Địa lý tỉnh Ninh Bình

ĐỊA LÝ TỈNH NINH BÌNH Bản đồ hành chính tỉnh Ninh Bình [IMG]file:///C:/Users/TUNGDE~1/AppData/Local/Temp/msohtmlclip1/01/clip_image001.gif[/IMG] Diện tích : 1.383,7 km2 (năm 2003) Dân số : 918,5 nghìn người (năm 2005) Tỉnh lị : thị xã Ninh Bình Mã điện thoại : 030 Biển số xe : 35 Vị trí địa lý: Tỉnh Ninh Bình nằm ở vùng cực nam đồng bằng châu thổ sông Hồng, phía Bắc giáp tỉnh Hà Nam, phía Tây giáp 2 tỉnh Hoà Bình và Thanh Hoá, phía Đông giáp tỉnh Nam Định, phía Nam giáp biển Đông. Ninh Bình có diện tích tự nhiên 1.383,7 km² (thống kê năm 2003), với bờ biển dài hơn 15 km. Toàn tỉnh có 67.000 ha đất nông nghiệp, trong đó đất canh tác 55.000 ha; đất lâm nghiệp 13.000 ha; rừng tự nhiên 10.400 ha và trên 20.000 ha diện tích núi đá với trữ lượng hàng chục tỷ m³ đá vôi; rừng núi chiếm 22% diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Dân số toàn tỉnh là năm 2005 là 918,5 nghìn người (mật độ 664 người/km2), trong đó có 15% đồng bào theo đạo Thiên chúa, 2% đồng bào dân tộc. Tỉnh Ninh Bình có hai tôn giáo chính là Phật giáo và Thiên chúa giáo. Đơn vị hành chính: Hiện nay, tỉnh Ninh Bình có 6 huyện là Gia Viễn, Nho Quan, Kim Sơn, Hoa Lư, Yên Khánh, Yên Mô; 2 thị xã là Ninh Bình và Tam Điệp với tổng số 144 xã, phường, thị trấn. Địa hình Ninh Bình phân chia thành ba vùng tương đối rõ nét, vùng đồi núi ở phía Tây và Tây Bắc; vùng đồng bằng và vùng ven biển phía Đông và phía Nam. Do phù sa bồi đắp hàng năm, đồng bằng tiến ra biển từ 80- 100m, tạo nên vùng đất mới phì nhiêu, màu mỡ. Khí hậu: Ninh Bình nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, gió mùa, chịu ảnh hưởng của khí hậu ven biển. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 23oC, nhiệt độ trung bình thấp nhất (tháng 1) khoảng 13 – 15oC và cao nhất (tháng 7) khoảng 28,5oC. Lượng mưa trung bình hàng năm trên 1.800 mm nhưng phân bố không đều, tập trung 70% lượng mưa vào mùa hạ (từ tháng 5 đến tháng 9) mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Thủy văn: Ninh Bình có hệ thống sông ngòi dày đặc như: sông Đáy, sông Hoàng Long, sông Càn, sông Vạc, Sông Vân . tạo thành mạng lưới giao thông thuỷ, bộ rất thuận tiện cho giao lưu phát triển kinh tế trong và ngoài tỉnh. Tiềm năng phát triển: Tỉnh Ninh Bình có diện tích tự nhiên hơn 1.400 km2, với bờ biển dài hơn 15 km. Toàn tỉnh có 67.000 ha đất nông nghiệp, trong đó đất canh tác 55.000 ha, đất lâm nghiệp 13.000 ha, rừng tự nhiên 10.400 ha và trên 20.000 ha diện tích núi đá với trữ lượng hàng chục tỷ m3 đá vôi; rừng núi chiếm 22% diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Mỗi vùng trong tỉnh có tiềm năng và thế mạnh riêng, song các vùng có thể bổ sung hỗ trợ nhau để phát triển nền kinh tế hàng hoá toàn diện cả cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả, nuôi trồng thuỷ, hải sản, công nghiệp vật liệu xây dựng và công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm. Cùng với tiềm năng về công, nông, lâm nghiệp, Ninh Bình còn có thế mạnh phát triển đa dạng các loại hình du lịch. Ninh Bình có nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử văn hoá nổi tiếng như: Cố đô Hoa Lư; khu du lịch Tam Cốc- Bích Động; Vườn Quốc gia Cúc Phương với diện tích rừng nguyên sinh khoảng 22.000 ha, có nhiều động thực vật quý hiếm; khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long, động Vân Trình, nước nóng Kênh Gà, khu hang động Tràng An, Nhà thờ đá Phát Diệm, khu du lịch sinh thái hồ Đồng Chương, khu phòng tuyến Biện Sơn- Tam Điệp .rất hấp dẫn khách du lịch.

