Đề tài Rèn luyện kỹ năng tự học cho sinh viên đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ
- Rèn luyện cho sinh viên thói quen viết nhật ký học tập, qua đó, sinh viên có thể nói lên những suy nghĩ về những điều mình đã đọc, đã vận dụng những điều đã học vào thực tế dạy học và cuộc sống như thế nào, giới thiệu cho bạn bè những tài liệu tham khảo mình thấy tâm đắc nhất hoặc những điều thu thập được những gì qua các cuộc trao đổi, thảo luận.
8 trang |
Chia sẻ: chaien | Lượt xem: 3095 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Rèn luyện kỹ năng tự học cho sinh viên đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
RÈN LUYỆN KỸ NĂNG TỰ HỌC CHO SINH VIÊN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ
Tự học là yếu tố quyết định chất lượng học tập, chất lượng đào tạo. Nó là con đường tối ưu để sớm đưa sự nghiệp giáo dục và nền kinh tế nước ta tiến kịp các nước trong khu vực và trên thế giới. Thực tế giảng dạy cho thấy dù giáo viên có dạy giỏi, có kiến thức sâu rộng và trình độ nghiệp vụ vững vàng đến mấy, nếu sinh viên (SV) không chịu khó học tập, đào sâu nghiên cứu, mở rộng thêm kiến thức bằng cách học tập độc lập thì chất lượng học tập cũng không thể cao. Trong điều kiện học tập ở nhà trường như nhau nhưng kết quả học tập của sinh viên khác nhau rõ rệt, điều đó phần lớn là do khả năng tự học của mỗi sinh viên. Vì vậy, cách thức rèn luyện kỹ năng (KN) tự học cho sinh viên được đề cập trong bài báo này sẽ góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) và nâng cao chất lượng đào tạo theo học chế tín chỉ.
1. Kỹ năng tự học
Bản thân mỗi cá nhân đều tiềm ẩn một khả năng tự học, khả năng đó được tăng cường hay không là nhờ vào cách thức học tập của họ. Lối học nhồi nhét sẽ làm người học thui chột khả năng tự học; trái lại, lối học tự tìm tòi, nghiên cứu, chú trọng sự phát triển óc tư duy, vận dụng những điều đã học vào thực tế cuộc sống...sẽ tăng cường khả năng tự học. Như vậy, cách học có tác dụng rõ ràng đến việc phát triển năng lực tự học. Với lối dạy - tự học, mức độ, đặc điểm hành động của người học quyết đến hiệu quả học tập. Hiệu quả của các hành động học tập tự học cao hay thấp tùy thuộc vào kỹ năng thực hiện các hành động đó. Vì vậy việc hình thành kỹ năng trong học tập có vai trò rất quan trọng trong quá trình dạy - tự học. Một số tác giả đã phân các kỹ năng tự học ra làm hai nhóm chính:
* Nhóm kỹ năng chuyên môn khoa học:
- Kỹ năng chọn lọc, sử dụng kiến thức đã có để hình thành kiến thức mới;
- Kỹ năng đọc sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu tham khảo;
- Kỹ năng ghi chép trên lớp;
- Kỹ năng khai thác kiến thức từ các phương tiện học tập;
- Kỹ năng giải quyết các bài tập nhận thức;
- Kỹ năng hình thành và giải quyết vấn đề;
- Kỹ năng lập kế hoạch tự học.
* Nhóm kỹ năng sư phạm:
- Kỹ năng làm việc trên lớp (kỹ năng nói, kỹ năng trình bày vấn đề, kỹ năng hướng dẫn, kỹ năng tổ chức, kỹ năng viết vẽ trên bảng...);
- Kỹ năng soạn giáo án;
- Kỹ năng tự kiểm tra đánh giá.
Có nhiều kỹ năng tự học cần được rèn luyện cho sinh viên hiện nay, bài báo này chỉ đề cập đến một số kỹ năng cơ bản.
2. Một số kỹ năng tự học cần thiết cho sinh viên
1) Kỹ năng xây dựng kế hoạch tự học
Lập kế hoạch tự học là việc xây kế hoạch cho những hoạt động cụ thể nhằm thực hiện được các nhiệm vụ mà mục tiêu đề ra. Mỗi cá nhân khi xây dựng kế hoạch học tập cụ thể cần phải hiểu rõ mục tiêu và tính toán những bước đi thích hợp. Khi lập kế hoạch cần phải suy nghĩ về những gì sẽ làm, chuẩn bị tốt nhất để đạt được hiệu quả học tập cao và phải đặt câu hỏi là tại sao chúng ta phải làm như thế. Đây chính là quá trình lập kế hoạch học tập, là quá trình lập học cách học, mỗi cá nhân phải tính toán cách thức và thời gian để hoàn thành các công việc. Hiện nay, đa số sinh viên thực hiện các nhiệm vụ học tập còn mang tính tùy tiện, gặp đâu học đó, chưa hình dung được toàn bộ công việc mình đang và sẽ làm như thế nào. Trong khi đó một khối lượng công việc lớn mà sinh viên phải hoàn thành lại chỉ thực hiện trong một thời gian hạn chế. Vì vậy người học cần phải sử dụng thời gian một cách tiết kiệm và hiệu quả, bằng cách phân phối công việc một cách khoa học, đặc biệt chú ý đến thời gian tự học.
