TỔNG KẾT HỢP VỀ THỜI GIAN
Dr. Allen Bellas
Phương Hạnh dịch
Tỷ Lệ Ưu Tiên Thời Gian[1]
Chủ đề này là về chiết khấu chi phí và lợi nhuận tương lai để phản ánh quan điểm rằng
những thứ trong tương lai sẽ có ít giá trị hơn hiện tại.
Ví dụ, nếu một cộng đồng sắp có một bệnh viện mới, miễn là những thứ khác cũng giống
nhau, người dân sẽ có thể mong muốn thà có bệnh viện hôm này còn hơn một năm sau
mới có nó. Giá trị bệnh viện mới hiện nay lớn hơn giá trị bệnh viện mới một năm sau.
Vậy bệnh viện hiện nay có giá trị nhiều hơn bao nhiêu? Câu hỏi này được trả lời bằng Tỷ
Lệ Ưu Tiên Thời Gian.
Tỷ lệ ưu tiên thời gian là tỷ lệ mà người dân sẵn sàng từ bỏ tiêu dùng hiện nay để đổi
chác lấy thêm tiêu dùng một khoảng thời gian (thông thường là một năm kể từ bây giờ).
Hoặc, tỷ lệ ưu tiên thời gian là tỷ lệ phần trăm mà theo đó, giá trị của một hạng mục bị
giảm bớt đi nếu một người phải chờ thêm một khoảng thời gian nữa mới lấy được nó
(thông thường là một năm).
Nếu mọi người trong cộng đồng đồng ý sẽ trả $100 triệu để có bệnh viện mới ngay bây
giờ nhưng chỉ trả $95 triệu để có nó một năm sau, thì tỷ lệ ưu tiên thời gian ngụ ý của họ
là xấp xỉ khoảng 5%. Nghĩa là, mỗi năm họ phải chờ để có được cái gì đó sẽ làm giảm
giá trị của cái đó đi khoảng 5%.
Sử Dụng Chiết Khấu Trong Thực Tế
Dẹp tất cả những mối quan tâm này sang một bên, hãy giả sử rằng bạn có tỷ lệ lãi suất
nào đó để áp dụng trong chiết khấu chi phí và lợi nhuận tương lai. Trong nhiều trường
hợp thực tế trên thế giới, con số này sẽ đơn giản được ấn định sẵn cho bạn.
Phương thức đúng để đánh giá một dự án là nhìn vào giá trị hiện tại của lợi nhuận ròng.
Nếu giá trị hiện tại ròng (NPV) là dương, thì dự án là đáng để thực hiện. Nếu có hai dự án
cùng độc quyền lẫn nhau thì nên triển khai dự án có NPV lớn nhất.
Công Thức Tính Giá Trị Hiện Tại Ròng
Giá trị hiện tại ròng là giá trị hiện tại của lợi nhuận trừ đi giá trị hiện tại của chi phí.
Giá trị hiện tại ròng của dự án (cũng được biết đến như là giá trị hiện tại của lợi nhuận
ròng) có thể được biểu diễn như một tổng của các lợi nhuận ròng trong mỗi giai đoạn
trong đó chúng ta chấp nhận chung rằng:
và n là phạm vi quy hoạch hay đánh giá dự án
Nhìn chung, chúng ta cũng tin rằng một tỷ lệ không âm[2] nên được áp dụng để chiết
khấu tương lai, để mà
Một điều kiện tiên quyết để xác định giá trị hiện tại ròng là quyết định qua khoảng thời
gian nào dự án sẽ được đánh giá. Một số dự án có tuổi thọ nhất định, và dễ dàng xác định
được khoảng thời gian nào để đánh giá chi phí và lợi nhuận của chúng. Những dự án
khác sẽ có chi phí và lợi nhuận trong một khoảng thời gian không hạn định và buộc phải
quyết định khoảng thời gian bao lâu để đánh giá dự án.
Nếu dự án sẽ không có chi phí và lợi nhuận sau N năm, thì giá trị hiện tại bằng
trong đó :
B là lợi nhuận trong thời gian t
t
C là chi phí trong thời gian t
t
i là tỷ lệ lãi suất chiết khấu
Nếu dự án sẽ để lại một số tài sản nhất định sau N năm, giá trị của tài sản đó là giá trị
cuối cùng của dự án. Giá trị cuối cùng có thể là giá trị của những thứ vật chất, hoặc nó
cũng có thể là giá trị dự tính của giá trị hiện tại của lợi nhuận ròng trong tương lai của dự
án vượt ra ngoài khoảng thời gian đang được xem xét rõ ràng:
trong đó :
B là lợi nhuận trong thời gian t
t
Ct là chi phí trong thời gian t
i là tỷ lệ lãi suất chiết khấu
T là giá trị cuối cùng, giá trị của cái sẽ được để lại sau quãng thời gian N
N
VD: Một dự án không có giá trị cuối cùng
Khoảng thời gian 0 1 2 3
Lợi nhuận 0 300 300 300
Chi phí 450 100 100 100
Lợi nhuận òng -450 200 200 200
Nếu tỷ lệ lãi suất bằng 10% thì giá trị hiện tại của dự án có thể được tính toán là
Cho nên, do NPV > 0, đây là một dự án tốt đáng để thực hiện.
Tuy nhiên, nếu dự án này được thẩm định lại với tỷ lệ chiết khấu là 20%, chúng ta có
Cho nên, với tỷ lệ chiết khấu cao hơn, đây là một dự án tồi không nên thực hiện.
