giữ được đậm độ trong máu lâu hơn các loại kháng sinh
cùng nhóm, hoạt phổ rộng, kìm hãm vi khuẩn (chế khuẩn), với nhiều cầu
trùng, các vi khuẩn Gram dương và Gram âm, xoắn khuẩn, rickettsia và
một số virut lớn nhưng hiện nay đã xuất hiện nhiều chủng kháng thuốc.
Thuốc được chỉ định điều trị các bệnh cảm nhiễm Pasteurella,
Haemophilus, Rickettsia, Chlamydia, Mycoplasma, Brucella, lậu cầu, xoắn
khuẩn, phẩy khuẩn tả (ở người),... các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp,
sinh dục, tiết niệu, mắt, tai - mũi - họng. Kháng sinh này có tác dụng kích
thích sinh trưởng gia súc non cho nên trước đây thường được phối chế vào
thức ăn gia súc, nhưng cũng vì vậy mà dẫn đến hiện tượng phát sinh nhiều
chủng kháng thuốc, đồng thời dư lượng kháng sinh trong sản phẩm động
vật gây hại cho sức khỏe người tiêu dùng.
Các loại sulfamid được dùng hiện nay ở nước ta là sulfathiazol,
sulfadiazin, sulfamerazin, sulfadimethoxin,... Chúng có tác dụng kìm hãm
sự phát triển của vi khuẩn do làm rối loạn trao đổi chất của tế bào vi
khuẩn, tác dụng mạnh đối với các loại cầu khuẩn, một số vi khuẩn Gram
âm, một số virut và các vi khuẩn đường ruột. Đại đa số sulfamid được hấp
thụ tốt qua ruột. Tiêm bắp thịt, thuốc thấm nhanh vào máu, khuyếch tán
vào khắp cơ thể, dịch thể và thải ra ngoài chủ yếu qua thận nhanh chóng.
Dùng sulfamid cũng có thể gây tai biến, vi khuẩn có thể quen thuốc và
kháng thuốc, nên phải dùng liều lượng cao ngay từ đầu, tránh ngừng dùng
quá sớm, cho uống nhiều nước khi dùng hoặc uống natri bicarbonat
(NaHCO3) để tránh sulfamid kết tủa trong thận. Cần phối hợp nhiều loại
sulfamid với chất kháng sinh khác (penicillin, streptomycin).
4.2. Phối hợp thuốc
18
Hiệu quả phối hợp một số thuốc kháng sinh thông dụng được trình
bày ở bảng sau.
Chất kháng sinh thường được sử dụng đơn độc nhưng nhiều khi
cần phối hợp hai thuốc trong việc điều trị bệnh cảm nhiễm. Mục đích của
việc phối hợp thuốc là để 1) tăng cường năng lực diệt khuẩn, 2) mở rộng
hoạt phổ kháng khuẩn, 3) ức chế xuất hiện vi khuẩn kháng thuốc và 4)
giảm tác dụng phụ bất lợi đối với cơ thể,... Hiệu quả tác dụng tăng cường
diệt khuẩn thường thấy khi phối hợp trimethoprim (hay thuốc cùng nhóm)
với thuốc sulfamid, đặc biệt trong điều trị bệnh tiêu chảy ở lợn, tác dụng
tăng cường diệt khuẩn và mở rộng hoạt phổ kháng khuẩn thu được nhờ
phối hợp penicillin G với streptomycin. Phối hợp thuốc mở rộng hoạt phổ
kháng khuẩn có ý nghĩa lớn khi chưa kịp phân lập và đồng định (giám biệt)
mầm bệnh, khi cảm nhiễm vi khuẩn hỗn hợp như bệnh đường hô hấp hay
viêm vú,... Cần lưu ý rằng phối hợp thuốc chứ không phải pha trộn thuốc,
mặc dù trong nhiều trường hợp có thể pha trộn các thuốc kháng sinh với
thuốc kháng sinh khác cũng như các thuốc kháng sinh với các thuốc khác.
19
Bảng: Tương tác của một số thuốc kháng sinh khi sử dụng phối hợp để điều trị bệnh cảm nhiễm
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19
C
hất kháng sinh
N
hóm
penicillin
O
xacillin
A
m
picillin
C
ephalosporin
Erythrom
ycin
Lincom
ycin
N
ovobiocin
Fusadin natri
R
istom
ycin
R
ifam
ycin
N
hóm
streptom
ycin
M
onom
ycin
K
anam
ycin
G
entam
ycin sulfat(e)
Levom
ycetin*
Tetracyclin
C
ác sulfam
id(e)
N
ístatin
Polym
yxin
1 x
2 2 + x
3 2 + + x2
4 2+ 2+ 2+ x
5 ± ± ± ± x
6 ± ± ± ± 2+ x
7 ± ± ± ± 2+ 2+ x
8 ± ± ± ± 2+ 2+ 2+ x
9 ± ± ± ± 2+ 2+ 2+ 2+ x
10 ± ± ± ± 2+ 2+ 2+ 2+ 2+ x
11 3+ 3+ 3+ 3+ ± ± ± ± + + x
12 3+ 3+ 3+ 3+ ± ± ± ± + + - x
13 3+ 3+ 3+ 3+ ± ± ± ± + + - - x
20
14 3+ 3+ 3+ 3+ ± ± ± ± + + - - - x
15 ± ± ± ± 3+ 2+ 2+ 2+ - 2+ + + + + x
16 ± ± ± ± 3+ 2+ 3+ 2+ 2+ 2+ + + + + 2+ x
17 2+ 2+ 2+ 2+ 3+ 3+ 3+ 3+ - + + + + + - 3+ x
18 2+ 2+ 2+ 2+ 2+ 2+ 2+ 2+ 2+ 2+ 2+ 2+ 2+ 2+ 2+ 2+ 2+ x
19 2+ 2+ 2+ 2+ + + + 2+ + + - - - - + + - 3+ x
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19
N
hóm
penicillin
O
xacillin
A
m
picillin
C
ephalosporin
Erythrom
ycin
Lincom
ycin
N
ovobiocin
Fusadin natri
R
istom
ycin
R
ifam
ycin
N
hóm
streptom
ycin
M
onom
ycin
K
anam
ycin
G
entam
ycin sulfat(e)
Levom
ycetin*
Tetracyclin
C
ác sulfam
id(e)
N
ístatin
Polym
yxin
Ghi chú: 3+, tác dụng hợp đồng; 2+,tác dụng cộng; +, phối hợp không phát huy tác dụng; ±, đôi khi biểu hiện đối kháng; -, đối
kháng; gạch chân, phối hợp không hợp lý đôi khi tăng tính độc của thuốc; x, phối hợp gây độc; *chloramphenicol là thuốc kháng
sinh đã bị cấm dùng trong thú y và thủy sản nhưng vẫn dùng trong điều trị bệnh nhiễm khuẩn ở người.