docx19 trang | Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 5913 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Địa lý tỉnh Ninh Bình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỊA LÝ TỈNH NINH BÌNH - ĐỊA LÍ TỈNH NINH BÌNH Bản đồ hành chính tỉnh Ninh Bình Diện tích : 1.383,7 km2 (năm 2003) Dân số : 918,5 nghìn người (năm 2005) Tỉnh lị : thị xã Ninh Bình Mã điện thoại : 030 Biển số xe : 35 Vị trí địa lý: Tỉnh Ninh Bình nằm ở vùng cực nam đồng bằng châu thổ sông Hồng, phía Bắc giáp tỉnh Hà Nam, phía Tây giáp 2 tỉnh Hoà Bình và Thanh Hoá, phía Đông giáp tỉnh Nam Định, phía Nam giáp biển Đông.  Ninh Bình có diện tích tự nhiên 1.383,7 km² (thống kê năm 2003), với bờ biển dài hơn 15 km. Toàn tỉnh có 67.000 ha đất nông nghiệp, trong đó đất canh tác 55.000 ha; đất lâm nghiệp 13.000 ha; rừng tự nhiên 10.400 ha và trên 20.000 ha diện tích núi đá với trữ lượng hàng chục tỷ m³ đá vôi; rừng núi chiếm 22% diện tích tự nhiên toàn tỉnh.  Dân số toàn tỉnh là năm 2005 là 918,5 nghìn người (mật độ 664 người/km2), trong đó có 15% đồng bào theo đạo Thiên chúa, 2% đồng bào dân tộc. Tỉnh Ninh Bình có hai tôn giáo chính là Phật giáo và Thiên chúa giáo. Đơn vị hành chính: Hiện nay, tỉnh Ninh Bình có 6 huyện là Gia Viễn, Nho Quan, Kim Sơn, Hoa Lư, Yên Khánh, Yên Mô; 2 thị xã là Ninh Bình và Tam Điệp với tổng số 144 xã, phường, thị trấn. Địa hình Ninh Bình phân chia thành ba vùng tương đối rõ nét, vùng đồi núi ở phía Tây và Tây Bắc; vùng đồng bằng và vùng ven biển phía Đông và phía Nam. Do phù sa bồi đắp hàng năm, đồng bằng tiến ra biển từ 80- 100m, tạo nên vùng đất mới phì nhiêu, màu mỡ. Khí hậu: Ninh Bình nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, gió mùa, chịu ảnh hưởng của khí hậu ven biển. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 23oC, nhiệt độ trung bình thấp nhất (tháng 1) khoảng 13 – 15oC và cao nhất (tháng 7) khoảng 28,5oC. Lượng mưa trung bình hàng năm trên 1.800 mm nhưng phân bố không đều, tập trung 70% lượng mưa vào mùa hạ (từ tháng 5 đến tháng 9) mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Thủy văn: Ninh Bình có hệ thống sông ngòi dày đặc như: sông Đáy, sông Hoàng Long, sông Càn, sông Vạc, Sông Vân... tạo thành mạng lưới giao thông thuỷ, bộ rất thuận tiện cho giao lưu phát triển kinh tế trong và ngoài tỉnh. Tiềm năng phát triển: Tỉnh Ninh Bình có diện tích tự nhiên hơn 1.400 km2, với bờ biển dài hơn 15 km. Toàn tỉnh có 67.000 ha đất nông nghiệp, trong đó đất canh tác 55.000 ha, đất lâm nghiệp 13.000 ha, rừng tự nhiên 10.400 ha và trên 20.000 ha diện tích núi đá với trữ lượng hàng chục tỷ m3 đá vôi; rừng núi chiếm 22% diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Mỗi vùng trong tỉnh có tiềm năng và thế mạnh riêng, song các vùng có thể bổ sung hỗ trợ nhau để phát triển nền kinh tế hàng hoá toàn diện cả cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả, nuôi trồng thuỷ, hải sản, công nghiệp vật liệu xây dựng và công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm. Cùng với tiềm năng về công, nông, lâm nghiệp, Ninh Bình còn có thế mạnh phát triển đa dạng các loại hình du lịch. Ninh Bình có nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử văn hoá nổi tiếng như: Cố đô Hoa Lư; khu du lịch Tam Cốc- Bích Động; Vườn Quốc gia Cúc Phương với diện tích rừng nguyên sinh khoảng 22.000 ha, có nhiều động thực vật quý hiếm; khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long, động Vân Trình, nước nóng Kênh Gà, khu hang động Tràng An, Nhà thờ đá Phát Diệm, khu du lịch sinh thái hồ Đồng Chương, khu phòng tuyến Biện Sơn- Tam Điệp...rất hấp dẫn khách du lịch. TƯ LIỆU VỀ NINH BÌNH Ninh Bình là một tỉnh nằm ở cực nam miền Bắc và khu vực đồng bằng Bắc Bộ, Việt Nam. Theo quy hoạch xây dựng phát triển kinh tế thì Ninh Bình thuộc vùng duyên hải Bắc Bộ. Vị trí - Địa lý Bản đồ VN với Ninh Bình được tô đậm Bản đồ hành chính tỉnh Ninh Bình  Ninh Bình tiếp giáp với 4 tỉnh: Hòa Bình ở phía tây bắc, Hà Nam ở phía bắc, Nam Định ở phía đông, Thanh Hóa ở phía tây nam, biển (vịnh Bắc Bộ) ở phía đông nam. Trung tâm tỉnh là thành phố Ninh Bình cách thủ đô Hà Nội 93 km về phía nam. Ở vị trí điểm mút của cạnh đáy tam giác châu thổ sông Hồng, Ninh Bình bao gồm cả ba loại địa hình. Vùng đồi núi hay còn gọi là vùng "bán sơn địa" ở phía Tây và Tây Nam bao gồm các huyện Nho Quan, Gia Viễn, Hoa Lư, Tam Điệp; vùng đồng bằng và vùng ven biển ở phía Đông và phía Nam thuộc 2 huyện Kim Sơn và Yên Khánh. Xen giữa 2 vùng lớn là vùng chiêm trũng chuyển tiếp. Ninh Bình có bờ biển dài 18km. Bờ biển Ninh Bình hàng năm được phù sa bồi đắp lấn ra trên 100m. Ninh Bình nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa: mùa nóng, mưa nhiều từ tháng 5 đến tháng 10; mùa lạnh, khô từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm: 1.700-1.800 mm Nhiệt độ trung bình: 23,5°C Số giờ nắng trong năm: 1.600-1.700 giờ Độ ẩm tương đối trung bình: 80-85% Năm 2003 Diện tích:1.400 km², khoảng 900.000 người với mật độ dân số 643 người/km². Trên địa bàn tỉnh Ninh Bình có hai tôn giáo chính là: Phật giáo và Thiên chúa giáo. 15% dân số theo đạo Thiên chúa. Ninh Bình có 1 thành phố, 1 thị xã và 6 huyện trực thuộc là: Thành phố Ninh Bình (tỉnh lỵ) Thị xã Tam Điệp Huyện Gia Viễn Huyện Hoa Lư Huyện Kim Sơn Huyện Nho Quan Huyện Yên Khánh Huyện Yên Mô Lịch sử - Văn hóa Lịch sử Ninh Bình xưa thuộc bộ Giao Chỉ, một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Qua các đời nhà Hán, Lương, Đường thuộc châu Trường Yên. Năm 968, vua Đinh Tiên Hoàng dẹp xong loạn 12 sứ quân lên ngôi hoàng đế đóng đô tại Hoa Lư và đặt tên nước là Đại Cồ Việt. Năm 1010, Lý Thái Tổ dời kinh đô về Thăng Long, Ninh Bình nằm trong phủ Trường An, sau đổi là châu Đại Hoàng vào cuối thế kỷ 12. Đời nhà Trần đổi thành lộ, rồi lại đổi thành trấn Thiên Quan. Đời Lê Thái Tông (1434-1439), Ninh Bình sáp nhập vào Thanh Hóa; thuộc trấn Sơn Nam đời vua Lê Thánh Tông; rồi lại thuộc về Thanh Hóa cho tới đời vua Minh Mạng. Thời nhà Nguyễn, địa bàn tỉnh Ninh Bình là 2 phủ Trường Yên và Thiên Quan. Năm 1831, Ninh Bình trở thành một trong số 13 tỉnh ở Bắc Kỳ với 6 huyện Yên Khánh, Nho Quan, Kim Sơn, Gia Khánh, Gia Viễn và Yên Mô, thuộc Liên khu 3. Sáu huyện vẫn giữ nguyên cho đến khi tỉnh Ninh Bình hợp nhất với các tỉnh Nam Định và Hà Nam thành tỉnh Hà Nam Ninh ngày 27/12/1975. Ninh Bình lại được tái lập theo Nghị quyết của Quốc hội khóa VIII, ngày 26/12/1991. Khi tách ra, tỉnh Ninh Bình có diện tích 1.386,77 km², dân số 787.877 người, gồm 2 thị xã Ninh Bình, Tam Điệp và 5 huyện Kim Sơn, Gia Viễn, Hoa Lư, Tam Điệp, Hoàng Long. Ngày 23/11/1993, huyện Hoàng Long đổi lại tên cũ là huyện Nho Quan. Ngày 4/7/1994, huyện Tam Điệp đổi lại tên cũ là huyện Yên Mô và tái lập huyện Yên Khánh từ 10 xã của huyện Tam Điệp cũ và 9 xã của huyện Kim Sơn. Về mặt quân sự, Ninh Bình cũng giữ một vị trí then chốt vì đèo Ba Dội nằm trong dãy Tam Điệp là một cửa giao thông hiểm yếu giữa Ninh Bình và Thanh Hóa, dùng đường bộ từ Thăng Long vào Thanh Hóa hay từ Đàng Trong ra Đàng Ngoài, đều phải vượt đèo này. Năm 1873 và 1887 Pháp chiếm đóng Ninh Bình. Năm 1886, có Đốc Tâm chỉ huy dân quân, được rất đông đồng bào Mường tham dự, tấn công quân Pháp nhiều trận, gây cho Pháp nhiều thiệt hại nặng nề. Tại Nho Quan, vào ngày 7 tháng 1 năm 1915, quân Việt Nam Quang Phục Hội đã đánh chiếm các đồn bốt của Pháp. Văn hóa Ninh Bình nằm ở vùng giao thoa giữa các khu vực: Tây Bắc, Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ, là nơi chịu ảnh hưởng giữa nền văn hóa Hòa Bình và văn hóa Đông Sơn. Với đặc điểm đó đã tạo ra một nền văn hóa tương đối đa dạng mang đặc trưng khác biệt trên nền tảng văn minh châu thổ sông Hồng. Ninh Bình còn là kinh đô của Việt Nam thế kỷ X, mảnh đất gắn với sự nghiệp của 6 vị vua thuộc ba triều đại Đinh - Lê – Lý. Ninh Bình cũng