Nói chung, do hầu hết các dự án có chi phí và lợi nhuận ban đầu sau một khoảng thời
gian nào đó, khi tỷ lệ chiết khấu tăng lên, số lượng dự án tốt sẽ giảm đi.
18 trang |
Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 2053 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tổng kết hợp về thời gian, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tổng Kết Hợp Về Thời Gian
Dr. Allen Bellas
Phương Hạnh dịch
Tỷ Lệ Ưu Tiên Thời Gian[1]
Chủ đề này là về chiết khấu chi phí và lợi nhuận tương lai để phản ánh quan điểm rằng
những thứ trong tương lai sẽ có ít giá trị hơn hiện tại.
Ví dụ, nếu một cộng đồng sắp có một bệnh viện mới, miễn là những thứ khác cũng giống
nhau, người dân sẽ có thể mong muốn thà có bệnh viện hôm này còn hơn một năm sau
mới có nó. Giá trị bệnh viện mới hiện nay lớn hơn giá trị bệnh viện mới một năm sau.
Vậy bệnh viện hiện nay có giá trị nhiều hơn bao nhiêu? Câu hỏi này được trả lời bằng Tỷ
Lệ Ưu Tiên Thời Gian.
Tỷ lệ ưu tiên thời gian là tỷ lệ mà người dân sẵn sàng từ bỏ tiêu dùng hiện nay để đổi
chác lấy thêm tiêu dùng một khoảng thời gian (thông thường là một năm kể từ bây giờ).
Hoặc, tỷ lệ ưu tiên thời gian là tỷ lệ phần trăm mà theo đó, giá trị của một hạng mục bị
giảm bớt đi nếu một người phải chờ thêm một khoảng thời gian nữa mới lấy được nó
(thông thường là một năm).
Nếu mọi người trong cộng đồng đồng ý sẽ trả $100 triệu để có bệnh viện mới ngay bây
giờ nhưng chỉ trả $95 triệu để có nó một năm sau, thì tỷ lệ ưu tiên thời gian ngụ ý của họ
là xấp xỉ khoảng 5%. Nghĩa là, mỗi năm họ phải chờ để có được cái gì đó sẽ làm giảm
giá trị của cái đó đi khoảng 5%.
Sử Dụng Chiết Khấu Trong Thực Tế
Dẹp tất cả những mối quan tâm này sang một bên, hãy giả sử rằng bạn có tỷ lệ lãi suất
nào đó để áp dụng trong chiết khấu chi phí và lợi nhuận tương lai. Trong nhiều trường
hợp thực tế trên thế giới, con số này sẽ đơn giản được ấn định sẵn cho bạn.
Phương thức đúng để đánh giá một dự án là nhìn vào giá trị hiện tại của lợi nhuận ròng.
Nếu giá trị hiện tại ròng (NPV) là dương, thì dự án là đáng để thực hiện. Nếu có hai dự án
cùng độc quyền lẫn nhau thì nên triển khai dự án có NPV lớn nhất.
Công Thức Tính Giá Trị Hiện Tại Ròng
Giá trị hiện tại ròng là giá trị hiện tại của lợi nhuận trừ đi giá trị hiện tại của chi phí.
Giá trị hiện tại ròng của dự án (cũng được biết đến như là giá trị hiện tại của lợi nhuận
ròng) có thể được biểu diễn như một tổng của các lợi nhuận ròng trong mỗi giai đoạn
trong đó chúng ta chấp nhận chung rằng:
và n là phạm vi quy hoạch hay đánh giá dự án
Nhìn chung, chúng ta cũng tin rằng một tỷ lệ không âm[2] nên được áp dụng để chiết
khấu tương lai, để mà
Một điều kiện tiên quyết để xác định giá trị hiện tại ròng là quyết định qua khoảng thời
gian nào dự án sẽ được đánh giá. Một số dự án có tuổi thọ nhất định, và dễ dàng xác định
được khoảng thời gian nào để đánh giá chi phí và lợi nhuận của chúng. Những dự án
khác sẽ có chi phí và lợi nhuận trong một khoảng thời gian không hạn định và buộc phải
quyết định khoảng thời gian bao lâu để đánh giá dự án.
Nếu dự án sẽ không có chi phí và lợi nhuận sau N năm, thì giá trị hiện tại bằng
trong đó :
Bt là lợi nhuận trong thời gian t
Ct là chi phí trong thời gian t
i là tỷ lệ lãi suất chiết khấu
Nếu dự án sẽ để lại một số tài sản nhất định sau N năm, giá trị của tài sản đó là giá trị
cuối cùng của dự án. Giá trị cuối cùng có thể là giá trị của những thứ vật chất, hoặc nó
cũng có thể là giá trị dự tính của giá trị hiện tại của lợi nhuận ròng trong tương lai của dự
án vượt ra ngoài khoảng thời gian đang được xem xét rõ ràng:
trong đó :
Bt là lợi nhuận trong thời gian t
Ct là chi phí trong thời gian t
i là tỷ lệ lãi suất chiết khấu
TN là giá trị cuối cùng, giá trị của cái sẽ được để lại sau quãng thời gian N
VD: Một dự án không có giá trị cuối cùng
Khoảng thời gian 0 1 2 3
Lợi nhuận 0 300 300 300
Chi phí 450 100 100 100
Lợi nhuận ròng -450 200 200 200
Nếu tỷ lệ lãi suất bằng 10% thì giá trị hiện tại của dự án có thể được tính toán là
Cho nên, do NPV > 0, đây là một dự án tốt đáng để thực hiện.