21
5. Ứng dụng các đặc tính dược lý của chất kháng sinh
Khi cần sử dụng thuốc kháng sinh có hai điểm cần lưu ý là cần chọn những thuốc
có tính chất dược lý thích hợp dễ xâm nhập vào tổ chức ổ bệnh (bệnh sào) và với một liều
lượng quy định cần đưa thuốc vào cơ thể với một khoảng cách nhất định và thời điểm
nhất định.
5.1. Đường đưa vào cơ thể
Tùy theo mục đích điều trị và đặc tính dược lý của thuốc mà đưa thuốc theo
đường miệng (đưa thuốc từng lần hoặc đưa thuốc liên tục nhờ bổ sung vào thức ăn, nước
uống), theo đường tiêm (trong cơ, dưới da, trong tĩnh mạch, trong phúc mạc), tiêm vào
bầu vú và bơm vào tử cung và âm đạo. Trong trường hợp không thể điều trị cá thể thường
sử dụng biện pháp đưa thuốc liên tục qua miệng theo thức ăn, nước uống với mục đích
điều trị, trừ khử và dự phòng. Các biện pháp đưa thuốc khác ứng dụng trong các trường
hợp điều trị cá thể.
5.2. Tính hấp thu của chất kháng sinh và nồng độ trong huyết tương
Sau khi đưa vào cơ thể tính hấp thu vào máu của chất kháng sinh và sau đó là
nồng độ của chúng trong huyết tương có sự khác biệt phụ thuộc vào loại thuốc và đường
đưa thuốc vào cơ thể. Sự tăng giảm nồng độ và thời gian duy trì thuốc sau khi đưa vào cơ
thể được coi là động thái trong cơ thể của thuốc và là một trong những chỉ tiêu quan trọng
của thuốc cần vận dụng trong quá trình điều trị. Đặc biệt, trong các trường hợp bệnh có ổ
bệnh trong cơ thể (như viêm phổi, viêm thận,...) để thực hiện trị liệu đích xác cần nắm
nồng độ của thuốc trong máu và trong tổ chức.
Nếu đưa thuốc qua đường miệng có thuốc hấp thụ, nhóm neoquinolon, nhóm
sulfamid,...) và có thuốc khó hấp thụ kém (nhóm aminoglycosid, colistin,...). Hơn nữa
trong số các thuốc dễ hấp thụ ở ống tiêu hóa nếu bổ sung thuốc vào thức ăn hay nước
uống thì nồng độ thuốc tăng dần trong tổ chức. Mặc dù nồng độ thuốc trong tổ chức tăng
chậm so với tiêm thuốc nhưng trong thời gian dùng thuốc nồng độ duy trì tương tự. Do
đó đây là phương pháp thích hợp trong trị liệu, dự phòng và trừ khử, đặc biệt trong
trường hợp dự phòng và trừ khử biện pháp cho thuốc vào nước uống tiện lợi vì cả khi
động vật biếng ăn cũng có thể tiếp thụ được thuốc. Khi ép cho động vật uống thuốc hay
cho uống từng lần, nồng độ thuốc trong máu tăng nhanh hơn so với bổ sung kéo dài vào
nước uống, duy trì một thời gian nhất định nhưng thời gian duy trì dài hay ngắn phụ
thuộc vào loại thuốc. Do đó phương pháp này thích hợp đối với trừ khử, dự phòng hoặc
trị liệu vào kỳ đầu của bệnh nhưng khi bệnh đã tiến triển thì có nhiều trường hợp không
hiệu quả.
Nếu cho uống các thuốc khó hấp thu qua đường ruột thì có thể có hiệu quả điều trị
bệnh tiêu chảy nhưng nếu mầm bệnh đã xâm nhập vào trong niêm mạc ruột hoặc trong
trường hợp các bệnh có ổ bệnh trong cơ thể (như viêm phổi) thì do không đạt nồng độ
hữu hiệu của thuốc trong tổ chức nên không thể mong có hiệu quả điều trị. Với trường
hợp trâu bò chỉ nên cho bò cái và bò trưởng thành uống thuốc thời gian ngắn, tránh cho
uống thuốc kéo dài vì thuốc ảnh hưởng xấu đến các vi sinh vật có lợi trong dạ cỏ (đặc
biệt nhóm tetracyclin).
22
Trong trường hợp tiêm thuốc, nồng độ thuốc trong máu tăng nhanh hơn cho uống.
