Điều tra nguồn thức ăn tự nhiên của đại gia súc ở xã Minh Đức, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang

Minh Duc commune is located in mountainous northern area of Viet Yen district, about 4 km far from district center. Minh Duc has favorable conditions for the development of cattle breeding. Plant group is rich with many good - quality grasses. The specific type of pasture grass in Minh Duc is a high grass of Poaceae. In the process of the investigation, we have collected 81 species of 32 families. The main grass species of grasses are short, rhizome short-term resistance and rich in natural protein ratio and lipids. Grass yield changes from month to month, reaching the highest weight in September. Minh Duc commune pasture is currently used unreasonably, so the natural grass is in degradation. It should be invested in researching to use reasonable procedures

pdf6 trang | Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 381 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều tra nguồn thức ăn tự nhiên của đại gia súc ở xã Minh Đức, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hoàng Chung và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 85(09)/2: 35 - 40 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 35 ĐIỀU TRA NGUỒN THỨC ĂN TỰ NHIÊN CỦA ĐẠI GIA SÚC Ở XÃ MINH ĐỨC, HUYỆN VIỆT YÊN, TỈNH BẮC GIANG Hoàng Chung 1, Trần Minh Khương1, Nguyễn Anh Hùng2* 1Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên, 2Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Minh Đức là xã miền núi nằm phía Bắc huyện Việt Yên, cách trung tâm huyện khoảng 4 km. Xã Minh Đức có điều kiện tốt để phát triển chăn nuôi đại gia súc. Tập đoàn cây thức ăn ở đây khá phong phú, nhiều loài cỏ chất lƣợng tốt. Hợp loài đặc trƣng cho loại hình đồng cỏ Minh Đức là loại cỏ cao thuộc họ Hòa thảo (Poaceae).Trong quá trình điều tra chúng tôi đã thu đƣợc 81 loài thuộc 32 họ. Các loài cỏ chính đều thuộc các loài cỏ thấp, thân rễ ngắn có khả năng chịu hạn và dẫm đạp cao, chất lƣợng các loài cỏ tự nhiên tốt, tỷ lệ hàm lƣợng protein, lipit cao. Năng suất cỏ thay đổi từ tháng này đến tháng khác, đạt trọng lƣợng cao nhất vào tháng 9. Đồng cỏ xã Minh Đức hiện nay sử dụng chƣa hợp lý nên năng suất thấp, thảm cỏ tự nhiên ngày càng bị thoái hóa. Cần đƣợc đầu tƣ nghiên cứu để có quy trình sử dụng hợp lý. Từ khoá: Cỏ tự nhiên, năng suất, chất lượng, thành phần loài, Minh Đức. MỞ ĐẦU* Minh Đức là xã miền núi nằm phía Bắc huyện Việt Yên, cách trung tâm huyện khoảng 4 km, có diện tích tự nhiên là 2.013,74 ha, dân số 11.729 ngƣời. Khu vực nghiên cứu nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, có 2 mùa rõ rệt. Mùa hè nóng ẩm, mƣa nhiều và mùa đông khô hanh, lạnh. Nhiệt độ trung bình năm 230C, chế độ nhiệt phân hóa theo mùa rõ rệt, trong năm có 4 tháng nhiệt độ bình quân nhỏ hơn 20 0 C là các tháng 11, 12, 1 và 2. Đây là yếu tố rất thích