Tuy nhiên, nếu dự án này được thẩm định lại với tỷ lệ chiết khấu là 20%, chúng ta có
Cho nên, với tỷ lệ chiết khấu cao hơn, đây là một dự án tồi không nên thực hiện.
Nói chung, do hầu hết các dự án có chi phí và lợi nhuận ban đầu sau một khoảng thời
gian nào đó, khi tỷ lệ chiết khấu tăng lên, số lượng dự án tốt sẽ giảm đi.
Dưới đây là biểu đồ mô tả dự án nói trên diễn biến như thế nào tại các mức tỷ lệ lãi suất
khác nhau:
Tỷ Lệ Thực Tế với Tỷ Lệ Danh Nghĩa
Chênh lệch giữa tỷ lệ lãi suất thực tế (TT) và tỷ lệ lãi suất danh nghĩa (DN) chính là tỷ lệ
lạm phát (LP). Sử dụng tỷ lệ nào phụ thuộc vào bản chất chi phí và lợi nhuận liên quan
đến một dự án.
Mối quan hệ giữa tỷ lệ lãi suất thực tế, tỷ lệ lãi suất danh nghĩa và tỷ lệ lạm phát là:
Ví dụ, nếu tỷ lệ lãi suất danh nghĩa là 30% và tỷ lệ lạm phát là 20%, thì tỷ lệ lãi suất thực
tế là
Tính xấp xỉ, thông thường có thể chấp nhận được để nói rằng
thực tế = danh nghĩa - lạm phát
Công thức này sẽ càng đúng khi tỷ lệ lạm phát nhỏ. Tất nhiên, có những thời điểm và địa
phương nơi tỷ lệ lạm phát không nhỏ.
VD: danh nghĩa=450%, lạm phát=440%
i=(1+4.50)/(1+4.40) - 1 = 0.0185 hay 1.85%, không phải là 10%.
Nếu chi phí hay lợi nhuận được biểu thị bất biến bằng đồng đôla hoặc dưới dạng hàng
hoá và dịch vụ (thông thường là trường hợp), thì những giá trị này sẽ đợc điều chỉnh cho
lạm phát và chỉ có tỷ lệ chiết khấu hay lãi suất thực tế mới cần được bao gồm trong tỷ lệ
bạn áp dụng.
Nếu chi phí hay lợi nhuận được biểu thị bằng các số tiền đôla danh nghĩa, thì lạm phát sẽ
ảnh hưởng đến giá trị của chúng và, do vậy, lạm phát nên được bao gồm trong tỷ lệ chiết
khấu, có nghĩa là tỷ lệ danh nghĩa nên được sử dụng.
Tỷ Lệ Chiết Khấu Xã Hội, hay Nên Sử Dụng Tỷ Lệ Nào?
Chi phí và lợi nhuận liên quan đến một dự án điển hình thường phát sinh tại những thời
điểm khác nhau. Quan trọng là việc có thể so sánh các chi phí và lợi nhuận phát sinh tại
những thời điểm khác nhau.
Thực hiện điều này trong một nền kinh tế đơn giản, có một người và có hai giai đoạn là
tương đối dễ. Một người sẽ có vài cơ hội tiêu dùng giữa hai giai đoạn và sẽ tối đa hoá độ
thoả dụng tiêu dùng giữa hai giai đoạn. Tỷ Lệ Thay Thế Biên (Marginal Rate of
Substituion ~ MRS) sẽ bằng với Tỷ Lệ Chuyển Đổi Biên (Marginal Rate of
Transformation ~ MRT) và đây sẽ là tỷ lệ lãi suất phù hợp để áp dụng tính chiết khấu chi
phí và lợi nhuận tương lai. .
Nhìn từ góc độ quan điểm xã hội, tồn tại một đường biên các xác suất tiêu dùng liên quan
đến mức tiêu dùng giai đoạn này với mức tiêu dùng giai đoạn tiếp theo. Độ dốc của
đường cong này là Tỷ Lệ Chi Phí Cơ Hội Xã Hội (Social Opportunity Cost Rate ~
SOCR).
Xã hội cũng sẵn sàng từ bỏ tiêu dùng hiện tại để đổi lấy đầu tư dẫn đến tiêu dùng lớn hơn
trong tương lai. Sự sẵn lòng này được thể hiện bởi độ dốc của đường cong đẳng dụng xã
hội, độ dốc của đường cong này là Tỷ Lệ Ưu Tiên Thời Gian Của Xã Hội (Societal Rate
of Time Prefence ~ SRTP).
Nếu tất cả các thị trường đều hoàn hảo, chúng ta có sự cân bằng liên thời gian xã hội
(societal intertemporal equilibrium):
Tại một điểm giống như X, tỷ lệ chi phí cơ hội xã hội SOCR bằng với tỷ lệ ưu tiên thời
gian của xã hội SRTP, do đó tỷ lệ mà tại đó xã hội có thể trao đổi cái này lấy cái kia giữa
mức tiêu dùng hiện tại và mức tiêu dùng tương lai chính xác bằng với tỷ lệ mà nó muốn
để trao đổi giữa hai thứ và đó là tỷ lệ mà tại đó mức tiêu dùng tương lai nên được chiết
khấu tương xứng với mức tiêu dùng hiện tại.
