A. ĐẶT VẤN ĐỀ Chế định quyền thừa kế là một trong những chế định pháp luật chiếm vị trí quan trọng trong luật dân sự Việt Nam, bao gồm các quy phạm pháp luật quy định về trình tự, thủ tục chuyển dịch tài sản của người chết sang cho người thừa kế. Như bất kỳ chế định pháp luật riêng khác, chế định quyền thừa kế được pháp luật dân sự ghi nhận và bảo hộ trong mối quan hệ với các chế định pháp luật khác và đặc biệt chịu sự điều chỉnh bởi những nguyên tắc chung của Luật Dân sự.
16 trang |
Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 5107 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ thừa kế theo quy định của pháp luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chế định quyền thừa kế là một trong những chế định pháp luật chiếm vị trí quan trọng trong luật dân sự Việt Nam, bao gồm các quy phạm pháp luật quy định về trình tự, thủ tục chuyển dịch tài sản của người chết sang cho người thừa kế. Như bất kỳ chế định pháp luật riêng khác, chế định quyền thừa kế được pháp luật dân sự ghi nhận và bảo hộ trong mối quan hệ với các chế định pháp luật khác và đặc biệt chịu sự điều chỉnh bởi những nguyên tắc chung của Luật Dân sự.
Quyền thừa kế của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay không ngừng được củng cố, mở rộng và được bảo vệ theo các nguyên tắc nhất quán là tôn trọng ý chí của công dân trong việc định đoạt tài sản cho người thừa kế và ý chí của những người thừa kế trong việc nhận hay không nhận di sản, bảo đảm quyền bình đẳng của những người thừa kế trong hàng được hưởng di sản theo pháp luật không có sự phân biệt giới tính, già trẻ, có năng lực hành vi dân sự hay không có năng lực hành vi dân sự.
Để góp phần giúp các bạn hiểu rõ hơn về các quy định của pháp luật về thừa kế ở nước ta, chúng ta sẽ đi tìm hiểu đề tài : “Phân tích nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ thừa kế theo quy định của pháp luật”.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Cơ sở lý luận
1. Sự phát triển của chế định thừa kế
Chế định thừa kế ở Việt Nam đã được điều chỉnh từ thời phong kiến Việt Nam qua các bộ luật, chiếu, chỉ dụ, lệnh của vua…, đặc biệt là Bộ luật Hồng Đức (1483) và Bộ luật Gia Long (1815).
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, để đảm bảo cho các quan hệ xã hội về dân sự phát triển bình thường, Nhà nước cần phải có hệ thống pháp luật. Do đó, ngày 22/5/1950 Hồ Chủ tịch đã ký Sắc lệnh 97/SL. Riêng trong lĩnh vực thừa kế đã quy định vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau; con trai, con gái đều có quyền thừa kế di sản của cha, mẹ; chồng góa, vợ góa, các con đã thành niên có quyền xin chia di sản; con, cháu hoặc vợ góa, chồng góa không bắt buộc phải nhận thừa kế của người đã chết; các chủ nợ của người đã chết không có quyền đòi người thừa kế phải thanh toán nợ quá phần di sản mà người đó nhận được.
Để đáp ứng yêu cầu của công tác xét xử trong phạm vi chức năng do Luật tổ chức Tòa án quy định. Tòa án nhân dân tối cao ra nhiều Thông tư hướng dẫn. Thông tư Số 549 NCPL ngày 27/8/1968 hướng dẫn đường lối xét xử các việc tranh chấp về thừa kế; Thông tư Số 02 TATC ngày 02/8/1973 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế di sản liệt sỹ…
Thông tư 81 ngày 24/7/1981 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế (Di sản thừa kế, thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật,…) của Tòa án nhân dân tối cao là một văn bản tương đối hoàn chỉnh về các quy phạm liên quan đến quyền thừa kế.
Tiếp đó, Luật hôn nhân và gia đình ban hành năm 1986 đã quy định một số điều liên quan đến quyền thừa kế của vợ, chồng (Điều 14, 16, 17,…).