Ở đây chúng tôi không đề cập đến kế hoạch tự học cho từng học kỳ, từng tháng hay từng tuần mà chỉ chú ý đến kế hoạch tự học cho từng nội dung cụ thể trong một học phần. Để sinh viên có thể lập được kế hoạch học tập cho những hoạt động cụ thể thì giảng viên phải cung cấp một bảng kế hoạch giảng dạy cụ thể cho mỗi học phần. Sinh viên dựa vào đó để định ra các công việc mình sẽ làm trong thời gian bao lâu và làm như thế nào. Việc đặt kế hoạch cần chú ý cả những kế hoạch hoạt động trên lớp và cả những hoạt động của sinh viên ngoài lớp (xem bảng) hướng dẫn đặt kế hoạch cho hoạt động học tập.
Mẫu kế hoạch hoạt động học tập
Nội dung Mục tiêu Nhiệm vụ/ Bài tập Hoạt động cụ thể Thời gian
1.
2.
3.
.
2) Kỹ năng đọc giáo trình, tài liệu tham khảo
Để việc đọc sách có chất lượng và hiệu quả, cần đọc theo một quy trình nhất định, nếu không chúng ta sẽ mất thời gian mà không thu được nhiều kết quả và không lưu giữ được những thông tin cần thiết. Vì vậy, việc đọc sách cần được thực hiện nghiêm túc và tuân theo các yêu cầu sau:
Đọc có suy nghĩ
Muốn hiểu những điều sách viết, người đọc phải hết sức tập trung tư tưởng khi đọc, nhiều khi còn phải ngưng lại để ôn những đoạn cần biết, chưa nắm vững, đến khi thông suốt rồi mới đọc tiếp.
Đọc sách để hiểu những điều tác giả nói và cả những điều tác giả không nói, mà người đọc tự suy nghĩ, mở rộng đến những điều liên quan mà sách không đề cập đến. Ở mức độ này, người đọc không chỉ tiếp thu kiến thức từ sách mà còn rèn luyện được phương pháp tư duy.
Khi đọc và suy nghĩ mãi nhưng vẫn không hiểu được những gì sách viết, thì phải tìm và đọc những sách khác có liên quan. Bởi lẽ, đôi khi cùng một kiến thức nhưng với cách diễn giải của tác giả này ta chưa hiểu nhưng với cách trình bày khác ở sách khác ta có thể hiểu được. Đọc nhiều sách cũng giống như đàm đạo giúp chúng ta hiểu sâu thêm vấn đề, làm phong phú thêm vốn kiến thức.
Đọc có hệ thống
Khi đọc bất kỳ cuốn sách nào, người ta thường đọc theo các bước sau:
- Đọc lướt nhanh toàn bộ phần tổng quát của sách để nắm sơ bộ nội dung cuốn sách;
- Đọc kỹ, tùy theo mục đích đọc mà có thể đọc kỹ một lần hoặc nhiều lần. Khi đọc kỹ các lần sau, chỉ cần đọc lại những điều cơ bản hoặc các nội dung mà lần đầu chưa hiểu, chưa nắm vững. Những lần đọc sau sẽ làm người đọc nắm sâu hơn, hiểu kỹ hơn;
- Đọc nhanh, cần tự rèn luyện cách đọc nhanh để tập trung được sự chú ý, sự suy nghĩ diễn ra liên tục và dễ dàng xác lập được mối quan hệ giữa các đoạn với nhau khiến ta dễ nắm được nội dung tài liệu.
Đọc có chọn lọc
Đọc có chọn lọc là đọc để tìm những điểm cốt lõi, chọn ý tưởng hay nhất, đúng nhất và có ích cho việc học sẽ rèn được tư duy phê phán, làm tiền đề cho năng lực giải quyết vấn đề sau này. Để rèn luyện kỹ năng đọc có chọn lọc, giảng viên nên yêu cầu sinh viên tự đặt câu hỏi cho những nội dung cơ bản của những tài liệu đã đọc; cố gắng tổng hợp và giải thích những gì họ đã đọc. Sinh viên phải hết sức tập trung suy nghĩ và phải tinh lọc được những kiến thức cơ bản cần thiết cho mình, đồng thời nêu được các vấn đề cũng như giải quyết được những vấn đề mà tài liệu đề cập.
Đọc có ghi nhớ
- Đọc sách là học tập tích cực nên cần kèm theo việc ghi chép để nhớ lâu;
- Đọc để tìm tài liệu bổ sung, cần ghi chép phần bổ sung đó ra, đồng thời đánh dấu để tra cứu khu cần thiết;
- Đọc sách hoặc tài liệu giáo khoa cần ghi các dàn ý và diễn tiến nội dung. Các ý chính cần ghi chép cẩn thận, gạch chân hoặc tô màu vì đó là ý cơ bản mà từ đó có thể suy luận ra các ý khác liên quan. Những phần chưa hiểu hoặc chưa nắm vững cũng cần đánh dấu để tiếp tục suy nghĩ, tìm người giải đáp.
