Để tự học tốt các môn y sinh học, người sinh viên cần phải biết tận dụng mọi hình thức để tự học. Có thể nói học các môn y sinh là học ở mọi nơi, mọi lúc, mọi tình huống, trong đó bản thân người học phải có sự nỗ lực, tích cực sáng tạo, luôn có sự so sánh đối chiếu giữa lý luận và thực tiễn để nắm vững, hiểu sâu tri thức môn học đó.
Đương nhiên để sinh viên làm được điều đó thì vai trò của giáo viên trong việc hướng dẫn phương pháp tự học các môn y sinh học là rất quan trọng.
14 trang |
Chia sẻ: chaien | Lượt xem: 6094 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Những vấn đề lý luận về tự học và hướng dẫn phương pháp tự học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỰ HỌC VÀ HƯỚNG DẪN PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌC
Các bạn sinh viên thân mến việc tự học giữ một vị trí quan trọng trong phương pháp học tập ở trường đại học, tự học giúp cho sinh viên nắm vững kiến thức nói chung và phát huy tính tích cực hoạt động trí tuệ của sinh viên nói riêng. Để các em làm quen với phương pháp tự học giúp các em đáp ứng được yêu cầu của xã hội và mục tiêu đào tạo của khoa chúng tôi mong các em tìm hiểu các vấn đề sau:
1.Khái niệm tự học
Trong các giáo trình, tài liệu, các tác giả đã đưa ra các định nghĩa khác nhau về tự học, sau đây là một số định nghĩa cơ bản:
- Nhà tâm lý học N.ARubakin coi: Tự tìm lấy kiến thức – có nghĩa là tự học. Tự học là quá trình lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội, lịch sử trong thực tiễn hoạt động cá nhân bằng cách thiết lập các mối quan hệ cải tiến kinh nghiệm ban đầu, đối chiếu với các mô hình phản ánh hoàn cảnh thực tại, biến tri thức của loài người thành vốn tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng , kỹ xảo của chủ thể.
- Trong cuốn “Học tập hợp lí” R.Retke chủ biên, coi “Tự học là việc hoàn thành các nhiệm vụ khác không nằm trong các lần tổ chức giảng dạy” - Theo tác giả Lê Khánh Bằng: thì tự học (self learning) là tự mình suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ, các phẩm chất tâm lý để chiếm lĩnh một lĩnh vực khoa học nhất định
- Theo Giáo sư Đặng Vũ Hoạt và Phó giáo sư Hà Thị Đức trong cuốn “Lý luận dạy học đại học” thì “Tự học là một hình thức tổ chức dạy học cơ bản ở đại học. Đó là một hình thức nhận thức của cá nhân, nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kỹ năng do chính người học tự tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp, theo hoặc không theo chương trình và sách giáo khoa đã được qui định.
- Theo tác giả Nguyễn Văn Đạo: “Tự học phải là công việc tự giác của mỗi người do nhận thức được đúng vai trò quyết định của nó đến sự tích luỹ kiến thức cho bản thân, cho chất lượng công việc mình đảm nhiệm, cho sự tiến bộ của xã hội”
- Theo Giáo sư – Tiến sỹ Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học – là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp...) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như tính trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biến khó khăn thành thuận lợi..vv...) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình”.
Từ những quan điểm về tự học nêu trên, chúng tôi đi đến định nghĩa về tự học như sau: Tự học là quá trình cá nhân người học tự giác, tích cực, độc lập tự chiếm lĩnh tri thức ở một lĩnh vực nào đó trong cuộc sống bằng hành động của chính mình nhằm đạt được mục đích nhất định.