Ngày 30/8/1990, Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã thông qua Pháp lệnh Thừa kế.
Thừa kế được quy định tại Phần thứ tư BLDS năm 1995 đã kế thừa hầu hết các quy định của Pháp lệnh về thừa kế 1990. Ngoài ra có bổ sung một số vấn đề mới trong lĩnh vực thừa kế, đặc biệt là việc thừa kế quyền sử dụng đất của cá nhân và thành viên của hộ gia đình.
Phần thứ tư BLDS 2005 về cơ bản vẫn giữ nguyên như trong quy định BLDS năm 1995 và có một số thay đổi nhỏ để khắc phục vướng mắc không phù hợp với thực tế trong quá trình giải quyết tranh chấp về thừa kế trong 10 năm áp dụng vừa qua.
2. Khái niệm thừa kế và quyền thừa kế
Thừa kế là sự chuyển quyền sở hữu đối với di sản của người chết theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật. Việc công nhận quyền sở hữu và quyền thừa kế của cá nhân đối với tài sản, coi thừa kế là một căn cứ xác lập quyền sở hữu không chỉ kích thích tính tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng mà còn kích thích sự quản lí năng động của mỗi người; tạo ra sự thi đua thầm lặng của mỗi cá nhân nhằm nhân khối tài sản của mình lên bằng sức lực và khả năng sáng tạo mà họ có, chỉ khi đó quyền sở hữu và quyền thừa kế mới trở thành một trong những động lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội.
Quyền thừa kế của cá nhân là quyền để lại di sản của mình cho người khác hoặc hưởng di sản của người khác theo di chúc hay theo pháp luật. Ngoài ra, dưới góc độ khoa học pháp lý, quyền thừa kế còn được hiểu là một quan hệ pháp luật dân sự. Quan hệ pháp luật dân sự về thừa kế là quan hệ thừa kế được các quy phạm pháp luật dân sự điều chỉnh. Quan hệ này cũng bao gồm chủ thể, khách thể và nội dung. Quan hệ thừa kế là quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh được xác định là một quan hệ tuyệt đối giống quan hệ sở hữu, trong đó chỉ xác định được một bên chủ thể mang quyền là người để lại di sản hoặc những
người thừa kế còn các chủ thể khác là những người phải có nghĩa vụ tôn trọng quyền để lại di sản thừa kế và quyền hưởng di sản thừa kế của họ.
3. Nguyên tắc pháp luật thừa kế
Những nguyên tắc pháp luật thừa kế ở Việt Nam được áp dụng chung cho cả hai hình thức thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật đã xuất hiện ngay từ khi có những văn bản pháp luật đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Dựa trên những nguyên tắc về quyền dân sự cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp năm 1946, Sắc lệnh số 97-SL ngày 22/5/1950 đã quy định những nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”. Nguyên tắc này được coi như định hướng chủ đạo trong việc xây dựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự nói chung và quan hệ thừa kế tài sản nói riêng trong các văn bản pháp luật sau này.
Những nguyên tắc pháp luật thừa kế đã thể hiện rõ bản chất và những đặc trưng pháp luật về thừa kế ở nước ta, vì vậy từ năm 1945 đến nay, nhìn chung, những nguyên tắc đó không thay đổi. Những nguyên tắc pháp luật về thừa kế ở Việt Nam có thể kể đến cụ thể như sau:
Nguyên tắc tôn trọng ý chí của người có quyền thừa kế
Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân về thừa kế
Nguyên tắc cá nhân người thừa kế phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế.
Nguyên tắc người thừa kế có các quyền và nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại.