Nếu tiêm tĩnh mạch nồng độ thuốc tăng rất nhanh nhưng thời gian duy trì nồng độ trong
máu ngắn. Do đó nên áp dụng biện pháp này khi cần điều trị cấp tốc và khi tổ chức ổ
bệnh khó thẩm thấu đối với thuốc, nhưng sau đó cần kèm phương pháp tiêm trong cơ để
duy trì nồng độ thuốc kéo dài trong tổ chức. Hơn nữa tiêm tĩnh mạch cần thực hiện chậm
rãi. Các thuốc như kanamycin và streptomycin nếu tiêm tĩnh mạch sẽ gây hại thận vì vậy
cần phải tránh.
Mặc dù nồng độ trong máu tăng chậm so với tiêm tĩnh mạch nhưng tiêm trong cơ
và dưới da duy trì nồng độ thuốc trong cơ thể kéo dài hơn. Thời gian duy trì nồng độ phụ
thuộc vào loại thuốc, penicillin G có thời gian duy trì trong máu ngắn trong khi các thuốc
nhóm tetracyclin kéo dài. Để kéo dài thời gian duy trì nồng độ trong máu người ta chế
các thuốc tiêm hấp thu chậm như penicillin G procain (hơn 24 giờ) và oxytetracyclin LA
(đến 5 ngày) là những thuốc hấp thu từ từ khi tiêm trong cơ. Trước khi tiêm những thuốc
này cần tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm trong cơ các thuốc cùng loại có tính hấp thu nhanh để
đạt nồng độ hữu hiệu nhanh chóng.
Với phương pháp tiêm vào buồng vú và trong tử cung - âm đạo chủ yếu tác dụng
điều trị tại chỗ, lượng rất ít thuốc có thể được hấp thu nhưng không vượt quá mạch máu.
5.3. Di hành và phân bố ở tổ chức
Sau khi đưa vào cơ thể thuốc được hấp thu vào máu, khi đạt đến một nồng độ nào
đó thì di hành (thấm) vào tổ chức tiếp theo. Bình thường khi nồng độ thuốc trong tổ chức
tăng dần thì nồng độ của nó trong máu giảm dần rồi sau một thời gian nhất định đạt đến
mức bằng nhau. Tuy nhiên, ngay cả khi đó, ở các tổ chức (đặc biệt các tổ chức có chức
năng bài tiết như gan và thận) nồng độ thuốc tăng lên cao và có khuynh hướng tồn lưu
ngay cả khi hết thuốc trong máu.
Tính di hành vào tổ chức của các thuốc kháng sinh phụ thuộc vào loại thuốc, có
thuốc di hành tốt vào tổ chức (nhóm macrolid, nhóm tetracyclin, nhóm neoquinolon) và
các thuốc khó di hành vào tổ chức (nhóm aminoglycosid). Penicillin là thuốc trung gian
về thuộc tính di hành vào tổ chức.
Có thuốc có tính di hành mạnh đối với tổ chức nhất định, như tính di hành vào
phổi của các thuốc nhóm macrolid, nhóm tetracyclin và các sulfamid,... mạnh, ngược lại
các thuốc nhóm aminoglycosid có tính di hành vào phổi kém hơn. Các thuốc bài xuất qua
thận như penicillin và các thuốc nhóm aminoglycosid có nồng độ ở thận cao hơn nhiều so
với trong máu và các tổ chức khác.
Các thuốc có tính di hành mạnh vào tổ chức thường có hiệu quả điều trị cao đối
với cảm nhiễm toàn thân, viêm phổi, viêm thận,... nhưng có khuynh hướng tồn lưu kéo
dài trong tổ chức (như trong trường hợp tiêm các thuốc nhóm aminoglycosid, nhóm
tetracyclin, nhóm macrolid). Ngoài ra còn lưu ý thêm rằng nếu dùng liều cao các thuốc
nhóm aminoglycosid thường dẫn đến suy thận.
6. Ứng dụng lâm sàng của chất kháng sinh
6.1. Điểm chú ý với kháng sinh diệt khuẩn và kháng sinh chế khuẩn
23
Các thuốc kháng sinh (kháng khuẩn) bao gồm các thuốc diệt khuẩn (gây chết vi
khuẩn) và các thuốc chế khuẩn (ức chế sự sinh trưởng của vi khuẩn). Khi sử dụng nên
chú ý một số điểm sau.
Các thuốc nhóm penicillin và nhóm cephalosporin có tác dụng chỉ đối với các vi
khuẩn ở kỳ tăng trưởng (pha log). Do trong ổ bệnh thường có lẫn các tế bào vi khuẩn
mầm bệnh ở kỳ dừng phát triển nên nếu chỉ sử dụng thuốc một lần thì sau một thời gian,
khi nồng độ thuốc trong tổ chức ổ bệnh đã hết, những tế bào vi khuẩn này bắt đầu phát
triển và làm bệnh tái phát. Cho nên dù là kháng sinh diệt khuẩn cũng phải dùng nhiều lần,
đồng thời duy trì thời điểm dùng thuốc cũng như khoảng cách dùng thuốc thích hợp.
Mặt khác khi dùng thuốc kháng sinh chế khuẩn, các thuốc này do chỉ ức chế vi
khuẩn phát triển mà không làm chết vi khuẩn nên sau một thời gian khi nồng độ thuốc
hữu hiệu không còn vi khuẩn lại bắt đầu phát triển. Do đó, thuốc này cũng cần áp dụng
lại nhiều lần với thời gian và khoảng cách dùng thuốc nhất định. Khi đó, các hệ thống
miễn dịch (thực bào, bổ thể,...) sẽ tiêu diệt các vi khuẩn ở trạng thái tĩnh. Trong các
trường hợp bệnh nặng cũng như các bệnh làm suy giảm cơ năng miễn dịch, do chức năng
đề kháng giảm, cơ thể không thể có sự hiệp lực diệt khuẩn nên không thể lành bệnh.