hợp cho việc bố trí cơ cấu cây trồng ngắn ngày tƣơng đối đa dạng, đặc biệt đối với một số rau thực phẩm ôn đới có giá trị kinh tế cao. Tổng tích ôn đạt trên 8.500 0C/năm cho phép phát triển nhiều vụ cây trồng ngắn ngày trong năm. Lƣợng mƣa trung bình hàng năm 1.851mm, nhƣng phân bố không đồng đều giữa các tháng trong năm. Lƣợng mƣa tập trung chủ yếu vào mùa nóng chiếm 85,4% tổng lƣợng mƣa cả năm gây ra úng lụt cục bộ tại một số khu vực. Độ ẩm không khí bình quân cả năm khoảng 81%. Các tháng mùa khô ít mƣa, thƣờng có độ ẩm thấp làm cƣờng độ bốc hơi nƣớc khá cao gây ra hạn hán trong một số tháng gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp và đời sống của nhân dân. * Tel: 0988.127.737; Email: nguyenanhungdhkh@gmail.com Xã Minh Đức có 2.686 hộ, chủ yếu là dân tộc Kinh, một số là dân tộc thiểu số. Có nền giáo dục tƣơng đối phát triển: toàn xã đã hoàn thành phổ cập tiểu học và trung học cơ sở trong độ tuổi. Mức sống hiện nay của các hộ trong xã ở mức trung bình so với bình quân chung của huyện. Năm 2009, bình quân thu nhập đầu ngƣời là 8 triệu đồng/năm, lƣơng thực 540 kg/năm. Việc giao đất giao rừng đã đạt hiệu quả đầu tiên. Do có đồng cỏ nên ở đây đã từ lâu phát triển chăn nuôi đại gia súc với quy mô hộ gia đình, nhƣng tổng đàn gia súc không lớn, việc chăn thả ở đây chƣa có kế hoạch cụ thể nên đã ảnh hƣởng rất lớn đến thảm cỏ, diện tích của đồng cỏ thoái hóa ngày càng cao. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP ĐIỀU TRA Đối tượng - Chúng tôi tiến hành nghiên cứu về nguồn thức ăn tự nhiên của đại gia súc tại 2 địa điểm khác nhau thuộc xã Minh Đức, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Điểm nghiên cứu số 1 (ĐNC1): Là đồng cỏ trên đồi Mỏ Thổ, xã Minh Đức, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, có độ dốc 35 0. Điểm nghiên cứu số 2 (ĐNC2): Là cỏ trên đê sông Máng ở xã Minh Đức – huyện Việt Yên –tỉnh Bắc Giang. Phương pháp nghiên cứu - Thu thập số liệu từ các cơ quan chuyên môn về: Dân số, đất đai, khí hậu, thủy văn Hoàng Chung và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 85(09)/2: 35 - 40 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 36 - Điều tra tại thực địa: Tại các điểm nghiên cứu, chúng tôi lập các tuyến điều tra, trên các tuyến điều tra bố trí các ô tiêu chuẩn (1m2/1 ô) để thống kê thành phần loài, năng suất thảm thực vật theo phƣơng pháp Hoàng Chung. [1] - Để xác định tên khoa học của các mẫu thực vật, chúng tôi đã sử dụng khoá phân loại hiện hành của tác giả Phạm Hoàng Hộ [2]; Danh lục các loài thực vật Việt Nam [3], [4], [5]. - Xác định thành phần hoá học và giá trị dinh dƣỡng của một số loài cỏ đƣợc phân tích tại Viện Khoa học Sự sống - Đại học Thái Nguyên. Thời gian tiến hành: Chúng tôi tiến hành thu mẫu trong 4 đợt: Đợt 1: ngày 15/09/2010; Đợt 2: ngày 30/11/2010; Đợt 3: ngày 22/03/2011; Đợt 4: ngày 12/05/2011 Xử lý số liệu: - Các số liệu thu thập đƣợc xử lý trên phần mềm Excel. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Thành phần loài Trong quá trình điều tra chúng tôi đã thu đƣợc 81 loài thuộc 32 họ. Tuy nhiên đây chƣa phải là con số đầy đủ về số loài và số họ nhƣng chắc chắn là những loài, họ phổ biến và thƣờng gặp đã đƣợc thống kê. Điểm nghiên cứu số 1 Tại điểm này chúng tôi thống kê đƣợc 49 loài thuộc 20 họ khác nhau. Trong số đó họ có số lƣợng loài cao nhất là họ Lúa (Poaceae),13 loài chiếm 26,53% tổng số loài của điểm này, các loài thƣờng gặp là: Cỏ xƣơng (Arundinella nepallensis. Trin), Cỏ trúc cần câu (Arundinaria spathiflora Trin), Cỏ sả (Cymbopogon caesius (Nees.) Stapf), Cỏ bông (Eragrotis tenella (L.) Roem), Cỏ tranh (Imperata cylindrica (L.)P. Beauv), Cỏ lông (Ischaemum indicum (Houtt.)Merr),Cỏ lông lợn (Lophopogon intermedium A. Camus) Họ Cúc (Asteraceae) có 6 loài chiếm 12,24% số loài trong điểm. Thƣờng gặp các loài: Cứt lợn (Ageratum conyzoides L), Ngải cứu (Artemisia vulgaris L), Đơn buốt (Bidens bipinnata L)... Họ Cói (Cyperaceae) có 5 loài chiếm 10,20% số loài trong điểm. Thƣờng gặp các loài: Cói túi nhụy nâu (Carex bunnea Thunb), Cỏ lác (Cyperus cephalotus Vahl), Củ gấu (Cyperus rotundus L), Cỏ bạc đầu (Kyllinga nemoralis (Fors. Etforty.) Dancly). Họ Mua (Melastomataceae) có 3 loài chiếm 6,12% tổng số loài trong điểm. Các họ: Họ Xoài (Anacardiaceae), họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), họ Bông (Malvaceae), họ Dƣơng xỉ (Dryopteridaceae), họ Bòng bong (Schizaeaceae), mỗi họ có 2 loài chiếm 4,08% tổng số loài trong điểm. Các họ còn lại, mỗi họ có 1 loài, tổng số của các họ này chiếm 24,50% số lƣợng loài của quần xã. Điểm nghiên cứu số 2 Tại điểm này chúng tôi thu thập đƣợc 58 loài thuộc 27 họ khác nhau. Họ có số lƣợng loài nhiều nhất và chiêm ƣu thế vẫn là họ Lúa (Poaceae) có 15 loài (chiếm 25,86% tổng số loài của điểm). Các loài thƣờng gặp: Cỏ hoa tre (Apluda mutica L), Cỏ xƣơng (Arundinella nepallensis. Trin), Cỏ gà (Cynodon dactylon (L) Pes),Cỏ bông (E. unioloides Ness), Cỏ may (Chrysopogon aciculatus (Retz) Ttrin), Cỏ sả (Cymbopogon caesius (Nees.)). Tiếp theo là họ Cúc (Asteraceae) có 9 loài (chiếm 15,52% số loài): Cứt lợn (Ageratum conyzoides L), Ngải cứu (Artemisia vulgaris L), Đơn buốt (Bidens bipinnata L), Cúc giai (Calotis annamitica (O.Ktze) Merr), Tàu bay (Crassocephalum crepidioides (Benth) Smoore), Cúc chỉ thiên (Elephantopus scaber). Họ Bòng bòng (Schizeaceae) và họ Cà phê (Rubiaceae), mỗi họ có 3 loài chiếm 5,17% số loài trong điểm. Tiếp theo là: Họ cói (Cyperaceae), họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), họ Đậu (Fabaceae), họ Mua (Melastomataceae), họ Dƣơng xỉ (Polipodiaceae), họ Chè (Theaceae), mỗi họ có 2 loài chiếm 3,45% số loài trong điểm. Các họ còn lại, mỗi họ có 1 loài chiếm 29,31% tổng số loài trong điểm. Qua 2 điểm nghiên cứu về thành phần loài thực vật chúng tôi có một số nhận xét sau: 1) Về số lƣợng