là nơi gắn bó với sự nghiệp của các triều đại nhà Trần, triều đại Tây Sơn và Hậu Trần. Ninh Bình là quê hương của nhiều danh nhân đất Việt tiêu biểu như: Đinh Bộ Lĩnh; Trương Hán Siêu, Lý Quốc Sư, Vũ Duy Thanh .v.v. Ninh Bình là vùng đất có nhiều lễ hội văn hóa đặc sắc như Lễ hội cố đô Hoa Lư, lễ hội chùa Bái Đính là lễ hội cấp tỉnh, lễ hội đền Nguyễn Công Trứ, lễ hội đền Thái Vi là lễ hội cấp huyện. Các lễ hội khác: lễ hội Yên Cư, hội thôn Tập Minh, lễ hội động Hoa Lư... Giao thông Nút giao thông QL 1A và QL10. Ninh Bình là một điểm nút giao thông quan trọng, tất cả các huyện, thành phố, thị xã đều có đường quốc lộ đi qua. Đường bộ Quốc lộ 1A xuyên Việt đi qua các huyện Gia Viễn, Hoa Lư, Yên Mô, Tp Ninh Bình và Tx Tam Điệp với tổng chiều dài gần 40 km. Quốc lộ 10 nối từ Quảng Ninh qua các tỉnh duyên hải Bắc bộ: Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định tới thành phố Ninh Bình đi các huyện Yên Khánh, Kim Sơn. Quốc lộ 12A, 12B nối thị xã Tam Điệp, Nho Quan với đường Hồ Chí Minh, tỉnh Hoà Bình và Vĩnh Phúc. Quốc lộ 59A nối Nho Quan với Thanh Hóa. Mạng lưới giao thông tỉnh lộ khá thuận tiện với những tuyến xe buýt nội tỉnh. Hiện đang có 3 dự án đường cao tốc đi qua Ninh Bình được triển khai: đường cao tốc Ninh Bình - Cầu Giẽ; đường cao tốc Ninh Bình - Vinh và đường cao tốc Ninh Bình - Hải Phòng - Quảng Ninh. Bến xe Ninh Bình nằm gần nút giao thông giữa QL1 và QL10 ở Tp Ninh Bình. Đường sắt Ninh Bình có trục đô thị Tam Điệp – Ninh Bình nằm trên tuyến đường sắt Bắc-Nam. Trên địa bàn tỉnh có các ga Ninh Bình, ga Cầu Yên, ga Ghềnh và ga Đồng Giao. Theo quy hoạch xây dựng mới, đường sắt cao tốc Bắc Nam chạy thẳng từ Hà Nội sẽ đặt ga chính ở Ninh Bình, Vinh. Đường thuỷ Hệ thống sông ngòi dày đặc: sông Đáy là sông lớn nhất chảy vào giữa ranh giới Ninh Bình với Hà Nam, Nam Định. Sông Càn với nhiều nhánh nhỏ, phần hạ lưu chảy giữa ranh giới huyện Kim Sơn với tỉnh Thanh Hóa. Các sông nội tỉnh khác: sông Hoàng Long, sông Vạc, sông Vân, sông Bôi, sông Lạng, sông Bến Đang đem lại nguồn lợi đáng kể về tưới tiêu, giao thông và khai thác thuỷ sản. Ninh Bình có cảng Ninh Phúc là cảng sông cấp I. Ngoài ra có cảng Ninh Bình, cảng Cầu Yên, cảng Non Nước, cảng Bình Minh và cảng Phát Diệm. Kinh tế Ninh Bình có vị trí quan trọng của vùng cửa ngõ miền Bắc và vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc. Ninh Bình là nơi tiếp nối giao lưu kinh tế và văn hoá giữa lưu vực sông Hồng với lưu vực sông Mã, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ với vùng núi rừng núi Tây Bắc. Ninh Bình là một tỉnh có xuất phát điểm thấp hơn so với các tỉnh cùng khu vực đồng bằng sông Hồng vì là tỉnh giao thoa giữa miền núi và đồng bằng. Thế mạnh kinh tế của tỉnh là các ngành công nghiệp vật liệu xây dựng và du lịch. Trong những năm gần đây kinh tế Ninh Bình liên tục tăng trưởng ở mức 2 con số, Năm 2005 chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh xếp thứ 41/42, năm 2006 vươn lên xếp thứ 18/64, năm 2007 xếp thứ 24/64, năm 2008 xếp 23/63, liên tục đứng thứ 5 ở miền Bắc. Năm 2007, Ninh Bình là một trong những tỉnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài lớn của Việt Nam; thu ngân sách đạt 1.140 tỷ đồng, là tỉnh thứ 26/64 đạt mức thu 1000 tỷ. Trong khi diện tích và dân số tỉnh chỉ đứng thứ 56/64 và 43/64. Cơ cấu kinh tế trong GDP năm 2007: Công nghiệp - xây dựng: 40%; Nông, lâm - ngư nghiệp: 26%; Dịch vụ: 34% Công nghiệp Cảng Ninh Phúc ở khu công nghiệp Ninh Phúc. Ninh Bình có tiềm năng và thế mạnh phát triển công nghiệp vật liệu xây dựng với số lượng nhà máy sản xuất xi măng nhiều trong đó nổi bật là các doanh nghiệp xi măng Vinakansai, xi măng Hệ Dưỡng, xi măng Tam Điệp, xi măng Phú Sơn, xi măng Duyên Hà, xi măng Hướng Dương .v.v. Sản phẩm chủ lực của địa phương