Tuy nhiên, là một chế định điều chỉnh quan hệ đặc thù là quan hệ dịch chuyển tài sản trong xã hội từ người chết cho những người còn sống nên chế định về quyền thừa kế vẫn còn tồn tại những đặc thù riêng như:
- Quan hệ thừa kế là một trong những quan hệ xã hội chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi phong tục, tập quán và truyền thống đạo đức về vai trò và quyền, nghĩa vụ để lại di sản hoặc thụ hưởng di sản của nam, nữ trong thừa kế tài sản giữa các thế hệ trong gia đình;
- Quan niệm truyền thống trong xã hội Việt Nam thường có sự ưu ái hơn về quyền quyết định di sản và thụ hưởng di sản thừa kế của nguời nam giới (người cha, người chồng, nguời con trai hoặc các thành viên nam khác trong dòng họ và gia đình), còn người nữ giới (người mẹ, nguời vợ, con gái hoặc các thành viên nữ khác trong gia đình, dòng họ) thường có sự yếu thế hơn về vấn đề này;
- Sự bình đẳng nam, nữ trong thừa kế không chỉ chịu sự phụ thuộc vào định kiến xã hội mà còn phụ thuộc rất nhiều vào quan điểm của nhà làm luật dưới mỗi chế độ xã hội. Thực tiễn pháp lý đã chứng minh, không phải pháp luật của Nhà nước nào cũng công nhận và bảo hộ sự bình đẳng giữa nam và nữ về thừa kế.
- Pháp luật Việt Nam về thừa kế trải qua các giai đoạn phát triển của đất nứơc đã có những minh chứng rất rõ nét về vấn đề bình đẳng giới trong thừa kế:
+ Pháp luật dưới chế độ cũ luôn có những quy định bảo vệ quyền lợi của người đàn ông trong các quan hệ xã hội và quan hệ gia đình.
+ Pháp luật của Nhà nước ta quy định về thừa kế dựa trên nguyên tắc bình đẳng không phân biệt đối xử giữa những người thừa kế, trong đó chú trọng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của những người yếu thế hoặc những người có quan hệ gắn bó chặt chẽ, gần gũi về dòng máu, quan hệ tình cảm và đạo đức.
II. Phân tích nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ thừa kế theo quy định của pháp luật
1. Nội dung của nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ thừa kế theo quy định của pháp luật
Ngay từ khi ban hành Pháp lệnh thừa kế năm 1990 và đặc biệt là tại Bộ luật dân sự năm 1995 - Bộ luật dân sự đầu tiên của Việt Nam đều đã quy định rõ quyền thừa kế của cá nhân là: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản riêng của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật” (Điều 634 BLDS năm 1995 và Điều 631 BLDS năm 2005). Thừa kế là sự chuyển dịch quyền sở hữu bằng hai phương thức khác nhau: Thứ nhất là sự định đoạt theo ý nguyện cuối cùng của người để lại thừa kế theo di chúc; thứ hai là theo quy định của pháp luật. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật đều được pháp luật bảo đảm cho việc hưởng di sản của người chết để lại. Đồng thời, pháp luật Việt Nam cũng công nhận “Mỗi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật” (Điều 632 BLDS năm 2005). Điều đó có nghĩa là :
- Vợ, chồng đều có thể lập di chúc phân chia tài sản thuộc quyền sở hữu của mình
Vợ chồng đều có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung
Nếu vợ, chồng đã lập di chúc chung mà một trong hai bên muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia.
Vợ chồng đều được thừa kế tài sản của nhau
Phụ nữ và nam giới đều hưởng thừa kế ngang nhau theo quy định của pháp luật
Ông bà nội, ngoại đều được hưởng thừa kế của cháu nội, hoặc cháu ngoại ...
Các con trong gia đình được hưởng di sản theo pháp luật là ngang nhau, không phân biệt nam, nữ, độ tuổi, giới tính, tình trạng trí tuệ, có năng lực hành vi dân sự hay không có năng lực hành vi dân sự, con trong giá thú, con ngoài giá thú đều được thừa kế những phần ngang nhau, nếu được hưởng thừa kế theo pháp luật.
Pháp luật còn quy định con nuôi có các quyền và nghĩa vụ như con đẻ trong việc nhận di sản thừa kế.
- Người thừa kế có quyền hưởng di sản không phân biệt độ tuổi.
Các con và vợ chồng được hưởng thừa kế bằng nhau (quan hệ huyết thống được đặt ngang hàng với quan hệ hôn nhân).