Nếu xã hội có một khoản tiền tại một điểm giống như Z, thì xã hội nên giảm mức tiêu
dùng hiện tại để nhằm tăng mức tiêu dùng tương lai bởi vì chi phí biên của mức tiêu dùng
hiện tại (xét về mức tiêu thụ tương lai dự tính trước) lớn hơn tỷ lệ biên mà tại đó xã hội
sẵn lòng để trao đổi giữa hai thứ.
Xét từ góc độ cá nhân, có một tỷ lệ ưu tiên thời gian của cá nhân (Private Rate of Time
Preference ~ PRTP) biểu hiện cho tỷ lệ mà tại đó mọi người sẵn sàng thực hiện trao đổi
thoả hiệp biên giữa mức tiêu dùng hiện tại và mức tiêu dùng tương lai.
Những cá nhân này có cơ hội đầu tư vào các thị trường tín dụng trong đó có một tỷ lệ chi
phí cơ hội cá nhân (Private Opportunity Cost Rate ~ POCR) mà tại đó những nguồn lực
hiện tại có thể được đầu tư để đổi lấy mức tiêu dùng tương lai. Tỷ lệ này chính là độ dốc
của đường thẳng ngân sách liên thời gian và cũng là tỷ lệ lãi suất.
Một người có một khoản tiền T trong khoảng thời gian 0 sẽ lựa chọn để tiết kiệm một
chút trong số đó (∆C0) để nhằm có mức tiêu dùng trong khoảng thời gian 1.
Do đó, một lần nữa, nếu thị trường hoàn hảo thì độ dốc của đường cong đẳng dụng cá
nhân (PRTP) sẽ bằng với độ dốc của đường cong đẳng dụng xã hội (SRTP) và chúng sẽ
bằng với độ dốc của đường hạn chế ngân sách liên thời gian của cá nhân (POCR) và độ
dốc của đường giới hạn khả năng tiêu dùng (SOCR). Tuy nhiên, điều này không phải như
thế.
Nếu chúng ta có hiệu dụng năng động (dynamic efficiency), thì tỷ lệ thay thế biên liên
thời gian của các cá nhân sẽ bằng với tỷ lệ chuyển đổi biên liên thời gian của họ. Điều
này tương ứng với việc nói rằng tỷ lệ này sẽ bằng nhau giữa tất cả các cá nhân. Nói cách
khác, tỷ lệ mà mọi người mong muốn trao đổi mức tiêu dùng giữa hai khoảng thời gian
bằng với tỷ lệ mà tại đó họ có thể trao đổi thoả hiệp.
Chúng ta có thể phân biệt giữa tỷ lệ cá nhân và tỷ lệ xã hội ...
Trong những thị trường vốn hoàn hảo :
Tỷ Lệ Ưu Tiên Thời Gian Cá Nhân (PRTP) = Tỷ Lệ Chi Phí Cơ Hội Cá Nhân (POCR)
Đối với tổng thể xã hội
Tỷ Lệ Ưu Tiên Thời Gian Xã Hội (SRTP) = Tỷ Lệ Chi Phí Cơ Hội Xã Hội (SOCR)
Và chừng nào mà
SRTP=PRTP và
PRTP=POCR và
SOCR=POCR,
thì bạn có tính hiệu dụng năng động và tỷ lệ lãi suất thật sự và chính thức bằng với tất cả
những tỷ lệ này.
Có rất nhiều lý do giải thích tại sao điều này có thể không đúng như vậy ...
1. Những thị trường vốn có hoàn hảo không? Nghĩa là, PRTP=i=POCR hay không?
Có thể ở những thành phố lớn có nhiều khoản tiền lớn, nhưng không phải ở những thị
trường có số lượng hạn chế những phương tiện tài chính hay ngân hàng.
Những người tiêu dùng tiết kiệm được thêm nhiều tiền cho đến khi tỷ lệ ưu tiên thời
gian của họ bằng với tỷ lệ lãi suất họ có thể kiếm được từ các khoản tiền tiết kiệm của
mình (PRTP=itiền tiết kiệm ) trong khi đó các thể chế tài chính tiến hành cho vay bổ sung cho
đến khi chi phí cơ hội của họ bằng với lợi nhuận họ thu lại được từ các khoản cho vay
đó (POCR=ikhoản cho vay ).
Nếu itiền tiết kiệm= ikhoản cho vay thì tính hiệu dụng năng động có giá trị. Điều này không đúng,
nhưng đối với hầu hết người dân ở Mỹ và ở một số nước phát triển khác, điều này có thể
gần sát. Đối với những người sống ở các thị trấn hay các nước nhỏ không có các thể chế
tài chính vững chắc, đó có thể không phải là một phép xấp xỉ hợp lý. Nghĩa là, tỷ lệ lãi
suất áp cho các khoản vay có thể cao hơn nhiều tỷ lệ lãi suất mọi người nhận được từ tiền
tiết kiệm của mình.
Trên thực tế, đối với các thể chế tài chính đang hoạt động, có thể đúng là POCR=ikhoản cho
vay > PRTP=itiền tiết kiệm.