2. Các hình thức tự học
Hoạt động tự học diễn ra dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau:
* Hình thức 1: Cá nhân tự mày mò theo sở thích và hứng thú độc lập không có sách và sự hướng dẫn của giáo viên
Hình thức này gọi là tự nghiên cứu của các nhà khoa học. Kết quả của quá trình nghiên cứu đi đến sự sáng tạo và phát minh ra các tri thức khoa học mới, đây thể hiện đỉnh cao của hoạt động tự học. Dạng tự học này phải được dựa trên nền tảng một niềm khao khát, say mê khám phá tri thức mới và đồng thời phải có một vốn tri thức vừa rộng, vừa sâu. Tới trình độ tự học này người học không thầy, không sách mà chỉ cọ sát với thực tiễn vẫn có thể tổ chức có hiệu quả hoạt động của mình.
* Hình thức 2: Tự học có sách nhưng không có giáo viên bên cạnh.
Ở hình thức tự học này có thể diễn ra ở hai mức:
Thứ nhất, tự học theo sách mà không có sự hướng dẫn của thầy:
Trường hợp này người học tự học để hiểu, để thấm các kiến thức trong sách qua đó sẽ phát triển về tư duy, tự học hoàn toàn với sách là cái đích mà mọi người phải đạt đến để xây dựng một xã hội học tập suốt đời.
Thứ hai, tự học có thầy ở xa hướng dẫn:
Mặc dù thầy ở xa nhưng vẫn có các mối quan hệ trao đổi thông tin giữa thầy và trò bằng các phương tiện trao đổi thông tin thô sơ hay hiện đại dưới dạng phản ánh và giải đáp các thắc mắc, làm bài, kiểm tra, đánh giá,...
* Hình thức 3: Tự học có sách, có thầy giáp mặt một số tiết trong ngày, sau đó sinh viên về nhà tự học dưới sự hướng dẫn gián tiếp của giáo viên
Trong quá trình học tập trên lớp, người thầy có vai trò là nhân tố hỗ trợ, chất xúc tác thúc đẩy và tạo điều kiện để trò tự chiếm lĩnh tri thức. Trò với vai trò là chủ thể của quá trình nhận thức: tự giác, tích cực, say mê, sáng tạo tham gia vào quá trình học tập. Mối quan hệ giữa thầy và trò chính là mối quan hệ giữa Nội lực và Ngoại lực, Ngoại lực dù quan trọng đến mấy cũng chỉ là chất xúc tác thúc đẩy Nội lực phát triển.
Trong quá trình tự học ở nhà, tuy người học không giáp mặt với thầy, nhưng dưới sự hướng dẫn gián tiếp của thầy, người học phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động tự sắp xếp kế hoạch huy động mọi trí tuệ và kỹ năng của bản thân để hoàn những yêu cầu do giáo viên đề ra. Tự học của người học theo hình thức này liên quan trực tiếp với yêu cầu của giáo viên, được giáo viên định hướng về nội dung, phương pháp tự học để người học thực hiện. Như vậy ở hình thức tự học thứ ba này quá trình tự học của sinh viên có liên quan chặt chẽ với quá trình dạy học, chịu sự tác động của nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố tổ chức và quản lý quá trình dạy học của giáo viên và quá trình tự học của sinh viên.
Theo Luật Giáo dục, học từ xa, vừa học vừa làm, tự học có hướng dẫn thuộc phương thức giáo dục không chính quy (mục d- điều 41 Luật Giáo dục). Trong các hình thức giáo dục này, người hoc chủ yếu phải tự học bằng sách giáo khoa, bằng các loại học liệu, bằng kế hoạch và các điều kiện, phương tiện của mình để đạt được một mục tiêu hay một chương trình đào tạo. Ví dụ: “Giáo dục từ xa là một tổng thể các hoạt động do một cơ sở giáo dục đảm nhiệm nhằm khuyến khích sự học cho những nguời không tới trường học hoặc không có điều kiện tới trường học”. (Đề án tổng thể về phát triển giáo dục từ xa ở Việt Nam đến năm 2010 - Bộ Giáo dục và đào tạo 12 – 2002). Như vậy bản chất của việc học từ xa là tự học, người học phải biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo với sự trợ giúp của các cơ sở đào tạo.