loài qua 2 điểm nghiên cứu ta thấy số lƣợng loài ở đồng cỏ kênh Máng (58 loài) nhiều hơn ở đồng cỏ trên núi Mỏ Thổ (49 loài). Vậy thành phần loài thay đổi phụ Hoàng Chung và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 85(09)/2: 35 - 40 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 37 thuộc vào địa hình và mức độ chăn thả, càng chăn thả nhiều thì thành phần càng phức tạp, làm tăng cây dại và cây bụi trong đồng cỏ. 2) Trong điều kiện chăn thả ít nhƣ ở điểm 1 (10 con bò): Loại hình đồi núi, các loại thƣờng gặp Cỏ xƣơng (Arundinella nepallensis), Cỏ tranh (Imperata cylindrica), Cỏ sả (Cymbopogon caesius), Cỏ lông (Ischaemum indicum)và một số loài khác, chúng có chiều cao từ 9 – 12 cm, mọc thành khóm vì môi trƣờng khô hạn. Những loài ƣa sáng nhƣ họ Cúc (Asteraceae), mặc dù chúng xuất hiện nhƣng chúng phát triển rất kém, một số loài khác ƣa bóng nhƣ Thông đất (Lycopodium cernum) nằm ở dƣới thảm cỏ. 3) Trong điều kiện chăn thả nhiều nhƣ ở điểm 2 (30 con bò và 5 trâu) do tác động của chăn thả, thảm cỏ ở đây giảm chiều cao, có nơi chiều cao thảm chỉ còn khoảng 4 -6 cm, độ phủ giảm. Trên đồng cỏ lúc này xuất hiện những cây ƣa sáng, chịu hạn và chịu sự dẫm đạp của động vật ăn cỏ, các loài cỏ có thân rễ dài hay ngắn nhƣ Cỏ chân nhện (Digitaria timorensis), Cỏ may (Chrysopogon acicuratus) phát triển mạnh, số lƣợng chồi lại giảm nhiều dẫn tới năng suất rất thấp. Số lƣợng cây bụi thân, cành, lá thƣờng có lông phủ nhƣ Mua (Melastoma septemnervium), Sim (Rhodomyrtus tomentosa) cây thuộc thảo có thân ngắn lá mọc tỏa trên mặt đất nhƣ cúc chỉ thiên (Elephantopus scaber) và cây bụi leo nhƣ mâm xôi (Rubus alceifolius), dây leo nhƣ bòng bòng (Lygodium flexuosum) phát triển mạnh. Tóm lại: Tổ hợp loài đặc trƣng cho loại hình đồng cỏ Minh Đức là loại cỏ cao thuộc họ Hòa thảo (Poaceae). Nếu đồng cỏ chăn thả nhiều thành phần loài, họ sẽ tăng lên gồm những cây bụi, thảo và cây bụi leo hạn sinh. Thành phần loài, họ sẽ giảm nếu đồng cỏ đƣợc chăn thả ít. Song sự thay đổi về tổ hợp thành phần loài và loài ƣu thế, do nó có sự tăng lên của cây rừng và cây gỗ. Năng suất cỏ ở các điểm nghiên cứu ngoài thiên nhiên Để làm sáng tỏ thực trạng nguồn thức ăn gia súc tại xã Minh Đức, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Chúng tôi đã tiến hành điều tra năng suất các nhóm cỏ trong 2 điểm chăn thả của hai gia đình thuộc 2 vùng khác nhau. Điểm nghiên cứu số 1 Mô hình chăn thả của gia đình ông Nguyễn Văn Bảo, xóm Mỏ Thổ, xã Minh Đức vùng chăn thả là bãi cỏ ở toàn bộ đồi Mỏ Thổ, rộng khoảng 50,0 ha, độ dốc 350. Cỏ ở đây cao khoảng 11 cm và có nguồn thức ăn bổ sung là cỏ Voi. Gia đình ông bắt đầu nuôi bò từ năm 2006 với số lƣợng ban đầu là 8 con trong đó 1 con bò đực và 7 con mẹ, tổng số tiền giống ban đầu là 48 triệu. Từ cuối năm 2006 đến hết năm 2010 gia đình ông không mua thêm con nào và đã bán 24 con bê thu đƣợc 168 triệu. Hiện nay còn 10 con trị giá khoảng 100 triệu. Nhƣ vậy, tổng thu của gia đình ông từ chăn nuôi bò là khoảng 220 triệu, bình quân mỗi năm thu từ chăn nuôi bò khoảng 55 triệu (sau khi đã trừ vốn đầu tƣ mua giống). Trong phần này bao gồm công chăn thả, đầu tƣ cho đồng cỏ trồng, chuồng trại và các chi phi khác phục vụ cho chăn nuôi. Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu năng suất vào 4 lần khác nhau, kết quả đƣợc trình bày trong bảng 1. Tổng sinh khối của cỏ tự nhiên có sự biến đổi từ tháng này sang tháng khác. Trong đó đợt 1 là cao nhất 913,12 gam, tiếp đến là đợt 4: 639,7 gam, đợt 3 là: 493,09 gam, thấp nhất là đợt 2: 478,24 gam. Nguyên nhân của sự biến động này là do, trong lần thu mẫu đợt 1 là vào mùa thu nhiệt độ khí hậu tƣơng đối thuận lợi: Nhiệt độ, lƣợng mƣa, lƣợng bốc hơi nƣớc rất thích hợp cho điều kiện phát triển của cỏ. Thu mẫu đợt 2 là vào mùa đông khí hậu tƣơng đối khắc nhiệt, nhiệt độ và lƣợng mƣa thấp, lƣợng bốc hơi nƣớc cao nên độ ẩm thấp đẫn đến cây vừa không phát triển đƣợc vừa bị chết do điều kiện thời tiết. Thu mẫu đợt 3 có sinh khối cao hơn đợt 2 là do các yếu tố khí hậu thuận lợi hơn (ẩm và ấm hơn) làm cho các cây bắt đầu bƣớc vào thời kì sinh trƣởng và sinh dƣỡng nhanh. Tổng sinh khối của đợt 4 cao hơn đợt 2 và đợt 3 là vì thời điểm thu mẫu là vào tháng 5 đã bƣớc vào mùa mƣa các cây đã phát triển mức tối đa, bắt đầu ra hoa. Hoàng Chung và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 85(09)/2: 35 - 40 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 38 Nhƣ vậy nguyên nhân chính của sự biến động tổng sinh khối qua các đợt thu mẫu khác nhau là do khí hậu quyết định. Nhóm hòa thảo có tỷ lệ cao nhất chiếm từ 81,34 – 91,7 %, thấp nhất là nhóm thuộc thảo 1,2 – 3,7 %. Nguyên nhân có sự chênh lệch quá lớn này là do cỏ hòa thảo có khả năng phân bố rộng rãi, có thể thích ứng đƣợc ở nhiều vùng và trong những điều kiện khí hậu đất đai khác nhau. Ví dụ: cây Cỏ xƣơng (Arundinella nepalensis) sinh trƣởng đƣợc ở vùng đất nóng khô khan mùa khô kéo dài hoặc những vùng mùa đông nhiệt độ thấp. Phần chết trong lần thu mẫu đợt 2: 17,8 gam chiếm 3,6 % tổng khối lƣợng trên mặt đất là lớn nhất, đợt 4: 8,5 gam chiếm 1,31 % là nhỏ nhất. Nhƣ vậy quá trình tích lũy phần trên mặt đất xảy ra mạnh mẽ vào tháng 9 và đạt đỉnh điểm vào tháng 11 vì vào thời điểm này phần cỏ chết bị phơi khô vẫn tồn tại, mà còn do thời tiết khô, không đủ độ ẩm nên hoạt động của các loại vi sinh vật cũng nhƣ các sinh vật khác có tham gia vào quá trình phân hủy bị kém đi. Trong đợt 3 và đợt 4 đƣợc thu mẫu vào mùa hè, do lƣợng mƣa tăng lên, cỏ khô nhanh chóng bị mục, hơn nữa do có nhiệt độ tăng lên, tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động của vi sinh vật và các loài sinh vật khác tham gia vào quá trình phân hủy, do đó khối lƣợng phần cỏ khô giảm xuống nhanh. Điểm nghiên cứu số 2 Tại gia đình ông Nguyễn Văn Giang, làng Kè, xã Minh Đức, vùng chăn thả của gia đình