(TQ hiệu đính: vì các thể chế tài chánh và ngân hàng kiếm lời,tỷ lệ lợi nhuận cho vay lớn
hơn tỷ lệ tiền tiết kiệm họ phải trả cho bà con. Trong những thành phố có nhiều thể chế
tài chánh cạnh tranh, thì hai tỷ lệ này sai biệt rất ít, như 6.5% và 5.7%. Còn ở những thị
trấn nhỏ, tỷ lệ mượn nợ thì cao, trong khi tỷ lệ tiền tiết kiệm thì quá thấy, hay không đáng
kể).
2. SRTP=PRTP hay không?
Có thể không. Nhìn chung, người ta cho rằng SRTP < PRTP
Chúng ta không quan tâm đúng mức đến các thế hệ tương lai.
Mọi người đều cận thị, thiếu kiên nhẫn một cách vô lý.
Nếu các thế hệ tương lai là "một hàng hoá công cộng", thì những thị trường tư nhân sẽ
cung cấp hàng hoá đó không đủ. (TQ hiệu đính: thế hệ tương lai không chỉ con ruột của
mình, mà là tất cả mọi người đồng lứa tuổi con của mình. Bao nhiêu người trong chúng ta
lo cho con nhà hàng xóm).
3. POCR=SOCR hay không?
Không nếu có thuế đánh vào lợi nhuận biên thu từ được việc bán các khoản đầu tư hay tài
sản. POCR là tỷ lệ sau thuế trong khi SOCR là tỷ lệ trước thuế, hay
POCR = (1-t)SOCR
Do đó POCR < SOCR
Kết quả của tất cả những điều này là chúng ta có thể kết luận rằng:
SRTP < PRTP < POCR < SOCR
Do vậy, vì SRTP nhỏ hơn SOCR, chúng ta có thể đang đầu tư/tiết kiệm quá ít.
Nếu bạn, vì một lý do nào đó, có tất cả những con số này, thì SRTP là tỷ lệ nên được áp
dụng để chiết khấu lợi nhuận ròng từ một dự án.
(TQ hiệu đính: PRTP là Tỷ Lệ Ưu Tiên Thời Gian Cá Nhân, và thường thì tỷ lệ này nhỏ
hơn Tỷ Lệ Chi Phí Cơ Hội Xã Hội ~ SOCR)
Nói chung, các tỷ lệ lãi suất thị trường (mà có thể bằng với các tỷ lệ chi phí cơ hội cá
nhân) sẽ quá cao. Điều này có nghĩa là các tỷ lệ đó sẽ chiết khấu tương lai quá nhiều,
hoặc gắn giá trị quá thấp cho các chi phí và lợi nhuận tương lai.
Các Thất Bại của Thị Trường Ngăn Cản Tính Hiệu Dụng Năng Động
Một loạt các thất bại của thị trường được chỉ rõ để phân biệt giữa hai tỷ lệ lãi suất dễ
thấy, POCR và PRTP cũng như giữa hai tỷ lệ khó nhận thấy hơn nhưng lại tồn tại về mặt
lý thuyết là SRTP và SOCR. Trong số những thất bại của thị trường này bao gồm:
1. Thuế đánh vào thu nhập doanh nghiệp
Thuế đánh vào thu nhập doanh nghiệp làm giảm mức lợi nhuận mà những cá nhân đi vay
có thể hoàn trả cho những nhà đầu tư của họ từ (như trình bày trong Hình 10.3) rz xuống
i.
2. Thuế đánh vào thu nhập từ tiền lãi hay đầu tư
Thuế đánh vào thu nhập từ tiền lãi hay đầu tư làm giảm lợi nhuận sau thuế của các cá
nhân thu được từ tiền tiết kiệm của họ từ i (là mức mà người đi vay đã trả sau khi đã đóng
thuế cho lợi nhuận của mình) xuống (như trình bày trong Hinh 10.3) pz.
3. Thiếu sự tham gia của các thế hệ tương lai
Do các thế hệ tương lai vẫn chưa thực sự bày tỏ bất kỳ quan điểm nào, nên chúng ta
không biết chúng muốn chúng ta đánh giá như thế nào mức tiêu dùng của chúng tương
ứng với mức tiêu dùng của chúng ta. Nếu chúng muốn mức tiêu dùng của mình được
đánh giá nhiều hơn mức hiện nay chúng ta đang làm, thì tác động sẽ là làm cho đường
cong đẳng dụng xã hội thẳng hơn, làm cho điểm tối ưu không phải là X mà là điểm gì đó
giống Y hơn.
4. Rủi Ro và Tính Bấp Bênh
Các dự án tư nhân phải hoàn trả lại một tỷ lệ phần trăm hơi cao hơn một chút cho các nhà
đầu tư của mình do một thực tế là có những rủi ro liên quan đến mỗi dự án. Xét từ góc độ
xã hội, có một số lượng đủ lớn những dự án đầu tư tiềm năng đối với rủi ro tránh được
hoàn toàn.
Để xem xét kỹ hơn các vấn đề tỷ lệ lãi suất, hãy xem xét biểu đồ dưới đây được trình bày
lại từ sách của Boardman et al. Cung và cầu ban đầu là D0 và S0, và chúng bị giảm xuống
là DI và SS do thuế đánh vào lợi nhuận doanh nghiệp và thu nhập tiền lãi. Tại điểm cân
bằng mới, tỷ suất lợi nhuận từ các khoản đầu tư của doanh nghiệp là rz trong khi tỷ lệ mà
các hộ gia đình nhận được từ tiền tiết kiệm là pz.