là xi măng, đá, thép, vôi, gạch .v.v. Tính đến năm 2005, toàn tỉnh có 22 khu công nghiệp, cụm công nghiệp với diện tích 880 ha trong đó có các khu công nghiệp lớn như: khu công nghiệp Tam Điệp, khu công nghiệp Ninh Phúc, khu công nghiệp Gián Khẩu, v.v, với tăng trưởng công nghiệp khá cao. Nghề thủ công truyền thống: thêu ren ở Hoa Lư, dệt chiếu và làm hàng cói mỹ nghệ ở Kim Sơn, Yên Khánh..., đan lát mây tre ở Gia Viễn, Nho Quan, sản xuất đồ đá mỹ nghệ ở Ninh Vân (Hoa Lư). Theo Cục thống kê tỉnh Ninh Bình, tổng giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh ước đạt hơn 6.000 tỷ đồng trong năm 2008, tăng gần 50% so với năm 2007. Giá trị công nghiệp của Ninh Bình đạt mức tăng cao là do các doanh nghiệp có qui mô sản xuất lớn như xi măng, cán thép, phân bón, may mặc, đồ hộp xuất khẩu đều đạt mức sản xuất khá cao. Một số nhà máy đã đi vào sản xuất cho ra sản phẩm như nhà máy xi măng Duyên Hà, xi măng Hướng Dương, Công ty may Đài Loan, Cơ sở chế biến hạt điều - Cty CP xuất khẩu đầu tư Ninh Bình, Sản phẩm lò quay ximăng 2,3 triệu tấn/năm của Công ty Cơ khí lắp máy Ninh Bình, các sản phẩm cơ khí công nghệ cao của Công ty cơ khí Quang Trung, sản phẩm hoa quả đóng hộp của Công ty cổ phần Thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao…đã góp phần tăng giá trị công nghiệp. Về thu hút đầu tư, tỉnh có những dự án công nghiệp với mức đầu tư lớn đang được triển khai xây dựng như: Nhà máy phân đạm công suất 56 vạn tấn/năm, nhà máy sản xuất phụ tùng động cơ tàu thuỷ Vinashin vơi vốn đầu tư 1.200 tỷ đồng, nhà máy sản xuất sôđa đầu tư 1.300 tỷ, nhà máy sản xuất phôi thép Ninh Bình đầu tư 560 tỷ đồng. Nông nghiệp Ninh Bình có lợi thế phát triển ngành nông nghiệp đa dạng nhiều thành phần. Các vùng chuyên canh nông nghiệp chính của tỉnh: vùng nông trường Đồng Giao chuyên trồng cây công nghiệp như cây dứa thơm, vùng Kim Sơn trồng cây cói làm chiếu và các mặt hàng mỹ nghệ khác, vùng biển Kim sơn nuôi tôm sú, nuôi cá và nuôi lợn, vùng Ninh Phúc, Ninh Sơn trồng hoa và rau sạch. Cơ cấu Nông, lâm, thuỷ sản trong GDP của tỉnh, năm 2007 đạt 26% (mục tiêu đến năm 2010 là 17%). Trong nông nghiệp, giữa các lĩnh vực sản xuất cũng có sự chuyển dịch. Năm 2001, nông nghiệp chiếm 93,4%, lâm nghiệp 1,3%, thuỷ sản 1,7%, đến năm 2007, tỷ lệ đó là: Nông nghiệp 86,9%, lâm nghiệp 1,7%, thuỷ sản 11,4%. Lĩnh vực nuôi thuỷ sản phát triển khá ổn định, nhất là ở khu vực nuôi thả thuỷ sản nước ngọt. Diện tích nuôi thuỷ sản năm 2007 đạt 9.021 ha, tăng 27,7% so với năm 2004; trong đó diện tích nuôi thả vùng nước ngọt đạt 6.910 ha, nuôi thuỷ sản nước lợ 2.074 ha. Sản lượng thuỷ sản năm 2007 đạt 18.771 tấn. Trong đó sản lượng tôm sú đạt 1.050 tấn, cua biển đạt 1.280 tấn. Tổng giá trị thuỷ sản năm 2007 đạt 350 tỷ đồng, tăng 73,4 tỷ đồng so với năm 2004. Về hạ tầng, tỉnh đang đầu tư, nâng cấp, xây mới nhiều trạm bơm nước, kênh mương. Các tuyến đê quan trọng như: Đê biển Bình Minh II; đê tả, hữu sông Hoàng Long; đê Đầm Cút, đê Năm Căn, hồ Yên Quang, âu Cầu Hội... được nâng cấp theo hướng kiên cố hoá. Dịch vụ Sân vận động trung tâm thành phố Ninh Bình. Ninh Bình có vị trí thuận lợi cho phát triển lưu thông hàng hóa với các địa phương khác trong cả nước. Về du lịch, Ninh Bình có điều kiện phát triển đa dạng các loại hình du lịch: sinh thái, văn hoá, nghỉ dưỡng, mạo hiểm, thể thao. Về thể thao, giải trí, Ninh Bình có những công trình thể thao cấp quốc gia là nhà thi đấu Ninh Bình và sân vận động Ninh Bình. Từ năm 2006 tỉnh có một đội bóng đá là câu lạc bộ bóng đá Xi măng Vinakansai Ninh Bình và một đội bóng chuyền hạng mạnh là Tràng An Ninh Bình. Về giáo dục và đào tạo tỉnh có trường đại học Hoa Lư và 4 trường cao đẳng. Ninh Bình đang có nhiều nỗ lực kêu gọi đầu tư vào lĩnh vực du lịch, dịch vụ. Tỉnh coi đây