là các bãi cỏ dọc kênh Máng và bờ ruộng, bãi cỏ không liên tục, rộng khoảng 30 ha, cỏ ở đây cao khoảng 5 cm. Nguồn thức ăn bổ sung là cỏ Voi và rơm. Số bò gia đình ông Giang mua vào khi bắt đầu nuôi năm 2005 là 5 con với tổng trị giá 30 triệu. Năm 2006, gia đình ông có mua thêm 1 con bò nữa hết 6 triệu đồng. Đến cuối năm 2010, tổng số bò gia đình ông bán là 18 con thu tổng số 144 triệu đồng. Hiện nay, gia đình ông còn 8 con bò tổng trị giá khoảng 115 triệu. Nhƣ vậy, tổng thu trong năm năm chăn nuôi, gia đình ông đã thu là 223 triệu, bình quân mỗi năm thu khoảng 44,6 triệu. Nhìn chung quy luật biến đổi về tổng sinh khối qua các lần thu mẫu, phần sống, phần chết, các nhóm cây đều cơ bản giống ở điểm nghiên cứu số 1. So sánh hai điểm nghiên cứu Độ dốc và diện tích: Điểm nghiên cứu số 1 có độ dốc là 350, còn tại điểm nghiên cứu số 2 thì là trên kênh nên bằng phẳng hơn độ dốc không đáng kể. Diện tích đồng cỏ tại điểm nghiên cứu số 1 (50 ha) gấp 1,67 lần tại điểm nghiên cứu số 2 (30 ha). Bảng 1. Năng suất cỏ tƣơi trong các điểm nghiên cứu (g/m2) Địa điểm Nhóm cỏ Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 Đợt 4 Sinh khối Tỷ lệ % Sinh khối Tỷ lệ % Sinh khối Tỷ lệ % Sinh khối Tỷ lệ % ĐNC1 Phần sống Hòa thảo 802,00 87,83 389,00 81,34 421,80 85,54 586,60 91,70 Sa thảo 49,00 5,37 52,16 10,90 29,83 6,05 20,80 3,25 Thuộc thảo 30,12 3,28 16,58 3,46 18,20 3,70 7,70 1,20 Cây bụi 32,00 3,52 20,50 4,30 23,26 4,71 24,60 3,85 Tổng số 913,12 100 478,24 100 493,09 100 639,70 100 Phần chết 28,18 17,8 12,54 8,50 ĐNC2 Phần sống Hòa thảo 318,40 87,60 189,50 73,36 199,50 70,70 221,00 69,32 Sa thảo 20,00 5,50 8,70 3,37 14,90 5,28 29,70 9,32 Thuộc thảo 12,40 3,41 9,70 3,75 10,80 3,82 8,10 2,54 Cây bụi 12,70 3,49 50,40 19,52 57,00 20,20 60,00 18,82 Tổng số 363,50 100 258,30 100 282,20 100 318,80 100 Phần chết 31,30 14,50 4,50 4,60 Số lƣợng gia súc: Tại điểm nghiên cứu số 1 thì số lƣợng gia súc chăn thả chỉ có đàn bò gia đình ông Nguyễn Văn Bảo là 10 con. Còn điểm nghiên cứu số 2 thì số lƣợng gia súc Hoàng Chung và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 85(09)/2: 35 - 40 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 39 chăn thả ngoài đàn bò của gia đình ông Nguyễn Văn Giang thì còn có gia súc của các gia đình khác, tổng số gia súc chăn thả khoảng 25 con. Nhƣ vậy số lƣợng gia súc chăn thả tại điểm nghiên cứu số 2 gấp khoảng 2,5 lần số lƣợng gia súc chăn thả tại điểm nghiên cứu số 1. Thành phần nhóm cỏ: Trong cả 2 điểm nghiên cứu thì đều xuất hiện 4 nhóm cỏ: Hòa thảo, Sa thảo, Thuộc thảo, và Cây bụi. Tuy nhiên, năng suất của từng nhóm trong hai điểm nghiên cứu là khác nhau. Nhóm hòa thảo của điểm nghiên cứu số 1 chiếm từ 81,34 – 91,7 %, tại điểm nghiên cứu số 2 chiếm từ 69,32 – 87,6 %. Nhƣng ở nhóm cây bụi thì ở điểm nghiên cứu số 1 chỉ chiếm từ 3,52 – 4,71 %, còn ở điểm nghiên cứu số 2 dao động từ 3,49 – 20,20 %. Nguyên nhân của sự khác