Một dự án của chính phủ cần khoản vay rất lớn sẽ làm tăng nhu cầu về tín dụng tới mức
DI' đồng thời kéo theo làm tăng tổng số tiền tín dụng trên thị trường. Cho vay chính phủ
được cấu thành bởi mức tăng về tiết kiệm của các hộ gia đình (tương đương với mức
giảm về tiết kiệm của các hộ gia đình) và mức giảm về đầu tư tư nhân. Mức tăng của tiết
kiệm hộ gia đình được định giá theo đường cong cung, S0, trong khi mức giảm về đầu tư
tư nhân được định giá theo tỷ lệ chi phí cơ hội cá nhân, rz.
Năm Giải Pháp Đề Xuất
Có năm giải pháp đối với các vấn đề nên áp dụng tỷ lệ chiết khấu nào được đề xuất trong
phần văn bản:
1. Sử dụng tỷ suất lợi nhuận trước thuế từ các khoản đầu tư cá nhân (rz)
• Nếu chính phủ dự định sắp huy động tiền cho một dự án, thì dự án đó nên làm tốt ít nhất
cũng bằng mức mà một dự án đầu tư khu vực tư nhân sẽ làm.
• Các tỷ lệ tư nhân bao gồm phí bảo hiểm rủi ro có thể không thích hợp trong bối cảnh
khu vực công cộng với số lượng đủ lớn các dự án có thể
• Tỷ lệ hiệu dụng ở đây là khoảng 8%
2. Sử dụng tỷ suất lợi nhuận sau thuế từ các khoản đầu tư cá nhân (pz)
• Đây là tỷ lệ mà tại đó các cá nhân thoả hiệp đổi cái này lấy cái kia giữa mức tiêu dùng
hiện tại và mức tiêu dùng tương lai, do đó có thể đó cũng là một tỷ lệ xã hội thích hợp.
• Tỷ lệ này khiến người ta hơi khó hiểu một chút do các cá nhân thực tế phải đối mặt với
hàng loạt các tỷ lệ lãi suất sau thuế.
• Các cá nhân hiện nay đang sống có thể không chú trọng nhiều lắm về phúc lợi của các
thế hệ tương lai
• Tỷ lệ hiệu dụng ở đây là khoảng 2%, mặc dù muốn phân tích độ nhạy tốt sẽ cần phải
cân nhắc các tỷ lệ từ 0% đến 4%.
3. Sử dụng tổ hợp rz, pz và tỷ lệ vay dài hạn i của chính phủ (khoảng 4%) trong đó mức
giảm về đầu tư được chiết khấu với tỷ lệ cao nhất là rz và mức giảm về tiêu dùng được
chiết khấu với tỷ lệ thấp hơn là pz.
• Tổ hợp này thật thú vị, nhưng có thể quá phức tạp để áp dụng thực sự
4. Sử dụng giá bóng của vốn
• Giá bóng của vốn[3] là giá trị của một đơn vị đầu tư vốn. Việc này mang lại một dòng
lợi nhuận rz lợi tức hưởng suốt đời mà giá trị hiện tại của nó, được chiết khấu với tỷ lệ pz
chính là giá bóng của vốn,
• Đây có vẻ gì đó là một phiên bản đơn giản hoá của giá bóng của vốn, và cuốn sách kết
thúc bằng việc gợi ý một giá trị bằng khoảng 2.
• Về cơ bản, để sử dụng giá này, hãy nhân các mức thay đổi của đầu tư khu vực tư nhân
phát sinh bởi dự án với giá bóng của vốn, cộng với các mức thay đổi của tiêu dùng cá
nhân và sau đó tính chiết khấu áp dụng tỷ lệ pz.
• Một lần nữa, giá này thực sự quá phức tạp để áp dụng.
5. Sử dụng các tỷ lệ chiết khấu theo thời gian giảm dần
• Đây là một gợi ý khá thực tế. Về cơ bản, bạn nên áp dụng tỷ lệ chiết khấu thấp hơn (có
thể bằng 0 hoặc thậm chí âm) để tính chiết khấu các năm xa nữa trong tương lai.
• Điều này cho phép bạn tránh được những kết quả lúng túng như một giá trị hiện tại
tương đối nhỏ gắn với sự huỷ diệt của thế giới sau này, ví dụ là 500 năm (ở mức 2%, hệ
số chiết khấu là 1.02-500=0.00005).
• Weitzman tìm thấy thang đối chiếu của
4% cho các năm từ 1 đến 5
3% cho các năm từ 6 đến 25
2% cho các năm từ 26 đến 75
1% cho các năm từ 76 đến 200
0% cho các năm từ 200 trở lên
Thực Tế
Trong thực tế, nếu bạn tiến hành các nghiên cứu chi phí - lợi nhuận trong một thế giới
thực, có thể bạn sẽ được cho một tỷ lệ chiết khấu để áp dụng mà có thể có hoặc không có
ý nghĩa gì cả. Dự án bạn đang phân tích có thể quá tốt hoặc quá tồi đến mức mà tỷ lệ áp
dụng để tính chiết khấu các chi phí và lợi nhuận tương lai có thể không tạo nên bất kỳ sự
khác biệt nào cả.