Quyền bình đẳng về thừa kế của cá nhân được quy định ở Điều 632, BLDS năm 2005 là sự cụ thể hoá một phần các nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp được Điều 52 Hiến pháp năm 1992 ghi nhận “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” và Điều 5, BLDS năm 2005: “Trong quan hệ dân sự, các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng với nhau”. Đó là sự bình đẳng giữa các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự khi xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự.
Theo quy định của pháp luật thì mọi cá nhân với tư cách là chủ sở hữu đều có quyền định đoạt tài sản theo ý chí của mình. Vì vậy, mọi cá nhân, không phân biệt giới tính, dân tộc, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tôn giáo... đều có quyền lập di chúc để chỉ định người thừa kế của mình sau khi mình chết hoặc để lại tài sản của mình cho người khác theo quy định của pháp luật đồng thời đều bình đẳng về quyền hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật. Nội dung của nguyên tắc này đã được thể hiện rõ nét ở cả chế định thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Theo đó, đối với thừa kế theo di chúc thì bất kì ai được chỉ định trong di chúc thì đều có thể trở thành người thừa kế của người chết. Còn đối với thừa kế theo pháp luật thì người thừa kế là con trai hay con gái, con đẻ hay con nuôi, con trong giá thú hay con ngoài giá thú... thì đều được hưởng thừa kế ngang nhau.
Nguyên tắc bình đẳng về quyền thừa kế của pháp luật Việt Nam thể hiện sự tiến bộ vượt bậc so với quy định của pháp luật trước kia. Dưới thời Pháp thuộc, sự bất bình đẳng giữa nam và nữ thể hiện ở sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ thừa kế như sau:
- Trong gia đình, chồng được coi là gia trưởng nên Điều 321, Dân luật Bắc kỳ và Điều 313, Dân luật Trung kỳ quy định vợ không có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản riêng của mình nếu không được chồng đồng ý. Điều 113, Dân luật Bắc kỳ và Điều 111, Dân luật Trung kỳ cũng quy định khi vợ chết trước, người chồng trở thành chủ sở hữu duy nhất tất cả tài sản chung trong đó có cả phần của vợ. Trái lại, nếu người chồng chết, người vợ chỉ có quyền hưởng dụng tài sản riêng của chồng khi không còn người thừa kế nào bên nội, ngoại của chồng (Điều 346, Dân luật Bắc kỳ và Điều 341, Dân luật Trung kỳ). Gia đình và dòng họ của người chồng vẫn là cơ sở chính để xác định việc thừa kế, còn quan hệ hôn nhân chỉ được coi là thứ yếu. Do coi trọng quan hệ huyết thống, pháp luật thừa kế thời thực dân, phong kiến đã chỉ chú ý đến quyền bình đẳng của các con trong việc hưởng di sản thừa kế của cha, mẹ.
- Nếu người vợ goá tái giá, thì tài sản riêng của chồng phải trả lại nhà chồng, tài sản riêng của vợ thì được mang theo đi, còn tài sản chung của vợ chồng phải để lại cho con (Điều 360 Dân luật Bắc kỳ và Điều 359 Dân luật Trung kỳ).
Nguyên tắc bình đẳng về quyền thừa kế thể hiện nguyên tắc Hiến định “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”, bảo đảm cho mọi thành viên trong gia đình bình đẳng với nhau, cùng nhau đoàn kết, xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc.
2. Nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ thừa kế được cụ thể hoá trong các điều luật
a. Sắc lệnh số 97-SL có quy định quyền tự định đoạt của những người có quyền thừa kế trong việc hưởng di sản. Theo quy định tại Điều 11 Sắc lệnh này thì: “Trong lúc sinh thời, người chồng goá hay người vợ goá, các con đã thành niên có quyền xin chia tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết sau khi đã thanh toán tài sản chung”. Quyền thừa kế của người vợ goá được pháp luật bảo đảm thực hiện, người vợ được thừa kế theo pháp luật tại hàng thừa kế thứ nhất cùng với các con của người chồng chết trước. Quyền thừa kế theo pháp luật của người vợ goá hoặc người chồng goá hưởng di sản của người chồng hoặc người vợ chết trước được pháp luật thừa kế nước ta bảo vệ. Theo đó, người chồng hoặc người vợ goá được thừa kế di sản tại hàng thừa kế thứ nhất, cùng với các con hưởng di sản của người chồng hoặc người vợ chết trước.
Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, “vợ và chồng có địa vị bình đẳng trong gia đình”. Với tư cách đồng sở hữu chung hợp nhất đối với tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân hợp pháp thì: “Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung”. Ở nước ta, quyền của người vợ luôn được tôn trọng bảo vệ. Trong trường hợp chồng chết trước, người vợ dù đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản của chồng: Khi một bên chết trước, nếu cần chia tài sản chung của vợ chồng thì chia đôi. Phần tài sản của người chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế. Vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau. Những quy định trên của pháp luật nước ta đã bảo đảm quyền bình đẳng của vợ chồng trong việc để lại di sản thừa kế và nhận di sản thừa kế.
b. Vợ chồng có quyền thừa kế di sản của nhau được pháp luật nước ta bảo đảm thực hiện theo những quy định tại Sắc lệnh số 97-SL, Thông tư số 1742-BNC, Thông tư số 594-NCPL ngày 27 tháng 8 năm 1968 của Toà án nhân dân tối cao, Thông tư số 81-TANDTC ngày 24 tháng 7 năm 1981 của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn đường lối giải quyết các tranh chấp về thừa kế, Pháp lệnh thừa kế ngày 10 tháng 9 năm 1990, BLDS năm 1995 và hiện nay là BLDS năm 2005, quy định vợ chồng thừa kế theo pháp luật của nhau tại hàng thừa kế thứ nhất và vợ hoặc chồng của người để lại di sản còn được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc của người vợ hoặc người chồng chết trước. Vợ hoặc chồng được thừa kế di sản của nhau không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Điều 669 BLDS quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc: “Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động”.
Theo quy định tại Điều 669 nói trên và theo quy định tại Điều 676 của BLDS, nhận thấy địa vị pháp lí của người vợ goá hoặc người chồng goá có quyền hưởng di sản thừa kế theo pháp luật hoặc được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc của người chồng hoặc người vợ chết trước. Quy định này đã cho thấy, vị trí của người vợ goá đã được đặt ngang hàng với quan hệ huyết thống và được coi trọng ngang bằng với quan hệ huyết thống. Đặc biệt, pháp luật đã xác định quan hệ hôn nhân ngang hàng với quan hệ huyết thống trong việc quy định những người thừa kế theo pháp luật tại hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản. Tại điểm a khoản 1 Điều 676 BLDS quy định: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. Quyền thừa kế của người chồng goá hoặc vợ goá còn được bảo vệ là những người được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Theo những quy định tại Điều 669 và Điều 676 BLDS thì quyền thừa kế của người vợ hoặc của người chồng goá của người để lại di sản đã được pháp luật quy định bình đẳng với những người có quan hệ huyết thống khác của người để lại di sản, xét theo thứ bậc trên và dưới. Bậc trên có cha, mẹ của người để lại di sản, ngang bậc có vợ hoặc chồng của người để lại di sản, bề dưới có các con của người để lại di sản.
c. Quyền bình đẳng của vợ chồng trong quan hệ thừa kế còn được bảo hộ trong trường hợp họ lập chung di chúc. Điều 663 và Điều 664 BLDS quy định về di chúc chung của vợ chồng và sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung của vợ, chồng.
Điều 663 BLDS quy định về di chúc chung của vợ, chồng: “Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung”. Vợ, chồng có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung theo quy định tại Điều 664 BLDS:
“1. Vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào.
2. Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình”.