3.Vai trò của tự học trong quá trình dạy học
Trong quá trình dạy học nói chung, dạy học ở đại học nói riêng, giáo viên luôn giữ một vai trò quan trọng đặc biệt không thể thiếu được đó là sự tổ chức, điều khiển, hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động học tập của sinh viên. Nhưng thực tế cho thấy rằng, dù giáo viên có kiến thức uyên thâm đến đâu, phương pháp giảng dạy hay đến mấy nhưng học sinh không chịu đầu tư thời gian, không có sự lao động của cá nhân, không có niềm khao khát với tri thức, không có sự say mê học tập, không có kế hoạch và phương pháp học tập hợp lý, không tự giác tích cực trong học tập... thì việc học tập không đạt kết quả cao được.
Vì vậy, có thể khẳng định vai trò của hoạt động tự học luôn giữ một vị trí rất quan trọng trong quá trình học tập của người học. Tự học là yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả của hoạt động học tập.
Khi bàn về vai trò của tự học nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười đã phát biểu: “Tự học, tự đào tạo là con đường phát triển suốt cuộc đời của mỗi người, trong điều kiện kinh tế – xã hội nước ta hiện nay và cả mai sau đó cũng là truyền thống quý báu của người Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Chất lượng và hiệu quả giáo dục được nâng cao khi tạo ra được năng lực sáng tạo của người học, khi biến được quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. Qui mô của giáo dục được mở rộng khi có phong trào toàn dân tự học” (Trích thư gửi Hội thảo khoa học nghiên cứu phát triển tự học, tự đào tạo ngày 6/1/1998).
Học ở đại học, đòi hỏi sinh viên phải tiếp thu một lượng kiến thức lớn và khó, cho nên ngoài thời gian học trên lớp sinh viên phải tự học, tự nghiên cứu ngoài giờ lên lớp để mở rộng và đào sâu tri thức. Cũng chính thông qua hoạt động tự học này đã giúp rất nhiều cho sinh viên trong quá trình học tập biểu hiện.
Thứ nhất, tự học giúp sinh viên nắm vững tri thức, kỹ năng kỹ xảo và nghề nghiệp trong tương lai. Chính trong quá trình tự học sinh viên đã từng bước biến vốn kinh nghiệm của loài người thành vốn tri thức riêng của bản thân. Hoạt động tự học đã tạo điều kiện cho sinh viên hiểu sâu tri thức, mở rộng kiến thức, củng cố ghi nhớ vững chắc tri thức, biết vận dụng tri thức vào giải quyết các nhiệm vụ học tập mới.
Thứ hai, tự học không những giúp sinh viên không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả học tập khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà còn giúp họ có được hứng thú thói quen và phương pháp tự thường xuyên để làm phong phú thêm, hoàn thiện thêm vốn hiểu biết của mình. Giúp họ tránh được sự lạc hậu trước sự biến đổi không ngừng của khoa học và công nghệ trong thời đại ngày nay.
Thứ ba, tự học thường xuyên, tích cực, tự giác, độc lập không chỉ giúp sinh viên mở rộng đào sâu kiến thức mà còn giúp sinh viên hình thành được những phẩm chất trí tuệ và rèn luyện nhân cách của mình. Tạo cho họ có nếp sống và làm việc khoa học, rèn luyện ý chí phấn đấu, đức tính kiên trì, óc phê phán, hứng thú học tập và lòng say mê nghiên cứu khoa học.
Thứ tư, trong quá trình học tập ở trường đại học, nếu bồi dưỡng được ý chí và năng lực tự học cần thiết thì sẽ khơi dậy được ở sinh viên tiềm năng to lớn vốn có của họ, tạo nên động lực nội sinh của quá trình học tập, vượt lên trên mọi khó khăn, trở ngại bên ngoài. Khả năng tự học chính là nhân tố nội lực, nhân tố quyết định chất lượng đào tạo.
Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là hạ thấp vai trò của giáo viên và tập thể sinh viên trong nhà trường. Các lực lượng này có tác dụng lớn trong việc động viên khuyến khích hướng dẫn sinh viên tự học một cách đúng hướng và hiệu quả.
Trong xã hội phát triển vai trò của giáo dục ngày càng quan trọng, là động lực thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội. Giáo dục phải đào tạo được thế hệ trẻ năng động, sáng tạo, có đủ tri thức, năng lực và có khả năng thích ứng với đời sống xã hội, làm phát triển xã hội. Muốn vậy thế hệ trẻ phải có năng lực đặc biệt đó là khả năng tự học, tự nâng cao, tự hoàn thiện và những khả năng này phải được hình thành từ cấp tiểu học. Có như vậy mới rèn luyện cho họ được kỹ năng tự học, tự nghiên cứu, không ngừng nâng cao vốn hiểu biết về văn hoá, khoa học kỹ thuật và hiện đại hoá vốn tri thức của mình để trở thành người công dân, người lao động với đầy đủ hành trang bước vào cuộc sống.
4. Ý nghĩa của tự học
Ở bất kỳ bậc học hay cấp học nào hoạt động tự học cũng có ý nghĩa rất quan trọng đối với kết quả học tập, tuy nhiên đối với sinh viên ở các trường đại học nó lại càng thiết thực hơn bởi hoạt động tự học của sinh viên ở các trường đại học có nét đặc thù so với phổ thông, thể hiện hoạt động nhận thức của sinh viên ở mức cao hơn, mang tính chất độc lập, tự lực, tự giác, sáng tạo trong việc tiếp thu tri thức cũng như việc vận dụng tri thức vào các tình huống cụ thể. Phương pháp học tập của sinh viên cũng khác, nó mang tính chất tự học, tự nghiên cứu nhưng điều đó cũng không có nghĩa là thiếu vai trò của người giáo viên. Do đó có thể nói hoạt động tự học là một khâu của quá trình giáo dục, là một quá trình gia công, chế biến và tự điều khiển theo đúng mục tiêu giáo dục qui định.
Nhờ có tự học và chỉ bằng con đường tự học, người học mới có thể nắm vững tri thức, thông hiểu tri thức, bổ xung và hoàn thiện tri thức cũng như hình thành những kỹ năng, kỹ xảo tương ứng. Điều này đã được K.Đ.Usinxki nói: chỉ có công tác tự học của học sinh mới tạo điều kiện cho việc thông hiểu tri thức. Và như vậy hoạt động tự học sẽ quyết định chất lượng giáo dục - đào tạo của nhà trường.
Hoạt động tự học của học sinh, sinh viên không chỉ nâng cao năng lực nhận thức, rèn luyện thói quen, kỹ năng, kỹ xảo vận dụng tri thức của bản thân vào cuộc sống mà còn giáo dục tình cảm và những phẩm chất đạo đức của bản thân. Vì trên cơ sở những tri thức họ tiếp thu được nó có ý nghĩa sâu sắc đến việc giáo dục tư tưởng đạo đức, lối sống, niềm tin, rèn luyện phong cách làm việc cá nhân cũng như những phẩm chất ý chí cần thiết cho việc tổ chức lao động học tập của mỗi học sinh; Bên cạnh đó còn rèn luyện cho họ cách suy nghĩ, tính tự giác, độc lập trong học tập cũng như rèn luyện thói quen trong hoạt động khác. Nói cách khác hoạt động tự học hướng vào việc rèn luyện phát triển toàn diện nhân cách học sinh. Mặt khác hoạt động tự học không những là yêu cầu cấp bách, thiết yếu của học sinh, sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường để họ tiếp nhận tri thức, nâng cao trình độ hiểu biết của bản thân mà còn có ý nghĩa lâu dài trong suốt cuộc đời mỗi con người, đó là thói quen học tập suốt đời, bởi sau khi ra trường vẫn phải tiếp tục: Học, học nữa, học mãi và người học sinh, sinh viên Cần phải học khi còn là học sinh, nhưng cần phải học tập hơn nữa khi đã rời ghế nhà trường và sự học tập ở giai đoạn thứ hai này còn quan trọng hơn gấp bội lần sự học tập thứ nhất và hiệu quả của nó, ảnh hưởng của nó đến cá nhân con người và đến xã hội.