là lĩnh vực kinh tế mũi nhọn. Tốc độ tăng giá trị sản xuất các ngành dịch vụ đạt 16% Từ năm 2004, Sở Công Thương Ninh Bình đã xây dựng quy hoạch mạng lưới chợ trên địa bàn tỉnh đến năm 2010 và định hướng đến năm 2015. Năm 2008, toàn tỉnh có 107 chợ, trong đó chợ Rồng ở thành phố Ninh Bình là chợ loại 1, 5 chợ loại 2 (chợ Đồng Giao, chợ Nam Dân, chợ Ngò...) còn lại là chợ loại 3. Du lịch Các điểm du lịch Phong cảnh Ninh Bình – Non nước hữu tình. Ninh Bình có tiềm năng du lịch rất lớn, nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử văn hoá nổi tiếng như: Cố đô Hoa Lư (xã Trường Yên, huyện Hoa Lư) là kinh đô của nhà nước phong kiến tập quyền đầu tiên ở Việt Nam, hiện còn đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành. Tại đây đã xây dựng khu núi chùa Bái Đính với quy mô lớn trong dự án phát huy giá trị khu di tích. Khu du lịch sinh thái Tràng An với hệ thống các hang động, thung nước, rừng cây và các di tích lịch sử gắn với kinh thành xưa của Cố đô Hoa Lư. Đây là khu du lịch tổng hợp được đầu tư lớn của nhà nước và địa phương. Khu du lịch Tam Cốc - Bích Động (tại xã Ninh Hải- Hoa Lư) đã được tặng chữ: "Nam thiên đệ nhị động" hay "vịnh Hạ Long cạn" với các điểm du lịch như: Tam Cốc, đền Thái Vi, chùa Bích Động, động Tiên, chùa Linh Cốc v.v. Vườn quốc gia Cúc Phương (huyện Nho Quan) với diện tích rừng nguyên sinh khoảng 22.000 ha, có nhiều động thực vật quý hiếm, có cây chò ngàn năm tuổi, có động Người xưa. Nhà thờ Phát Diệm là công trình kiến trúc tôn giáo kết hợp hài hòa giữa kiến trúc phương đông và phương tây. Khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long là khu bảo tồn thiên nhiên ngập nước lớn nhất đồng bằng Bắc Bộ. Tại đây có suối nước nóng Kênh Gà, động Vân Trình, Kẽm Trống và nhiều núi hang đẹp khác. Vùng biển huyện Kim Sơn được UNESCO đưa vào danh sách các địa danh thuộc khu dự trữ sinh quyển đồng bằng sông Hồng, là một trong 6 khu dự trữ sinh quyển thế giới tại Việt Nam. Ngoài ra còn có: động Mã Tiên, núi Ngọc Mỹ Nhân, núi Non Nước, sông Vân, khu căn cứ cách mạng Quỳnh Lưu, Phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn, hồ Đồng Thái, sân golf Yên Thắng 54 lỗ được coi là hiện đại và lớn nhất Việt Nam tại thời điểm này... Hiện nay Ninh Bình có các khu du lịch đã và đang hoàn thiện hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận là di sản thế giới:[1][2][3] Khu di tích lịch sử văn hóa Cố đô Hoa Lư : di sản văn hóa thế giới Vườn quốc gia Cúc Phương, khu du lịch sinh thái hang động Tràng An: di sản thiên nhiên thế giới. Đặc sản Ninh Bình Đặc sản Ninh Bình nổi tiếng gồm có các món ăn chế biến từ thịt Dê núi Ninh Bình; Rượu Kim Sơn và Cơm cháy Ninh Bình. Chủ yếu phát triển mạnh dọc theo tuyến quốc lộ 1A. Trong các đặc sản Ninh Bình thì thịt dê núi Ninh Bình là nổi tiếng và độc đáo nhất. Thịt dê Ninh Bình ngon hơn các vùng khác vì: Dê ở đây nuôi trên núi đá vôi, ăn đa dạng các loại lá cây nên thịt săn chắc hơn so với dê thả đồi. Món ăn từ thịt dê được đi kèm với các loại rau thơm địa phương như lá đinh lăng, lá mơ, lá sung. Thịt dê Ninh Bình được địa phương xây dựng thành món ẩm thực đặc trưng, đậm đà hương vị sông núi quê hương, được kế thừa truyền thống với những bí quyết riêng, biến thịt dê thành món đặc sản nổi tiếng. STNinh Bình - đất bốn vua Ninh Bình là vùng đất hiểm và thiêng, quê hương của ba triều đại phong kiến Đinh, Tiền Lê, Lý với bốn vị vua lừng lẫy một thời: Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Công Uẩn và Giản Định Đế. Con đèo Tam Điệp với bài thơ nổi tiếng của nữ sĩ Hồ Xuân Hương là chiếc bản lề nối hai tỉnh Ninh Bình - Thanh Hóa. Thời xưa, phía trong con đèo là Thanh Hóa nội, phía ngoài là Thanh Hóa ngoại. Từ đèo Tam Điệp đến Cố đô Hoa Lư (Trường Yên) khoảng 30 km .   