Trong những trường hợp đó cần dùng các thuốc kháng sinh diệt khuẩn.
6.2. Khoảng cách và thời điểm đưa thuốc vào cơ thể
Nguyên tắc quan trọng của việc dùng thuốc kháng sinh là sao cho nồng độ của
thuốc trong ổ bệnh cao hơn nồng độ tối thiểu gây ức chế (MIC) mầm bệnh. Phụ thuộc
vào loại thuốc kháng sinh, thời gian tiếp xúc của liều cao hơn nồng độ tối thiểu gây ức
chế của thuốc kháng sinh với mầm bệnh để có tác dụng dài ngắn khác nhau. Các thuốc
nhóm aminoglycosid và nhóm neoquinolon chỉ tiếp xúc một thời gian ngắn cũng có hiệu
quả nhưng các thuốc nhóm penicillin và cephalosporin thì phải tiếp xúc kéo dài. Điều này
liên quan đến khoảng cách dùng thuốc. Gần đây người ta thấy rằng sau khi vi khuẩn mầm
bệnh hết tiếp xúc với liều lớn hơn nồng độ tối thiểu gây ức chế của thuốc, mỗi thuốc duy
trì hiệu quả ức chế tăng trưởng (PAE) bởi thuốc trong một khoảng thời gian nhất định.
Trong ống nghiệm đối với đa số thuốc kháng sinh, các vi khuẩn Gram dương có thời gian
duy trì hiệu quả ức chế tăng trưởng khoảng từ 1 - 3 giờ, trong khi ở các vi khuẩn Gram
âm không nhận thấy thời gian duy trì hiệu quả ức chế tăng trưởng với các thuốc nhóm
penicillin và cephalosporin nhưng với đa số thuốc khác thường 1 - 4 giờ. Trong cơ thể
thời gian duy trì hiệu quả ức chế tăng trưởng có thể dài hơn ít nhiều và điều này cũng liên
quan đến khoảng cách đưa thuốc vào cơ thể.
Về phương pháp đưa thuốc đối với trường hợp điều trị cá thể nếu nói cụ thể thì,
nếu sử dụng liều quy định với cách đưa thuốc nhất định thì nồng độ thuốc trong máu thiết
định vượt mức nồng độ tối thiểu gây ức chế nên không lo về liều sử dụng đối với các
thuốc kháng sinh bán ra thị trường. Về khoảng cách đưa thuốc vào cơ thể thì nếu tiêm
trong cơ các thuốc penicillin (trừ thuốc chế để tiêm hấp thụ chậm) do thời gian duy trì
nồng độ trong máu ngắn nên nếu tính cả hiệu quả ức chế tăng trưởng thì thời gian tiêm lại
khoảng 12 giờ (1 ngày 2 lần) là hữu hiệu. Điều này rất quan trọng trong trường hợp bệnh
nặng. Ngược lại, trong trường hợp tiêm trong cơ các thuốc nhóm aminoglycosid và nhóm
macrolid hoặc cho uống các thuốc nhóm macrolid thì do thời gian duy trì nồng độ trong
máu và hiệu quả ức chế tăng trưởng kéo dài nên dùng thuốc mỗi ngày một lần cũng có
hiệu quả điều trị. Các thuốc tiêm nhóm tetracyclin, nhóm macrolid và nhóm sulfamid
24
cũng có tác dụng tương tự nhưng do ba nhóm thuốc này dễ phân giải nếu pha vào nước
cho uống nên cần cho uống một lúc, đặc biệt các thuốc nhóm macrolid cho uống một
ngày hai lần thì có hiệu quả điều trị. Trên cơ sở những nguyên tắc nêu trên, trong thực tế
tùy bệnh trạng nặng nhẹ và thể bệnh mà quyết định khoảng cách dùng thuốc thích hợp.
Mặt khác, trong trường hợp bệnh cảm nhiễm vi khuẩn ở động vật chăn nuôi tập
đoàn và điều trị cá thể khó khăn thì bệnh dễ lây lan cả tập đoàn nhanh chóng. Lúc này
nhiều động vật có thể cảm nhiễm hoặc đang ở giai đoạn ủ bệnh. Do đó, khi phát hiện
bệnh ở một bộ phận động vật trong tập đoàn cần thực hiện biện pháp đưa thuốc thích hợp
vào thức ăn hoặc nước uống cho cả tập đoàn (biện pháp trừ khử). Mặc dù phương pháp
đưa thuốc này làm tăng nồng độ thuốc trong máu không nhanh chóng như phương pháp
tiêm hay uống một lần nhưng trong quá trình cho thuốc nồng độ thuốc duy trì ở một mức
nhất định gây ức chế sự xâm nhập và phát triển của vi khuẩn mầm bệnh trong cơ thể.
Trong trường hợp bệnh cấp tính và á cấp tính cần chọn phương pháp đưa thuốc để
đạt nồng độ hữu hiệu nhanh và để phòng tái phát và phát sinh vi khuẩn kháng thuốc cần
duy trì cho thuốc kéo dài thêm một đến một số ngày sau khi động vật khỏi bệnh. Mặt
khác khi dùng thuốc hơn một tuần mà không thấy hiệu quả thì thay thuốc khác có thể đưa
lại hiệu quả điều trị.
Trong trường hợp bệnh hô hấp mãn tính ở lợn và gà thì dù dùng thuốc cũng
thường không trừ khử hoàn toàn được mầm bệnh trong ổ bệnh. Tuy nhiên, nếu định kỳ sử
dụng thuốc thích hợp có thể cải thiện tình trạng sức khỏe của đàn, phòng cảm nhiễm thứ
phát, tăng hiệu quả sử dụng thức ăn và tăng trọng, phòng cảm nhiễm mẹ sang con.