Tự học không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân người học mà còn góp phần to lớn nâng cao chất lượng dạy học và đào tạo. Nói như vậy không có nghĩa là hạ thấp vai trò trách nhiệm của người giáo viên mà dưới sự tổ chức, hướng dẫn, chỉ đạo của người giáo viên, học sinh đã biết cách tự học, chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh kho tàng tri thức của nhân loại.
Như vậy muốn nâng cao chất lượng học tập của sinh viên trong trường học nói chung, khoa y sinh học TDTT nói riêng, chúng ta cần phải quan tâm đúng mức đến việc bồi dưỡng kiến thức, nâng cao trình độ nghiệp vụ của người giáo viên đồng thời phải đặc biệt chú ý đến vị trí trung tâm của người sinh viên trong hoạt động tập thể để làm sao khai thác triệt để những tiềm năng vốn có trong người họ, phát huy tính tự giác, tích cực sáng tạo, chủ động trong quá trình lĩnh hội tri thức nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp TDTT đất nước.
5.Hướng dẫn phương pháp tự học các môn y sinh học
5. 1.Phương pháp tự học
Trước hết ta phải nhận thức được rằng khi ta cho rằng việc tự học cần phải được khuyến khích trong học viên thì chính ta đưa ra một ý kiến nhất định hoặc đang tiếp nhận một phương pháp tiếp cận đối với quá trình dạy học, và tất cả mội người sẽ nhất trí về tính ưu việt của phương pháp tiếp cận này. Thật ra hầu hết mọi giáo viên giỏi đều tìm cách khuyến khích học viên tự học tập và nghiên cứu. Đó là thói quen cần thiết phải lĩnh hội trong mọi điều kiện.
Vì thế đây chính là một bài tập suy nghĩ gồm hai cấp độ. Đầu tiên người giáo viên phải lồng ghép phương pháp này vào công việc của chính mình, sau đó người giáo viên phải tìm ra một phương thức hoạt động hay phương pháp nào đó nhằm khuyến khích học viên của chính mình tự học. Phương pháp này phải được định nghĩa một cách đầy đủ nhưng tổng quát để có thể thực hiện được trong các nội dung bài giảng khác nhau theo một hình thức đơn giản dễ hiểu.
Các giáo viên và những nhà giáo dục đã phát triển nên một phương pháp dạy học hiệu quả dựa trên ý tưởng cho rằng việc học giúp cho cá nhân lĩnh hội được khả năng khác nhau một cách thoả đáng và hiệu quả. Phương pháp này gọi là phương pháp tự học.
Phương pháp tự học của sinh viên là cách thức, con đường mà người học tự chọn cho mình trong quá trình học tập để đạt được những nhiệm vụ học tập đề ra. Như vậy phương pháp tự học có vai trò rất quan trọng đối với kết quả học tập của sinh viên.
5. 2.Hướng dẫn phương pháp tự học
Trong thư gửi Trung tâm Nghiên cứu và phát triển tự học (Hội khuyến học Việt Nam) ngày 09/06/1999, Bộ trưởng bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Minh Hiển viết: “Tự học là một khâu rất quan trọng trong quá trình giáo dục, góp phần hình thành và nâng cao năng lực, phẩm chất của học sinh, sinh viên, đặc biệt trong điều kiện hiện nay. Đây là vấn đề không chỉ liên quan đến người học mà cả người dạy. Việc khơi dạy, hướng dẫn, đẩy mạnh, phát huy nội lực tự học trong việc dạy và học là quán triệt chủ trương xã hội hoá giáo dục mà Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm”.