Toàn cảnh đền vua Đinh nhìn từ núi Mã. Yên  Sử sách ghi lại, Đinh Bộ Lĩnh quê huyện Gia Viễn (Ninh Bình), sau khi dẹp tan 12 sứ quân, ông lên ngôi hoàng đế, tự xưng là Đại Thắng Minh Hoàng đế (Đinh Tiên Hoàng). Ông đặt Quốc hiệu là Đại Cồ Việt, niên hiệu là Thái Bình (năm 970). Triều Đinh tồn tại 12 năm. Nhà Đinh mất, nhà Tiền Lê lên thay. Lê Hoàn vốn là quan Thập đạo tướng quân dưới cờ nhà Đinh, khi Đinh Tiên Hoàng mất, Lê Hoàn được các quan và quân sĩ “rước” lên ngai vàng. Dưới triều đại vua Lê Đại Hành (941-1005), nhà Tiền Lê vẫn đóng đô tại Hoa Lư, vua ở ngôi 25 năm (980-1005). Lê Hoàn đặt ba niên hiệu: Thiên Phúc (từ 980 đến 988); Hưng Thống (từ 989 đến 993); Ứng Thiên (từ 994 đến 1005). Triều Tiền Lê trải qua ba đời vua Lê Đại Hành (980-1005), Lê Trung Tông (1005) rồi đến Lê Ngọa Triều (1005-1009). Triều Tiền Lê tồn tại 29 năm. Triều Lý thay cho triều Tiền Lê. Ông vua mở đầu nhà Lý là Lý Công Uẩn, tức Lý Thái Tổ. Ông quê Cổ Pháp (Bắc Ninh). Nhà vua lên ngôi tháng 10 năm Kỷ Dậu (1009), đến năm 1010 mới đặt niên hiệu riêng: Thuận Thiên. Tháng 10 năm Kỷ Dậu (1009), ông lên ngôi thì đến tháng 7 năm Canh Tuất (1010), Lý Thái Tổ xuống “Chiếu dời đô”. Như vậy, triều Lý trong khoảng gần 10 tháng của năm đầu và năm thứ hai, vẫn lấy Hoa Lư làm Kinh đô. Trong thời gian ấy, niên hiệu Thuận Thiên vẫn sáng trên lá cờ đại thêu chữ “Lý”, bay phấp phới trên đỉnh núi Mã Yên. Dấu ấn của hai triều Đinh, Tiền Lê và năm đầu của triều Lý vẫn còn đó. Ngày nay, không còn những cung điện lộng lẫy nữa, thời gian và những biến cố lịch sử đã làm đổ nát những cung điện đẹp: Bách Bảo Thiên Tuế, cột điện được dát vàng, bạc, và các điện: Phong Lưu, Tử Hoa, Bồng Lai, Cực Lạc, Trường Xuân, Long Tộc. Nhưng vẫn còn đó Lăng vua Đinh trên núi Mã Yên, Long Sàng đá nơi sân chầu, đền vua Đinh, đền vua Lê, sông Sào Khê mà Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Thái Tổ đứng ở đó để duyệt các cuộc tập trận của thủy binh thời Đinh, Tiền Lê và Lý. Và còn những câu ca đã đi vào trí nhớ của nhân dân đến tận bây giờ về Đinh Tiên Hoàng: "Đặt ra có ngũ, có dinh/Có quân Túc vệ, có thành Tứ vi/Trên thì bảo điện uy nghi/Bên ngoài lại sẵn đan trì nghi môn...”. Ông vua thứ tư lên ngôi ở Ninh Bình là Giản Định Đế. Tên húy của ông là Trần Ngỗi (cũng gọi là Trần Quỹ). Ông là con thứ của Trần Nghệ Tông. Ông Trần Ngỗi lên ngôi tại Mô Độ, tên thời xưa của huyện Yên Mô (Ninh Bình), vào tháng 10 năm Đinh Hợi (1407), tức là Giản Định Đế. Ông là vị vua mở đầu nhà Hậu Trần. Đọc sử, ta biết nhà Hậu Trần gồm hai đời vua: Giản Định Đế (Trần Ngỗi) ở ngôi từ 1407 đến 1409 và Trùng Quang Đế (Trần Quý Khoáng) ở ngôi trong thời gian 1409-1413. Lên ngôi vua thời quân Minh đang xâm lược nước ta, Giản Định Đế đã chỉ huy quân sĩ đánh trận Bô Cô, thuộc huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, diệt gần 20.000 quân giặc. Đây là một trận thắng lẫy lừng của quân sĩ thời Hậu Trần chống giặc Minh xâm lược. Thời ấy, Giản Định Đế không có ngai vàng, ông cũng không có điều kiện để thiết lập triều đình với bá quan văn võ. Ông đóng đại bản doanh tại thôn Bồ Xuyên, xã Yên Thành, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình bây giờ. Hiện nay, xã Yên Thành còn lưu giữ được khá nhiều di tích, dấu ấn về ông vua thời Hậu Trần này. Đền La ở thôn Bồ Xuyên, xã Yên Thành, huyện Yên Mô, thờ hai vua, thời Hậu Trần: Giản Định Đế, Trùng Quang Đế. Ngôi đền đã được cấp bằng “Di tích lịch sử, văn hóa”. Ngôi đền ở vào địa thế rất đẹp, có bốn ngọn núi chầu bốn bên: Phương Duệ, Cổ Rùa, Long Mã, Búi Tóc. Thôn La còn có phủ thờ Bối Mai công chúa dưới chân núi Cái Sơn. Bà là con gái Giản Định Đế, người có công tổ chức việc khẩn hoang, khuyến khích việc nông trang, xây dựng xóm làng. Cách phủ thờ Bối Mai công chúa là khu lăng, nơi này, theo truyền thuyết là nơi an