Nếu là như vậy, việc thử hàng loạt các tỷ lệ và báo cáo các kết quả thu được của bạn cho
tất cả sẽ giúp bất kỳ ai đọc báo cáo của bạn có ý niệm về các kết quả quả của bạn nhạy
cảm như thế nào đối với các thay đổi về tỷ lệ chiết khấu được áp dụng. Đây cũng là một
cách tốt để đánh giá tác giả của báo cáo có trách nhiệm đến mức nào.
Cuối cùng, cách đây một trăm năm, nhiều người dân ở nước Mỹ phải sống trong những
căn nhà với sàn nhà bẩn thỉu và không có hệ thống ống nước trong nhà. Cách đây năm
trăm năm, điều kiện sống thậm chí còn tồi tệ hơn thế nhiều. Nếu các bậc tiền bối tổ tiên
của chúng ta có cơ hội làm cho cuộc sống dễ chịu hơn một chút nào đó so với chúng ta,
và nếu tôi, với tư cách là một người dân thuộc về tương lai đầu thế kỷ 21 có điều gì để
nói về điều đó, tôi sẽ khuyến khích họ tiến lên và thực hiện ngay cơ hội này. (TQ hiệu
đính, chúng ta là thế hệ tương lai của các vị tiền bối, và đời sống của các vị tiền bối 100
trước rất là khó khăn, chúng ta không có quyền đòi hỏi các vị tiền bối phải nghĩ cho thế
hệ tương lai là chúng ta. Vậy thế hệ tương lai của chúng ta là bậc con cháu chúng ta, có
quyền đòi hỏi chúng ta hy sinh hay không???)
Các Kiểu PCC Khác Nhau
Phương thức đúng đắn để xác định xem nếu một dự án đáng để thực hiện là hãy nhìn vào
Giá Trị Ròng Hiện Tại NPV. Nếu bạn phải lựa chọn giữa hai hoặc nhiều hơn các dự án
độc quyền lẫn nhau, thì hãy lựa chọn dự án có NPV cao nhất.
Tuy nhiên cũng có những chỉ số khác. Đó là tỷ lệ chi phí/ lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận
nội hoàn.
Tỷ Lệ Chi Phí/ Lợi Nhuận (B/C):
Đây là giá trị hiện tại của lợi nhuận chia cho giá trị hiện tại của chi phí. Nếu B/C > 1, thì
dự án nên được thực hiện.
Tỷ Suất Lợi Nhuận Nội Hoàn (Internal Rate of Return ~ IRR):
Đây là tỷ lệ lãi suất mà khiến cho NPV=0. Tỷ suất lợi nhuận nội hoàn được so sánh với tỷ
lệ tới hạn i. Nếu IRR > i, thì dự án nên được thực hiện.
Trong khi NPV luôn cho những câu trả lời đúng, thì B/C và IRR lại không như vậy.
B/C sẽ xác định chính xác các dự án đáng để thực hiện, nhưng IRR sẽ chỉ làm được điều
này nếu dòng lợi nhuận ròng là thông thường, nghĩa là nếu lợi nhuận ròng bắt đầu âm và
sau đó chuyển sang dương và giữ ở mức dương.
Cả B/C và IRR sẽ không cần thiết phải lựa chọn chính xác trong số một vài các dự án độc
quyền lẫn nhau.
Các Vấn Đề Với B/C
1. Có thể được vận dụng bằng cách thay đổi các phân loại chi phí và lợi nhuận. Hơi ngẫu
nhiên khi coi một thứ gì đó là chi phí dương hoặc lợi nhuận âm và ngược lại. Việc thay
đổi này sẽ làm thay đổi B/C đã tính toán, nhưng sẽ không ảnh hưởng tới quyết định về
việc liệu dự án có đáng để thực hiện hay không. Điều này sẽ chỉ làm thay đổi các so sánh
giữa các dự án.
2. Quy mô tỷ lệ bị bỏ qua khi tính toán B/C, vì vậy bạn không thể nói gì nếu bạn đang tìm
kiếm một dự án lớn hay một dự án nhỏ.
VD:
Đập Nước Nhỏ Đập Nước Lớn Mức Nước Gia Tăng
Lợi nhuận (B) 1500 6500 5000
Chi phí (C) 1000 5000 4000
B-C 500 1500*
B/C 1.5* 1.3
Đập Nước Nhỏ có tỷ lệ chi phí/lợi nhuận cao hơn, nhưng Đập Nước Lớn lại có giá trị
hiện tại ròng lớn hơn.
Cách B/C sẽ lựa chọn Đập Nước Nhỏ, mặc dù nó tạo ra tỷ lệ lợi nhuận ròng nhiều hơn và
là dự án đáng thực hiện hơn.
Tại sao B/C được áp dụng thường xuyên như vậy?
1. Nó có thể giúp bạn có khái niệm hiểu về biên sai số (margin error) có ý nghĩa quan
trọng đối với quyết định ...
Dự án 1 Dự án 2
Lợi nhuận 2 1,000,000,002
Chi phí 1 1,000,000,000
Giá trị Hiện tại Ròng 1 2
B/C 2 1.000000002
Vì vậy B/C đem lại cho bạn cảm nhận về ý nghĩa quan trọng của biên sai số. Một biên sai
số nhỏ trong Dự án 2 (chi phí cao hơn một chút hoặc lợi nhuận nhỏ hơn một chút) có thể
khiến nó là một dự án tồi.