3. Ý nghĩa của nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ thừa kế
Những nguyên tắc cơ bản của pháp luật thừa kế được quy định trong BLDS là nhằm bảo vệ quyền bình đẳng, tự nguyện của công dân than gia quan hệ thừa kế di sản và quyền được hưởng di sản của những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật. Quyền thừa kế theo pháp luật của công dân được quy định trong BLDS là một bước tiến quan trọng trong quá trình lập pháp ở Việt Nam nhằm khắc phục kịp thời sự thiếu tập trung, không đầy đủ của pháp luật về thừa kế được quy định trước đó.
Theo những quy định trên thì nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ thừa kế của nước ta đã được pháp luật ghi nhận. Nguyên tắc bình đẳng được bảo đảm thực hiện bằng pháp luật là những căn cứ pháp lý quan trọng nhằm củng cố quan hệ gia đình, củng cố quan hệ hôn nhân và trách nhiệm của các thành viên trong một gia đình. Quyền thừa kế di sản của các thành viên trong gia đình đặc biệt là cha, mẹ, người vợ, người chồng, các con của người để lại di sản luôn được pháp luật thừa kế của nước ta quy định và những quy định đó là những nguyên tắc pháp luật, nhằm củng cố quan hệ tài sản giữa những người có quyền hưởng di sản thừa kế theo pháp luật. Nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ thừa kế được coi trọng trong nội dung pháp luật, theo đó quyền thừa kế của người vợ goá hoặc chồng goá của người để lại di sản được pháp luật bảo vệ trong việc hưởng di sản của người chết để lại. Những quy định của pháp luật thừa kế còn là cuộc cách mạng làm triệt tiêu ý thức hệ phong kiến ngàn đời đã tồn tại trong quan hệ xã hội và pháp luật ở nước ta trước năm 1945, tư tưởng đó đã được thay thế triệt để trong quan hệ tài sản thuộc đối tượng điều chỉnh của luật dân sự Việt Nam hiện đại, trong đó nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ thừa kế là hạt nhân mới của tư tưởng đó.
Thực trạng việc thực hiện nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ thừa kế và một số kiến nghị
Pháp luật của Nhà nước ta quy định về thừa kế dựa trên nguyên tắc bình đẳng không phân biệt đối xử giữa những người thừa kế, trong đó chú trọng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của những người yếu thế hoặc những người có quan hệ gắn bó chặt chẽ, gần gũi về dòng máu, quan hệ tình cảm và đạo đức (cha mẹ, vợ chồng, con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động…). Tuy nhiên, trên thực tế việc đưa các quy định này vào cuộc sống vẫn còn nhiều vấn đề bất cập.
Điều 632 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định một số nguyên tắc quan trọng là quyền bình đẳng về thừa kế của cá nhân, theo đó, mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hay theo pháp luật. Hiện nay, qua kinh nghiệm tư vấn liên quan đến thừa kế, nhận thấy rằng, vẫn còn một số người có quan niệm "trọng nam, khinh nữ" khi cho rằng chỉ có con trai mới được hưởng thừa kế của cha mẹ để lại, con gái không có quyền đó. Điều 632 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về quyền bình đẳng của mọi người không phân biệt con trai hay con gái đều có quyền bình đẳng ngang nhau khi hưởng thừa kế là di sản do cha mẹ để lại theo pháp luật hay theo di chúc.
Hoặc quan niệm về quyền hưởng thừa kế căn cứ trên cơ sở sổ hộ khẩu. Hiện vẫn còn một số người cho rằng mình phải được nhận thừa kế do cha mẹ để lại đối với căn nhà do họ đã có hộ khẩu trong căn nhà đó. Quan niệm như vậy là không đúng, vì hộ khẩu chỉ là bằng chứng chứng minh một cá nhân đăng ký thường trú tại địa chỉ của căn nhà. Bản thân hộ khẩu không có giá trị chứng minh về quyền thừa kế của cá nhân. Trong trường hợp cá nhân được hưởng thừa kế theo pháp luật thì bằng chứng để xác nhận một cá nhân có được hưởng thừa kế hay không là dựa vào quan hệ nhân thân của người đó, cụ thể những giấy tờ chứng minh có quan hệ nhân thân với người để lại di sản là khai sinh, hôn thú, v.v... Trong trường hợp hưởng thừa kế theo di chúc là bản di chúc có đầy đủ thông tin xác định được người được hưởng di sản.