Rõ ràng là việc khơi dậy khả năng tự học trong thế hệ trẻ, đặc biệt là sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng hiện nay đang là vấn đề được sự quan tâm của toàn xã hội, bởi đây chính là người chủ tương lai của đất nước, những người sẽ kế tiếp cha anh đưa đất nước đi lên. Muốn vậy, phải hướng dẫn, giúp đỡ họ có được phương pháp tự học, cách thức tự học đúng đắn.
Vậy có thể hiểu một cách khái quát rằng hướng dẫn phương pháp tự học là quá trình giúp đỡ, hình thành cho người học có được những phương pháp, cách thức tự học, tự nghiên cứu hợp lý, hiệu quả, qua đó giúp họ không ngừng nâng cao chất lượng học tập, nghiên cứu khoa học cả khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường và khi đã bước vào lao động nghề nghiệp trong tương lai.
Trong quá trình dạy học, người giáo viên cần tăng cường sử dụng các phương pháp dạy học tích cực nhằm khơi dậy hứng thú, tính sáng tạo, óc tò mò khoa học cho người học; mặt khác bên cạnh việc trang bị cho người học hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo thì cần đặc biệt chú ý hình thành cho họ ý thức tự học, động cợ tự học đúng đắn. Tiếp theo người giáo viên nên hướng dẫn người học có những phương pháp tự học, cách thức tiến hành tự học cụ thể hiệu quả như:
- Biết cách xây dựng kế hoạch và thời gian biểu tự học hợp lý.
- Biết cách thức làm việc độc lập, bao gồm: Biết đọc sách một cách có hệ thống, biết phân chia dung lượng kiến thức hợp lý để tiến hành học tập cho có hiệu quả, biết liên hệ, vận dụng lý thuyết để giải quyết các bài tập trong quá trình học ở trên lớp và trong thực tiễn.
- Biết cách phân tích, tổng hợp, so sánh.
- Biết ôn tập, hạch toán kiến thức một cách tự giác, thường xuyên nhằm đánh giá được sự tiến bộ của trí tuệ.
- Biết tranh luận và biết trình bày quan điểm của mình.
- Biết tập trung tư tưởng, tiết kiệm thời gian học tập.
- Biết tự kiểm tra, tự đánh giá trình độ của bản thân
Để giúp người học có được những cách thức tiến hành tự học như vậy, người giáo viên có thể trực tiếp hướng dẫn họ ở trên lớp, thông qua các bài giảng mà hình thành cho nguời học những phương pháp tự học đúng đắn, hiệu quả.
Giữa phương pháp tự học và phương pháp dạy học tích cực có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Phương pháp dạy học tích cực được quan niệm là một thuật ngữ rút gọn, dùng để chỉ những phương pháp giáo dục dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học.
Phương pháp dạy học tích cực có những đặc trưng sau:
Thứ nhất dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh. Trong phương pháp dạy học tích cực người học là chủ thể của họat động “học” được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên thiết kế tổ chức và chỉ đạo, qua đó tự khám phá chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng mới cũng như phương pháp làm ra tri thức kỹ năng đó.
Thứ hai dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học. Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh - với sự bùng nổ thông tin, khoa học, kỹ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão – thì không thể nhồi nhét vào đầu óc học sinh lượng kiến thức ngày càng tăng nhanh. Phải quan tâm dạy học cho học sinh phương pháp học tập ngay từ bậc tiểu học. Trong đó chú trọng rèn luyện phương pháp tự học. Tuy có được phương pháp, kỹ năng, thói quen ý chí quyết tâm tự học thì kết quả học tập của học sinh tăng lên rất nhiều. Chính vì vậy tự học là đặc trưng quan trọng của dạy học tích cực. Có thể tự học ở lớp, ở nhà, từ nhiều kênh thông tin.