Một biện pháp đọc để nhớ lâu là mô hình hóa các nội dung đã đọc bằng cách sắp xếp chúng theo bản đồ trí tuệ (mind map). Khi xây dựng được bản đồ trí tuệ có nghĩa là chúng ta đã hệ thống hóa toàn bộ nội dung đã đọc và giải thích được mối liên hệ giữa chúng với nhau.
3) Kỹ năng chọn lọc, sử dụng vốn kiến thức cũ để học kiến thức mới
Muốn nhận thức kiến thức mới có hiệu quả bắt buộc phải liên hệ các kiến thức cũ, các kiến thức khoa học liên ngành khác làm cơ sở cho hoạt động tư duy của sinh viên. Kỹ năng này thúc đẩy quá trình nhận thức kiến thức mới cũng như việc tự học của sinh viên.
Để làm được điều này, có thể tiến hành theo các cách sau:
- Khi học các kiến thức mới cần phải tái hiện những kiến thức cũ có liên quan để làm sáng tỏ các kiến thức mới;
- Kiến thức cũ có thể là những tình huống giáo dục thường gặp trong thực tế đã nhận biết được. Dùng kiến thức này để chứng minh cho các kiến thức mới đang lĩnh hội;
- Dùng kiến thức có trước kết hợp với các kiến thức mới tiếp theo để hình thành những vấn đề nghiên cứu và giải quyết những vấn đề đó.
***
Trong quá trình hình thành và nâng cao năng lực tự học cho sinh viên, vai trò của người thầy là rất quan trọng. Mỗi giảng viên phải có ý thức trách nhiệm cao trong việc đào tạo thế hệ trẻ và cần lưu ý các điểm sau:
- Giáo dục cho sinh viên xác định động cơ học tập một cách đúng đắn;
- Hình thành phương pháp tự học là khâu cốt lõi để tạo nền tảng cho năng lực tự học. Muốn vậy, giảng viên cần phải đổi mới phương pháp dạy học, xem tự học như là một tiêu chí hàng đầu trong quá trình đào tạo;
- Tăng cường các hình thức dạy học nhóm, trao đổi thảo luận, nêu lên chính kiến của mình... Muốn đạt được điều này buộc sinh viên phải nghiên cứu tài liệu, phân tích, mổ xẻ các vấn đề trên nhiều khía cạnh khác nhau để có thể tham gia đóng góp hoặc tranh luận để bảo vệ ý kiến của mình;
- Tự học được thực hiện cả trên lớp và ngoài giờ lên lớp có hoặc không có sự hướng dẫn của giảng viên. Quá trình tự học được tiến hành bằng nhiều phương tiện khác nhau, đặc biệt là các phương tiện công nghệ thông tin sẽ tạo điều kiện cho quá trình tự học và tạo nên chất lượng tự học cao;
- Giảng viên cần đề ra kế hoạch dạy học cụ thể toàn bộ học phần (hoặc từng chương), cung cấp trước cho sinh viên nghiên cứu để biết mình sẽ làm gì và làm như thế nào trong quá trình học tập bộ môn. Đây cũng là cơ sở để định hướng cho sinh viên vạch ra kế hoạch tự học cá nhân. Kế hoạch dạy học một học phần cụ thể của giảng viên gồm có 3 phần: nội dung, mục tiêu cần đạt được sau mỗi nội dung và cách thức làm việc của sinh viên để đạt được những mục tiêu cần thiết. Để có ý tưởng xây dựng kế hoạch dạy học của học phần, chúng tôi đã dựa trên phương pháp CIA (Content - Idea - Action);
- Rèn luyện cho sinh viên thói quen viết nhật ký học tập, qua đó, sinh viên có thể nói lên những suy nghĩ về những điều mình đã đọc, đã vận dụng những điều đã học vào thực tế dạy học và cuộc sống như thế nào, giới thiệu cho bạn bè những tài liệu tham khảo mình thấy tâm đắc nhất hoặc những điều thu thập được những gì qua các cuộc trao đổi, thảo luận.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Trung Quỳnh, “Nghiên cứu các kỹ năng và biện pháp tự học của sinh viên ĐH Sư phạm Thái Nguyên” (Đề tài NCKH cấp Bộ quản lý), 2001.
2. Nguyễn Khánh Tùng, “Tự học, tự nghiên cứu là con đường phát triển học vấn, nhân cách vững chắc bền lâu nhất” ĐHSP Huế, 1998.
3. Tạp chí khoa học giới thiệu “Học sinh nên đọc sách như thế nào?”, Tự học (19), tr. 24-25, 29.
4. Wilbert J. McKeachie, Những thủ thuật trong dạy học, 2003.
Bài đã đăng trên “Tạp chí Giáo dục” (Tạp chí lý luận – khoa học * Bộ GD&ĐT) Số đặc biệt 3/2012
ThS. Nguyễn Thị Xuân Thuỷ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ren_luyen_ky_nang_tu_hoc_cho_sinh_vien_dap_ung_yeu_cau_dao_tao_theo_hoc_che_tin_chi_3268.docx