7. Sự kháng thuốc kháng sinh
Từ khi sử dụng thuốc kháng sinh trên phạm vi rộng dù là những thuốc diệt khuẩn,
đã xuất hiện và tăng nhanh ở mức độ khác nhau những chủng vi khuẩn đề kháng với
thuốc được sử dụng (các chủng kháng thuốc) làm hiệu quả điều trị của các thuốc kháng
sinh giảm. Khi đó nếu phân lập kiểm tra các chủng vi khuẩn kháng thuốc thường thấy
nồng độ tối thiểu gây ức chế (MIC) của nhiều thuốc kháng sinh đã sử dụng thường lớn
hơn nồng độ tối thiểu gây ức chế đối với các chủng vi khuẩn thông thường. Những chủng
như vậy gọi là vi khuẩn kháng thuốc (drug resistant bacteria). Các loại vi khuẩn kháng
thuốc nhóm penicillin, nhóm tetracyclin, nhóm aminoglycosid và nhóm sulfamid phân
lập được từ gia súc, gia cầm ngày càng có xu hướng gia tăng. Tuy nhiên, cho đến nay thế
giới chưa nhận thấy chủng vi khuẩn đề kháng colistin.
Cơ chế của quá trình kháng thuốc ở vi khuẩn trước hết là do cơ chế di truyền, sự
vận chuyển gen kháng thuốc sau đó trên cơ sở sự điều khiển của gen được phát huy cơ
cấu sinh hóa học được phát động.
7.1. Cơ chế sinh hóa học
Cơ chế sinh hóa học quá trình kháng thuốc ở vi khuẩn có những thể thức đa dạng
và rất phức tạp phụ thuộc vào loại vi khuẩn cũng như chủng loại chất kháng sinh mà
chúng đề kháng. Những cơ cấu sinh hóa học phức tạp đó có thể phân chia thành hai nhóm
lớn: 1) vi khuẩn sản sinh các enzym vô hoạt các chất kháng sinh làm thuốc mất tác dụng
đối với vi khuẩn và 2) vi khuẩn biến đổi cơ cấu chuyển hóa thiết yếu của mình làm cho
chất kháng sinh mất tác dụng.
25
Cơ chế thứ nhất (vô hoạt kháng sinh) có thể chia thành hai nhóm là vi khuẩn sản
sinh enzym phân giải chất kháng sinh làm thuốc mất hiệu lực (đại bộ phận đề kháng với
nhóm penicillin và nhóm cephalosporin) và thứ hai là vi khuẩn sản sinh enzym thay đổi
cấu trúc chất kháng sinh làm vi khuẩn chịu đựng được sự có mặt của thuốc hay thuốc mất
tác dụng (đa số trường hợp đề kháng aminoglycosid và chloramphenicol).
Trong cơ chế thứ hai (cải biến kháng sinh) cũng có hai nhóm khác nhau. Thứ nhất
là cơ chế làm giảm tính thẩm thấu của màng tế bào chất đối với chất kháng sinh làm cho
thuốc không xâm nhập được vào bên trong tế bào vi khuẩn (một bộ phận vi khuẩn đề
kháng các thuốc nhóm macrolid và một bộ phận đề kháng sulfamid) hoặc cơ chế bắt giữ
và bài xuất chất kháng sinh đã xâm nhập vào tế bào (đa số trường hợp đề kháng với thuốc
nhóm tetracyclin). Thứ hai là biến đổi vị trí kết hợp nguyên phát của chất kháng sinh như
thay đổi ARN ribosom (đại bộ phận đề kháng nhóm macrolid và một bộ phận đề kháng
nhóm aminoglycosid), hoặc thay đổi enzym liên quan sự tổng hợp ADN (DNase) (đại bộ
phận đề kháng nhóm neoquinolon) hoặc liên quan tổng hợp PBP (penicillin-binding
protein: các enzym liên quan sự tổng hợp vách tế bào; trong trường hợp đề kháng nhóm
penicillin), đều có điểm chung là làm giảm năng lực kết hợp điểm tác động của chất
kháng sinh với chất kháng sinh đó.
Chính vì những cơ chế phức tạp nêu trên thường thấy hiện tượng đề kháng chéo
(cross resistance). Hiện tượng này thường thấy với sự đề kháng các thuốc nhóm
penicillin, nhóm macrolid, nhóm neoquinolon và các sulfamid, đó là hiện tượng vi khuẩn
phát sinh đề kháng với một thuốc kháng sinh thường đề kháng với cả các thuốc cùng
nhóm).
Tuy nhiên, cũng có cơ cấu cảm ứng dẫn đến hiện tượng không tiếp thụ tác dụng
của enzym vô hoạt thuốc của vi khuẩn kháng thuốc, như amicasin là chất cảm ứng của
kanamycin được khai phát và sử dụng trong y dược.
Với những cơ chế đề kháng nêu trên, trong sử dụng lâm sàng cần lưu ý lựa chọn
những chất kháng sinh thích hợp.