nhau là do điều kiện chăn thả của hai điểm nghiên cứu là khác nhau. Tại điểm nghiên cứu số 2 quá trình chăn thả nhiều hơn, mà nguồn thức ăn chính của gia súc là Hòa thảo. Chính điều này đã làm cho Hòa thảo giảm xuống, còn Cây bụi tăng lên. Sự biến động năng suất theo mùa: Cả hai điểm đều có sự biến đổi năng suất theo mùa giống nhau. Năng suất cao nhất là vào mùa thu và thấp nhất vào mùa đông. Có sự biến động này là do điều kiện khí hậu trong các mùa khác nhau đã dẫn tới sự tích lũy năng suất khác nhau. Chất lượng cỏ ở các điểm nghiên cứu ngoài thiên nhiên Giá trị dinh dƣỡng các loài cỏ có quan hệ mật thiết với thành phần hóa học của nó và hàm lƣợng của các chất chứa trong chúng, đó là những chất rất cần thiết cho sự hoạt động bình thƣờng của động vật, nếu thiếu hụt sẽ ảnh hƣởng đến đời sống của động vật. Chúng tôi đã phân tích một số chỉ tiêu về thành phần hóa học và giá trị dinh dƣỡng của một số loài cỏ chính có mặt trong điểm nghiên cứu. Kết quả đƣợc trình bày ở bảng 2. Qua số liệu bảng 2 cho thấy hàm lƣợng nƣớc và các chất dinh dƣỡng giữa các loài biến động không lớn. Nhiều nhất là Cỏ xƣơng (Arundinella nepalensi) đạt 76,4%, và thấp nhất là Cỏ sả (Cymbopogon caesius) đạt 71,2 %. Hàm lƣợng nƣớc trong các cây cỏ tự nhiên không có sự chênh lệnh quá lớn, dao động từ 71,2% đến 76,4%. Hàm lƣợng protein tổng số của các cây cỏ tự nhiên là khá cao, dao động từ 7,76% đến 9,62% và cao gấp 4 đến 5,5 lần so với cỏ Voi trồng (1,76 % theo viện chăn nuôi). Trong đó cao nhất là Cỏ tranh (Imperata cylindrical) đạt 9,62%, thấp nhất là Cỏ lông (Ischaemum indicum) đạt 7,76%. Hàm lƣợng đạm tổng số của các mẫu cỏ trong tự nhiên ở mức độ trung bình. Cao nhất là Cỏ sả (Cymbopogon caesius) đạt 2,13%, thấp nhất là Cỏ lông (Ischaemum indicum) đạt 1,85%. Nhƣ vậy chúng ta thấy hàm lƣợng đạm tổng số của các loài cỏ trong thiên nhiên cũng không chênh lệch nhau nhiều. Qua các kết quả trên cho thấy tại các bãi chăn thả của các gia đình các loài cỏ chính đều thuộc các loài cỏ thấp, thân rễ ngắn có khả năng chịu hạn và dẫm đạp cao, chất lƣợng các loài cỏ tự nhiên tốt, tỷ lệ hàm lƣợng protein, lipit cao, hàm lƣợng đƣờng thuộc loại trung bình. Bảng 2. Thành phần hoá học và giá trị dinh dƣỡng của một số loài cỏ chính trên đồi Mỏ Thổ TT Tên khoa học Tên Việt Nam Tỷ lệ % Nước Protein Đạm tổng số Lipit Chất xơ 1 Ischaemum indicum Cỏ Lông 75,60 7,76 1,85 0,97 8,40 2 Imperata cylindrical Cỏ Tranh 75,30 9,62 1,92 1.03 8,45 3 Arundinella nepalensis Cỏ Xƣơng 76,40 9,53 1,88 0,40 7,80 4 Cymbopogon caesius Cỏ Sả 71,20 9,45 2,13 1,75 8,90 KẾT LUẬN - Bƣớc đầu điều tra tại các thảm cỏ xã Minh Đức, đã thu thập đƣợc 81 loài thực vật thuộc 32 họ khác nhau. Hoàng Chung và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 85(09)/2: 35 - 40 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 40 - Xã Minh Đức có điều kiện tốt để phát triển chăn nuôi đại gia súc. Tập đoàn cây thức ăn ở đây