2. Đồng thời, các kỹ sư thích những con số phi đo lường và B/C không sự đo lường. Nó
không được thể hiện bằng đồng đôla hay bảng Anh hay bất kỳ cái gì tương tự. Nó đơn
giản chỉ là một con số thô.
Tỷ Suất Lợi Nhuận Nội Hoàn
IRR là tỷ lệ chiết khấu mà làm cho Giá trị Hiện tại Ròng NPV = 0
VD: Hãy tìm giá trị r.
r = 0.16 (xấp xỉ)
Một công cụ hữu ích nên sử dụng để làm bài toán dạng này là chọn Microsoft Excel's
Tools/GoalSeek.
Các Vấn Đề Với IRR
1. Sẽ chỉ xác định liệu một dự án có đáng để thực hiện nếu dòng lợi nhuận ròng là thông
thường truyền thống.
VD: Hãy xem xét một dự án tạo ra lợi nhuận ngay bây giờ và phát sinh ra chi phí về sau
này.
Lợi nhuận Ròng trong Năm 0 = 1000, Lợi nhuận Ròng trong Năm 1 = -1100.
IRR = 10%
Nếu IRR > i thì đây là dự án nên được thực hiện
Nếu i=0.01 (1%) Giá trị Hiện tại Ròng NPV là âm, thâm chí dù IRR > i.
Tuy nhiên, trong trường hợp này, IRR lớn hơn i=0.01 và do vậy, nó cho kết quả sai.
2. Nó không có quy mô tỷ lệ. Nó không cho phép bạn nói bất kỳ điều gì về dự án lớn đến
mức nào.
3. IRR có thể cho nhiều hơn một kết quả nếu dòng lợi nhuận là không thông thường ...
VD:
Năm 0 1 2
Lợi nhuận ròng -1 5 -6
hàm ý rằng hoặc r=1.00 hoặc r=2.00.
4. Khi lựa chọn giữa hai dự án, IRR thậm chí không cho bạn kết quả đúng.
Hãy xem xét hai dự án độc quyền lẫn nhau, A và B. Mỗi dự án có một số chi phí ban đầu
và lợi nhuận tương lai, và kết quả là, Giá Trị Hiện Tại Ròng NPV của mỗi dự án này sẽ
giảm khi tỷ lệ chiết khấu áp dụng tăng.
Chúng ta có thể tưởng tượng biểu đồ NPV của hai dự án này được biểu diễn như một
hàm tỷ lệ chiết khấu áp dụng:
Việc IRR của dự án A nhỏ hơn IRR của dự án B là không liên quan. Dự án nào được ưu
đãi hơn tuỳ thuộc vào tỷ lệ lãi suất áp dụng để tính toán NPV. Với các tỷ lệ thấp hơn, dự
án A là tốt hơn trong khi với các tỷ lệ cao hơn thì dự án B là tốt hơn.
Xem Xét Các Loại Lợi Nhuận
Một xem xét bổ sung là, nếu tính hiệu dụng năng động không đạt được, thì giá trị biên
mức tiêu dùng của xã hội có thể nhỏ hơn giá trị biên mức đầu tư. Về bản chất, nếu có ý
kiến mạnh mẽ rằng chi phí hay lợi nhuận có thể bị lệch so với mức tiêu dùng hay mức
đầu tư, thì đáng để đo những giá trị này khác nhau và thay đổi trong tính toán Giá Trị
Hiện Tại Ròng NPV.
Ví dụ, nếu người ta cho rằng mức đầu tư bổ sung có giá trị 20% nhiều hơn mức tiêu dùng
bổ sung, thì bất kỳ lợi nhuận hay chi phí nào làm tăng hoặc giảm mức đầu tư sẽ được đo
là 20% nặng hơn so với những lợi nhuận hay chi phí làm ảnh hưởng đến mức tiêu dùng.
Câu hỏi: Phương trình 6A.7 (trang 147) cho rằng, "Nếu lợi nhuận ban đầu B1 tăng vô hạn
định với một tỷ lệ cố định g và nếu tỷ lệ lãi suất bằng i, thì PV (giá trị hiện tại) được tính
bằng … ":
if i>g
Giá trị hiện tại là bao nhiêu nếu i < g ?
Tính Trung Bình Hàng Năm[4]
Một phương án thay thế để tính toán giá trị hiện tại ròng của một dự án là tính toán lợi
nhuận ròng trung bình hàng năm. Bí quyết của việc này là tìm hiểu luận ra cách phân bổ
như thế nào các chi phí ban đầu (chi phí khởi động hay chi phí ban đầu để thi công một
dự án) qua một số năm. Cách làm này cũng tương tự như cách tìm giá trị hiện tại, nhưng
có một vấn đề cố hữu về độ dài thời gian mà qua đó các chi phí khởi động sẽ được tính
theo hàng năm. Nếu bạn có thể sử dụng đầu vào ban đầu trong thời gian càng dài, thì giá
trị hiện tại ròng của dự án có thể càng cao
Tính trung bình theo hàng năm cũng được áp dụng rất nhiều trong trường hợp các chi phí
của dự án biến đổi qua một năm. Nếu mỗi năm dự án cần thiết phải thực hiện lại dự án,
thì đơn giản chỉ cần nhìn vào chi phí và lợi nhuận trong một năm là cách tiếp cận hợp lý
có cơ sở để phân tích dự án.
[1] Rate of Time Preference
[2] non-negative rate
[3] shadow price of capital
[4] Annualization
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tổng kết hợp về thời gian.pdf