Cá nhân cũng có quyền bình đẳng ngang nhau trong việc để lại tài sản của mình cho người khác theo di chúc. Ví dụ: Trong trường hợp hai vợ chồng cùng sở hữu tài sản là căn nhà thì hai người đều có quyền ngang nhau khi lập di chúc để lại tài sản cho bất cứ ai mà mình muốn mà không cần hỏi ý kiến của người kia. Hiện nay, có quan niệm cho rằng con cái đương nhiên được hưởng thừa kế của cha mẹ, do đó, khi lập di chúc cha mẹ phải hỏi ý kiến của con cái. Quan niệm như vậy là sai lầm và xâm phạm đến quyền để lại tài sản của cha mẹ, con cái chỉ đương nhiên được hưởng thừa kế của cha mẹ nếu cha mẹ không để lại di chúc, lúc đó con cái sẽ được hưởng thừa kế của cha mẹ theo pháp luật. Do đó, khi lập di chúc, cha mẹ không có nghĩa vụ phải hỏi ý kiến của con cái, cha mẹ có toàn quyền định đoạt tài sản của mình.
Hay như sự cần thiết của việc thực hiện sự bình đẳng giới trong xác định người thừa kế, người không được hưởng di sản.
Ví dụ: người chồng (hoặc người vợ) không quan tâm chăm sóc, hoặc có hành vi hành hạ về thể xác và tinh thần khi người vợ (hoặc chồng) mình bị ốm đau, không được cứu chữa kịp thời mà chết. Những hành vi trên, nếu không phát hiện kịp thời hoặc với quan điểm đấy là “chuyện riêng” của vợ chồng họ mà không tước quyền thừa kế của người vi phạm cũng là một dấu hiệu của bất bình đẳng về giới…
Ngoài ra, do ảnh hưởng của tư tưởng, phong tục, tập quán lạc hậu hoặc do chịu ảnh hưởng của định kiến xã hội, thái độ tự ti… hoặc thiếu hiểu biết pháp luật mà có thể dẫn đến người có quyền thừa kế lại không dám khởi kiện, không muốn khởi kiện hoặc không biết mình được hưởng thừa kế mà khởi kiện.
Ví dụ: Người con dâu sống cùng với gia đình nhà chồng, sau khi người chồng chết không dám khởi kiện hoặc tự cho là mình không có quyền được hưởng thừa kế, thì đây cũng là một dạng của bất bình đẳng về giới nếu như pháp luật và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền không giúp họ có được sự thụ hưởng trên thực tế quyền thừa kế của mình…
Bên cạnh đó, cần nhấn mạnh những định kiến xã hội về vai trò quyết định di sản và thụ hưởng di sản của người phụ nữ so với nam giới có ảnh hưởng rất lớn đến tâm tư, nguyện vọng của nguời lập di chúc. Từ đó, nó có thể quyết định người để lại di sản có “dám” hay không “dám” lập di chúc, cũng như nó có thể quyết định nội dung của di chúc bao gồm ai sẽ được hưởng thừa kế, mức thừa kế và các ràng buộc về quyền và nghĩa vụ phát sinh khi được thừa kế…
Ví dụ: Nguời con dâu sống cùng gia đình nhà chồng khi mắc bệnh hiểm nghèo biết mình không qua khỏi thì thường có suy nghĩ cho rằng mình không nên hoặc không có quyền lập di chúc dẫn tới họ quyết định không lập di chúc. Ngược lại, khi họ quyết định lập di chúc thì nguời chồng hoặc gia đình nhà chồng cho rằng chị vợ không có quyền đó hoặc không nên có di chúc như vậy khi người chồng, cha, mẹ, anh, em gia đình nhà chồng còn sống…
Ngoài ví dụ trên, chúng ta cũng có thể thấy một hiện tượng phổ biến là người để lại di sản khi lập di chúc thường có quan niệm con trai hoặc cháu trai là nguời thừa tự, nối dõi tông đường và kế tục các truyền thống của gia đình, dòng họ nên thường quyết định trao toàn bộ hoặc phần lớn di sản thừa kế cho con trai và cháu trai. Trong khi đó, con gái, cháu gái thì hưởng được phần ít hơn hoặc không được hưởng. Bản thân phía người phụ nữ nhiều khi cũng có quan niệm cho rằng, quyền thừa kế thuộc về con trai, anh trai, em trai, cháu trai còn mình thì không được hưởng dẫn tới họ không “dám”, không muốn khởi kiện để hưởng thừa kế…