7.2. Cơ chế di truyền
Có thể chia các cơ chế di truyền chi phối tính đề kháng thuốc kháng sinh thành
hai nhóm: gen nhiễm sắc thể bị biến đổi và sự vận chuyển plasmid kháng thuốc (plasmid
R, resistance factor). Trong hai cơ chế trên, đối với nhiễm sắc thể gen nhiễm sắc thể có
thể bị đột biến (đề kháng nhóm neoquinolon, axit nalidixic,...) hoặc bình thường ở trạng
thái lặn nhưng do cảm ứng của liều nhỏ chất kháng sinh mà trở nên hoạt động (đề kháng
nhóm macrolid). Trong số các chủng vi khuẩn phân lập từ các trường hợp lâm sàng có
thể gặp nhiều chủng đề kháng thuộc cơ chế thứ nhất (biến dị gen nhiễm sắc thể) nhưng
thông thường sự phổ biến của các chủng kháng thuốc thuộc cơ chế thứ hai (truyền
plasmid) có tần suất cao hơn nhiều. Tuy nhiên, dù cơ chế thế nào đi nữa thì việc sử dụng
rộng rãi của các chất kháng sinh với vai trò của yếu tố chọn lọc làm tăng nhanh sự phổ
biến của các chủng kháng thuốc, đặc biệt là các chủng kháng thuốc do plasmid. Vì vậy,
không được lạm dụng thuốc kháng sinh, dùng thuốc phải thận trọng, cần vận dụng liều
cao ngay từ đầu và duy trì liều hữu hiệu trong suốt liệu trình điều trị, tránh dùng liều thấp
không làm chết vi khuẩn mà ngược lại có tác dụng như yếu tố tuyển lựa và yếu tố cảm
ứng kháng thuốc.
26
Plasmid là yếu tố di truyền cấu tạo từ một ADN hai sợi mạch vòng nằm ngoài
nhiễm sắc thể ở vi khuẩn, thường tồn tại và sao chép độc lập với nhiễm sắc thể. Trong số
các plasmid có plasmid R, plasmid F (liên quan sự tiếp hợp ở vi khuẩn), plasmid quy
định độc tính hay tính gây bệnh (các plasmid quy định sản sinh độc tố ở trực khuẩn
đường ruột, sinh yếu tố kết bám,...). Các plasmid R liên quan đến tính kháng thuốc của vi
khuẩn, trong số đó, có 1) các plasmid R lan truyền được có thể vận chuyển được từ tế bào
này sang tế bào khác và 2) các plasmid R không lan truyền được (không có tính tiếp
hợp). Các vi khuẩn mang plasmid R lan truyền được có thể tiếp hợp với tế bào vi khuẩn
khác và truyền plasmid kháng thuốc cho nó làm cho số lượng và chủng loại vi khuẩn
kháng thuốc tăng nhanh trong tập đoàn, đặc biệt khi trong môi trường có mặt chất kháng
sinh. Các plasmid R được thấy ở trực khuẩn đường ruột, Pseudomonas, Bordetella,... Ở
trực khuẩn đường ruột có thể gặp các plasmid kháng tetracyclin, streptomycin,
ampicillin, kanamycin, chloramphenicol, trong đó có các plasmid quy định đề kháng hai
chất kháng sinh, thậm chí có trường hợp plasmid đề kháng 5 chất kháng sinh. Các
plasmid này có thể chi phối các cơ chế sinh hóa kháng thuốc khác nhau. Điều lưu ý nữa
là các plasmid có thể vận chuyển cho vi khuẩn khác loại (như E. coli vận chuyển cho
Salmonella,...) làm cho vấn đề hiệu quả điều trị bệnh nhiễm khuẩn ngày càng trầm trọng.
Các plasmid R không lan truyền được thường gặp ở các tụ cầu khuẩn và cũng chi phối đề
kháng đối với nhiều loại thuốc kháng sinh khác nhau (tetracyclin, penicillin,
chloramphenicol,...). Thông thường những plasmid chỉ quy định đề kháng một loại thuốc
kháng sinh nhưng cũng có trường hợp một plasmid quy định đề kháng nhiều thuốc
(plasmid đa kháng). Hơn nữa, trong một vi khuẩn có thể có một số plasmid kháng thuốc
mặc dù nhiều chủng vi khuẩn không mang plasmid. Các plasmid không lan truyền được
không có miền gen chi phối sự tiếp hợp nhưng chúng có thể được vận chuyển sang tế bào
khác nhờ các phage độc.
Trên bộ gen của một số plasmid R còn có transposon (gen nhảy) là yếu tố có khả
năng chuyển dịch và kết hợp với nhiễm sắc thể hoặc plasmid khác. Có thể nhờ yếu tố này
mà hình thành các plasmid đa kháng.
III. Điều trị bệnh cảm nhiễm nấm
Nói chung do nấm là sinh vật nhân thật, có nhân hoàn chỉnh và ty thể như tế bào
động vật, lại có cấu trúc vách tế bào khác với vi khuẩn nên các chất kháng sinh chống vi
khuẩn không có tác dụng đối với nấm, và vì vậy thuốc kháng nấm (antifungal agent)
không nhiều và phần nhiều các thuốc có tác dụng phụ đối với cơ thể động vật. Thuốc
kháng sinh chống nấm chủ yếu tác động lên màng tế bào chất. Để điều trị bệnh nấm da ta
có thể dùng các tác nhân hóa học như iod (povidoniodine, KI), axit béo, axit salicylic,
muối ammoni, ether, muối đồng, muối thủy ngân, thuốc nhuộm,... Các chất kháng sinh
chống nấm được sử dụng trong điều trị chủ yếu thuộc các nhóm polyen và imidazol.