táng Giản Định Đế. Khu lăng ngày trước rộng đến 8 ha. Trước lăng có biển đề: “Hậu Trần hoàng đế lăng”. Xã Yên Thành lại còn một cái giếng mang tên Giếng Dặn. Giếng này có từ thời Giản Định Đế. Các cụ cho hay, uống nước giếng Dặn là nhớ lấy lời tiên tổ, ra sức giữ gìn và góp phần dựng xây non sông gấm vóc này. ST NINH BÌNH - CỐ ĐÔ HOA LƯ Phát Diệm có nghĩa là phát sinh ra cái đẹp, tên Phát Diệm do Nguyễn Công Trứ đặt. Nhà thờ đá được xây dựng trong suốt thời gian 24 năm liên tục. Với trình độ kỹ thuật và điều kiện giao thông của những năm cuối thế kỷ 19 thì chỉ việc vận chuyển hàng nghìn tấn đá, có những phiến nặng 20 tấn, hàng trăm cây gỗ lim về tới Phát Diệm để xây nhà thờ cũng là một kỳ công. Kim Sơn vốn là vùng đất mới khai khẩn, trước đây rất lầy lội. Để xử lý độ lún của khu đất trước khi xây dựng người ta đã chuyển cả một quả núi nhỏ cách 40 km về Phát Diệm. Khách về thăm nhà thờ còn thấy núi Sọ, đấy chính là một phần của trái núi đã được dân dời về Phát Diệm. Ðây là một quần thể kiến trúc phương Ðông gồm có (từ hướng Nam đi vào): Ao hồ, Phương Ðình, Nhà thờ lớn với bốn Nhà thờ cạnh ở hai bên, ba hang đá nhân tạo, Nhà thờ đá. Phương Ðình: Là khu vực đầu tiên trong quy hoạch kiến trúc của nhà thờ Phát Diệm. Ðây là một công trình kiến trúc cao 25 m, rộng 17 m, dài 24 m gồm ba tầng được xây dựng bằng đá phiến, lớn nhất là tầng dưới cùng được xây dựng bằng đá xanh. Nghệ thuật xây dựng Phương Ðình rất đáng khâm phục, với kỹ nghệ thủ công những người thợ địa phương đã ghép những phiến đá nặng hàng nghìn cân, mức độ chính xác rất cao.  Các vòm cửa bằng đá được lắp ghép đến trình độ tinh xảo. Giữa Phương Ðình đặt một sập làm bằng đá nguyên khối, phía ngoài và bên trong là những bức phù điêu được khắc chạm trên đá hình ảnh chúa Jesu và các vị thánh rất đẹp với những đường nét thanh thoát. Tầng thứ hai của Phương Ðình treo một trống lớn.  Tầng ba treo một quả chuông cao 1,4m, đường kính 1,1m, nặng gần 2000 kg, quả chuông lớn ở Phương Ðình được đúc vào năm 1890. Mái của Phương Ðình có năm vòm, bốn vòm ở bốn góc thấp hơn, vòm cao nhất là vòm ở giữa tầng ba. Mái của Phương Ðình ở nhà thờ đá Phát Diệm không cao vút kiểu ngọn tháp như những nhà thờ khác mà là mái cong thấp cổ kính như mái đình, mái chùa. Nhà thờ lớn: Nhà thờ lớn là nhà thờ chính được xây dựng năm 1891, có năm lối vào vòm đá được chạm trổ. Nhà thờ lớn dài 74m, rộng 21m, cao 16m, có bốn mái.  Trong nhà thờ có 6 hàng cột gỗ lim nguyên khối, hai hàng cột giữa cao tới 11m, chu vi 2,35m, mỗi cột nặng khoảng 7 tấn. Gian thượng của thánh đường có một bàn thờ lớn làm bằng một phiến đá nguyên khối dài 3m, rộng 0,9m, cao 0,8m, nặng khoảng 20 tấn.  Mặt trước và hai bên được chạm trổ các loài hoa đặc trưng của bốn mùa làm cho bàn thờ như được phủ một chiếc khăn màu thạch sáng. Hai phía bên nhà thờ có bốn nhà thờ nhỏ được kiến trúc theo một phong cách riêng. Nhà thờ đá: Nhà thờ đá còn được gọi là nhà thờ dâng kính trái tim Ðức Mẹ.  Gọi là nhà thờ đá vì tất cả mọi thứ ở nhà thờ này đều được làm bằng đá, từ nền, tường, cột, chấn song cửa... Phía trong được chạm nhiều bức phù điêu đẹp, đặc biệt là bức chạm tứ quý: tùng, mai, cúc, trúc, tượng trưng cho thời tiết và vẻ đẹp riêng của bốn mùa trong một năm. Ðường nét khắc họa những con vật như sư tử, phượng sống động đến lạ thường. Hang đá nhân tạo: Ở phía bắc khu nhà thờ đá Phát Diệm có 3 hang đá được tạo bằng những khối đá lớn nhỏ khác nhau giữ nguyên dáng vẻ tự nhiên. Trong đó, hang Lộ Ðức là đẹp nhất. Nhà thờ đá Phát Diệm, một công trình kiến trúc độc đáo có một không hai ở Việt Nam. Các công trình kiến trúc nguy nga, tráng lệ nhưng hài hòa với cảnh vật thiên nhiên, mang đậm phong cách kiến trúc Á Đông.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxĐịa lý tỉnh ninh bình.docx