Đặc biệt, không được có sự phân biệt đối xử trong việc xác định diện những nguời được hưởng thừa kế theo pháp luật. Nam hay nữ nếu có quan hệ nhân thân ngang nhau với người để lại di sản thì cùng thuộc cùng hàng thừa kế của người để lại di sản và được chia phần di sản bằng nhau. Ví dụ: Người thừa kế đều là con đẻ hoặc con nuôi của nguời chết thì đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cha mẹ…
Ngoài ra, cũng cần chú ý các quan hệ thừa kế đặc biệt, có tính nhạy cảm giới cao như quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng đã chia tài sản chung, đang xin ly hôn, đã kết hôn với người khác; quan hệ thừa kế giữa con riêng với bố dượng, mẹ kế; quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ…
Về thanh toán và phân chia di sản, nhìn chung pháp luật áp dụng nguyên tắc tôn trọng ý chí của người để lại di sản, sự thoả thuận giữa những người thừa kế. Trong trường hợp chia di sản thừa kế theo pháp luật thì thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa những người thừa kế về nhận di sản và thực hiện nghĩa vụ của người chết để lại. Đặc biệt, nếu việc phân chia di sản làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Toà án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa được chia di sản trong một thời hạn nhất định (thời hạn đó là không quá 3 năm…)…
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những yếu tố xã hội có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện các nguyên tắc trên mà giáo trình và giảng viên cần cung cấp cho người học. Ví dụ: Sau khi thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế họp mặt để thoả thuận về việc cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, cách thức phân chia di sản. Trong những cuộc họp này, người thừa kế là nữ giới thường ít tham gia hoặc có tham gia nhưng không có ý kiến do phụ thuộc vào ý kiến của những người thừa kế nam giới, người thừa kế “bề trên”. Thậm chí, khi người phụ nữ có ý kiến thì thường không được những người thừa kế khác quan tâm thích đáng, thậm chí gạt đi không chấp nhận…
Hay pháp luật thừa nhận quyền của người vợ sau khi người chồng chết là yêu cầu Tòa án không chia di sản thừa kế của người chồng trong thời hạn không quá 3 năm nếu việc chia di sản có ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của họ và gia đình. Trên thực tế, những người vợ có thực hiện được quyền này hay không khi người khởi kiện chia thừa kế chính là cha mẹ chồng, con cái của mình… và sự lựa chọn phổ biến của người phụ nữ trên thực tế là nhận sự khó khăn thuộc về mình và chấp nhận yêu cầu khởi kiện của những người thừa kế khác.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Trên đây, tôi đã trình bày với các bạn về vấn đề “nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ thừa kế theo quy định của pháp luật”. Nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ thể trong việc để lại di sản và nhận di sản thừa kế nhằm bảo vệ những quyền, lợi ích chính đáng của công dân trong quan hệ tài sản nhằm củng cố tình đoàn kết trong gia đình, dòng họ và phủ định tư tưởng trọng nam, khinh nữ, phân biệt đối xử giữa các thành viên trong gia đình và xã hội. Tôi mong rằng qua bài viết này, các bạn sẽ có một cái nhìn toàn diện hơn về pháp luật thừa kế nói riêng và pháp luật dân sự nói chung, pháp luật đã có những quy định rất cụ thể, tiến bộ nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều điểm thiếu sót. Do đó, tôi và các bạn, những nhà làm luật tương lai hãy hoàn thiện những điểm thiếu sót của pháp luật, góp phần xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ thừa kế theo quy định của pháp luật.doc