Thuốc dùng cục bộ có nanaomycin, siccanin, gryseofulvin và nistatin. Trong đó ba thuốc
đầu có hiệu lực điều trị các bệnh nấm sợi trên da ở ngựa, bò, trâu, chó,... do cảm nhiễm
Trichophyton và Microsporium còn nistatin có tác dụng đối với Candida. Amphotericin
B có biểu hiện tác động chống Histoplasma, Aspergillus, Coccidioides, Cryptococcus,
Candida, Sporothrix, Mucor,... có thể dùng để tiêm nhưng thường gây tác dụng phụ như
suy thận, phát sốt,... Clotrimazol, miconazol, econazol,... nhờ có tác dụng nguyên phát
đối với gốc azol không bão hòa và tác dụng thứ sinh trở ngại sự tổng hợp các hợp chất
cao phân tử mà có tác dụng mạnh đối với các nấm da và Candida nhưng nếu dùng đường
27
miệng thì gây hại đối với dạ dày. Riêng miconazol được dùng khá rộng rãi dưới dạng
thuốc dùng ngoài, thuốc tiêm, thuốc uống trong nhân y. Cyclopiroxolamin không gây hại
đối với cấu trúc của màng nhưng có tác dụng chống nấm do tác dụng trực tiếp đến protein
ATPaza.
Bên cạnh đó, một số vi khuẩn dạng sợi vốn được coi là nấm như Actinomyces có
thể điều trị bằng thuốc nhóm sulfamid, ampicillin, các thuốc họ beta-lactam và nhóm
macrolid, còn các thuốc tetracyclin, thuốc nhóm aminoglycosid, các sulfamid hữu hiệu
trong điều trị bệnh cảm nhiễm Nocardia.
IV. Điều trị bệnh cảm nhiễm Rickettsia, Chlamydia
Các Rickettsia và Chlamydia cảm thụ với các thuốc nhóm tetracyclin, nhóm
macrolid (đặc biệt streptomycin) và chloramphenicol,... nên có thể dùng với liều cao các
thuốc này điều trị các bệnh cảm nhiễm Anaplasma ở bò và trâu cũng như bệnh sốt vẹt
hay sốt chim (psitacosis, ornithosis) do cảm nhiễm Chlamydia ở gà và bò, chó, mèo,...
V. Điều trị bệnh cảm nhiễm virut
1. Thuốc chống virut
Cho đến nay hiệu quả của các thuốc kháng sinh chống virut đã được thử nghiệm
sử dụng trong y học nhưng hiệu quả của chúng còn hạn chế. Các thuốc chống virut phải
có tác dụng hoặc là ngăn trở sự xâm nhập của virut vào tế bào hoặc là ức chế một cách
đặc hiệu quá trình sinh sản của các virut đã xâm nhập vào bên trong tế bào. Tuy nhiên, do
quá trình tổng hợp axit nucleic của virut và của tế bào động vật ký chủ giống nhau nên
các thuốc chống virut thường độc đối với cơ thể động vật. Trong đa số trường hợp khi
phát bệnh virut thường sinh sản lượng lớn virion ở trong cơ quan mục tiêu nhất định cho
nên khó có thể trông đợi hiệu quả dùng thuốc chống virut đơn độc. Cho nên, thuốc chống
virut phải dùng trong giai đoạn rất sớm của cảm nhiễm. Các thuốc chống virut được khai
phát cho đến nay có phổ tác dụng hẹp.
Thuốc chống virut vì vậy chỉ giới hạn sử dụng thử nghiệm trong y học ở những
trường hợp bệnh mà vacxin chưa được khai phát hoặc vacxin chưa cho hiệu quả phòng
bệnh. Trong thú y việc sử dụng các thuốc kháng virut còn chưa được sử dụng, dưới đây
liệt kê một số thuốc sử dụng trong nhân y.
IDU (idoxuridin) áp dụng cục bộ điều trị bệnh cảm nhiễm viêm giác mạc do
herpesvirut ở người. Ara-A (bidalavin) tiêm để điều trị bệnh viêm não do herpesvirut
(mụn đơn thuần,...), ACV (acyclovir) điều trị bệnh cảm nhiễm herpesvirut đặc biệt trong
các trường hợp miễn dịch suy yếu. Amantasin, limantasin và rivlivin,... dùng điều trị hô
hấp cấp tính do virut cúm gây ra.
2. Interferon
Interferon là một loại chất glycoprotein được sản sinh ra trong tế bào dưới tác
dụng cảm ứng của virut hoặc các chất do chúng sản sinh ra trên cơ sở thông tin di truyền
trong nhiễm sắc thể, tuy không trực tiếp vô hoạt virut nhưng tác động đến tế bào đưa tế
bào vào trạng thái chống virut mà có tác dụng ức chế sự sinh sản của virut. Interferon chỉ
phát huy tác dụng đối với các loại tế bào của loài sinh ra nó (đặc hiệu loài) nhưng có tác
dụng với nhiều loại virut, không biểu hiện tính đặc hiệu loài virut. Bên cạnh tác dụng với
28
virut, interferon còn có tác dụng đối với các vi khuẩn, nguyên trùng sinh sản nội bào.
Hiện nay interferon cũng chỉ được sử dụng trong lĩnh vực y học với mục đích điều trị,
đặc biệt đối với một số bệnh cảm nhiễm virut chưa thể chế được vacxin hoặc vacxin
không hiệu quả.
Interferon có ba các loại alpha, beta và gamma, khác nhau ở tế bào sản sinh cũng
như các chất cảm ứng sản sinh. Các alpha- và beta-interferon có hiệu quả điều trị với
bệnh viêm giác mạc do herpesvirut, mụn đơn thuần, viêm gan B,... các alpha-interferon
có hiệu quả trong điều trị bệnh viêm não do virut cấp tính. Trong lĩnh vực thú y
interferon còn đang giai đoạn thử nghiệm, đã có thể thực nghiệm ở một số nước trong
điều trị bệnh cảm nhiễm calicivirut ở mèo.