khá phong phú, nhiều loài cỏ chất lƣợng tốt. Đồng cỏ xã Minh Đức hiện nay sử dụng chƣa hợp lý nên năng suất thấp, thảm cỏ tự nhiên ngày càng bị thoái hóa. Cần đƣợc đầu tƣ nghiên cứu để có quy trình sử dụng hợp lý. - Quá trình chăn thả ở điểm nghiên cứu số 2 là mạnh mẽ hơn, quá trình chăn thả này đã làm cho số lƣợng loài tăng, năng suất giảm so với điểm nghiên cứu số 1. - Địa hình: Tại điểm nghiên cứu số 1 chúng ta phát hiện ra 49 loài, tại điểm nghiên cứu số 2 số loài ta tìm đƣợc 58 loài. Nhƣ vậy, thành phần loài phụ thuộc vào yếu tố địa hình. Địa hình càng cao, độ dốc càng lớn thì số lƣợng loài càng giảm. - Hiệu quả kinh tế: Mô hình chăn nuôi gia đình ông Nguyễn Văn Bảo mỗi một năm thu nhập từ chăn nuôi 55 triệu. Còn mô hình chăn nuôi gia đình ông Nguyễn Văn Giang thu đƣợc 44,6 triệu/năm. Nhƣ vậy mô hình chăn nuôi nhà ông Nguyễn Văn Bảo thì đạt hiệu quả kinh tế hơn nhà ông Nguyễn Văn Giang 10,4 triệu/năm TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Hoàng Chung (2008), Các phương pháp nghiên cứu quần xã thực vật, Nxb Giáo dục. [2]. Phạm Hoàng Hộ (1993), Cây cỏ Việt Nam , Montreal. [3]. Trung tâm nghiên cứu Tài Nguyên và Môi trƣờng - Đại học Quốc gia Hà Nội, Danh lục các loài thực vật Việt Nam, (tập 1: năm 2001), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. [4]. Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia, Danh lục các loài thực vật Việt Nam, (tập 2: năm 2003), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. [5]. Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia, Danh lục các loài thực vật Việt Nam, (tập 3: năm 2005), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. SUMMARY NATURAL FOOD SOURCES FOR BIG CATTLE IN MINH DUC COMMUNE, VIET YEN DISTRICT, BAC GIANG PROVINCE Hoang Chung 1 , Tran Minh Khuong 1 , Nguyen Anh Hung 2* 1College of Education - TNU, 2 College of Science - TNU Minh Duc commune is located in mountainous northern area of Viet Yen district, about 4 km far from district center. Minh Duc has favorable conditions for the development of cattle breeding. Plant group is rich with many good - quality grasses. The specific type of pasture grass in Minh Duc is a high grass of Poaceae. In the process of the investigation, we have collected 81 species of 32 families. The main grass species of grasses are short, rhizome short-term resistance and rich in natural protein ratio and lipids. Grass yield changes from month to month, reaching the highest weight in September. Minh Duc commune pasture is currently used unreasonably, so the natural grass is in degradation. It should be invested in researching to use reasonable procedures Key words: Natural grass, productivity, quality, species composition, Minh Duc. * Tel: 0988.127.737; Email: nguyenanhungdhkh@gmail.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbrief_32599_36390_158201214638dieutranguonthucan_9182_2052764.pdf
Tài liệu liên quan