VI. Điều trị bệnh cảm nhiễm nguyên trùng
Do các bệnh cảm nhiễm Theileria ở bò, bệnh cảm nhiễm Toxoplasma ở lợn và
bệnh Coccidia ở gà gây nhiều thiệt hại lớn cho nền kinh tế nên việc ứng dụng các biện
pháp dự phòng, điều trị và trừ khử các bệnh này là vấn đề quan trọng và được quan tâm
nghiên cứu trên thế giới. Hiện nay, việc điều trị các bệnh này được mở rộng nhiều. Dưới
đây liệt kê một số bệnh với biện pháp điều trị được biết đến.
Điều trị bệnh cảm nhiễm Theileria ở bò (Theileria sergenti): các sulfamid
(sulfamonomethoxin, sulfadimethoxin), thuốc phối hợp sulfamoyldapson, hoặc là
sulfadimethoxin với pirimethamin có hiệu quả điều trị.
Điều trị bệnh cảm nhiễm Toxoplasma (Toxoplasma gondii): thuốc phối hợp
amprolium với sulfakinoxalin, sulfamonomethoxin, sulfadimethoxin,...
Điều trị bệnh cảm nhiễm Coccidia (Coccidia tenella,...): thuốc điều trị bệnh
coccidiosis ở gia cầm có thể là sulfamonomethoxin, sulfadimethoxin, thuốc phối hợp
amprolium với sulfakinoxalin. Từ lâu đối sách phòng bệnh này là thiết yếu. Để phòng
bệnh này người ta thường sử dụng thuốc phối hợp amprolium với etopabet, naicalvasin,...
và các chất kháng sinh nhóm polyether cũng có hiệu quả.
Điều trị bệnh cảm nhiễm Leucocytozoon (Leucocytozoon caulleryi): các thuốc
có thể sử dụng điều trị và dự phòng bệnh này là sulfamonomethoxin, sulfadimethoxin,
hoặc thuốc phối hợp sulfadimethoxin với pyrimethamitamin,... hoặc với mục đích dự
phòng có thể sử dụng thuốc phối hợp amprolium với etopabet và sulfakinoxalin và
chlorpidol,...
Điều trị bệnh cảm nhiễm Giardia và Trichomonas (Pentatrichomonas): các
thuốc metronidazol có hiệu quả điều trị. Tuy nhiên cần lưu ý rằng dư lượng thuốc này
gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người sử dụng vì vậy phải tuân thủ thời điểm giết mổ
sau sử dụng thuốc kháng sinh sao cho không còn dư lượng thuốc trong sản phẩm.
VIII. Quy tắc sử dụng thuốc kháng sinh
Dùng kháng sinh có thể gây nhiều tai biến do thuốc có tính độc, do phản ứng dị
ứng, do một lúc tiêu diệt nhiều vi khuẩn làm giải phóng một lượng lớn nội độc tố, làm
giảm phản ứng miễn dịch của cơ thể (do tác động xấu đến các loại tế bào thẩm quyền
miễn dịch, làm giảm lượng kháng nguyên phòng bệnh và kháng sinh có thể tiêu diệt cả
các vi khuẩn có ích cho cơ thể). Dùng bừa bãi còn gây nên hiện tượng kháng thuốc làm
29
giảm thấp tác dụng chữa bệnh của chất kháng sinh. Vì vậy, khi dùng cần theo những
nguyên tắc sau đây:
- Phải chẩn đoán đúng bệnh để dùng thuốc. Dùng hấp tấp thuốc không được lựa
chọn trên cơ sở kết quả chẩn đoán sẽ không chữa khỏi bệnh, mà còn làm cho việc chẩn
đoán bệnh về sau gặp khó khăn.
- Chọn loại kháng sinh có tác dụng tốt nhất đối với mầm bệnh đã xác định. Dùng
liều cao ngay từ đầu, những lần sau đó có thể giảm liều lượng. Có thể sử dụng thuốc hấp
thu chậm nhưng trước đó phải tiêm thuốc hấp thu nhanh cùng loại.
- Không nên vội vàng thay kháng sinh mà phải chờ một thời gian để phát huy tác
dụng của kháng sinh.
- Phải dùng phối hợp nhiều loại kháng sinh để làm giảm liều lượng và độc tính
của từng loại, làm phổ tác động đến vi khuẩn rộng hơn, tăng tác dụng điều trị và hạn chế
hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc. Khi phối hợp thuốc, cần chọn những thuốc có tác dụng
tăng cường lẫn nhau (tác dụng hợp đồng) hoặc các thuốc cộng hợp, tránh phối hợp các
thuốc đối kháng (về hoạt tính hóa học cũng như tác dụng điều trị, tham khảo bảng tác
dụng phối hợp thuốc).
- Phải tăng cường sức đề kháng của cơ thể như nuôi dưỡng tốt, dùng thêm
vitamin, tiêm nước sinh lý, phối hợp thuốc giảm đau, giảm sốt và an thần (trấn tĩnh) và
thuốc chống viêm khi cần thiết để làm giảm tác động gây stress của quá trình bệnh lý.
Tuy nhiên, cần chú ý rằng các thuốc chống viêm nhóm steroid (hydrocortisol,
prednisolon,...) có tác dụng gây giảm bạch cầu nên dẫn đến giảm sức đề kháng của cơ thể
nếu sử dụng kéo dài. Chất kháng sinh chế khuẩn chỉ có thể có tác dụng khi cơ thể có sức
đề kháng: tiêu diệt và bài xuất mầm bệnh.
- Một số hóa dược khi dùng có thể làm yếu sự hoạt động của tim và gây nên nhiều hiện
tượng bệnh lý khác, một phần là do tác động của thuốc, một phần là do tác động của nội
độc tố mầm bệnh. Vì vậy, khi dùng các loại thuốc này cần phải theo dõi hoạt động tim và
có biện pháp can thiệp kịp thời.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Điều trị bệnh truyền nhiễm.pdf