Thứ ba chú ý cả dạy học cá thể và dạy học hợp tác.
Thứ tư dạy học chú trọng cả đánh giá của thầy và tự đánh giá của trò.
Các phương pháp dạy học tích cực cần được vận dụng vào phần các môn y sinh học là: Phương pháp vấn đáp hay phương pháp đàm thoại; phương pháp đặt và giải quyết vấn đề hay nêu vấn đề; phương pháp hoạt động nhóm; phương pháp thực hành; phương pháp động não...
5.3. Hướng dẫn phương pháp tự học các môn y sinh học
Từ khái niệm về hướng dẫn phương pháp tự học, chúng ta có thể hiểu hướng dẫn phương pháp tự học các môn y sinh học là quá trình giúp đỡ, hình thành cho người học tổ chức hoạt động nhận thức của mình được tiến hành ở trên lớp hay ngoài lớp, khi có thầy và cả khi không có thầy nhằm chiếm lĩnh nội dung tri thức các môn y sinh học, đáp ứng được nhu cầu xã hội và yêu cầu của thực tiễn TDTT.
Chúng ta biết rằng muốn học tập tốt một bộ môn nào đó thì người sinh viên phải hiểu được đặc điểm của môn học, tổ chức được những hoạt động tương ứng với môn học đó để lĩnh hội tri thức, chính bản thân người học chứ không phải ai khác phải thiết lập được mối quan hệ biện chứng giữa chủ thể (người học) và khách thể (môn học).
Việc tự học các môn y sinh cũng vậy, muốn học tập đạt kết quả cao trước hết sinh viên phải hiểu được tính chất, đặc điểm của môn học - đó là một bộ môn vừa mang tính chất lý luận, tính trừu tượng, khái quát lại vừa có tính thực tiễn rất cao. Vì vậy, việc học tập các môn y sinh không chỉ đơn thuần là việc nắm vững những nguyên lý, quy luật, những bài giảng mang tính chất lý luận mà phải gắn liền với việc am hiểu và nắm vững những kiến thức thực tế vận dụng lý luận dể giải quyết những vấn đề thực tiễn hoạt động TDTT.
Như vậy, để tự học tốt, vấn đề quan trọng trước tiên là sinh viên phải hiểu rõ được ý nghĩa, vị trí của môn học trong nhà trường đối với nghề nghiệp tương lai của mình. Điều đó sẽ giúp họ xây dựng được ý thức tự học, tinh thần tự học, ý chí khắc phục khó khăn trong quá trình tự học.
Bên cạnh đó, để tự học các môn y sinh đạt hiệu quả thì việc xây dựng phương pháp học tập khoa học và việc lựa chọn hình thức học tập phù hợp có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Phương pháp tự học các môn y sinh học không chỉ đơn thuần là học lại máy móc vở ghi, bài giảng của thầy mà người học còn phải làm quen với việc đọc sách, đọc các tài liệu tham khảo, phải biết tìm hiểu thực tiễn giáo dục trong và ngoài nhà trường, biết kết hợp sáng tạo giữa lý luận và thực tiễn để tạo cho mình vốn tri thức, vốn kinh nghiệm phong phú.
Để tự học tốt các môn y sinh học, người sinh viên cần phải biết tận dụng mọi hình thức để tự học. Có thể nói học các môn y sinh là học ở mọi nơi, mọi lúc, mọi tình huống, trong đó bản thân người học phải có sự nỗ lực, tích cực sáng tạo, luôn có sự so sánh đối chiếu giữa lý luận và thực tiễn để nắm vững, hiểu sâu tri thức môn học đó.
Đương nhiên để sinh viên làm được điều đó thì vai trò của giáo viên trong việc hướng dẫn phương pháp tự học các môn y sinh học là rất quan trọng.
Link:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_van_de_ly_luan_ve_tu_hoc_va_huong_dan_phuong_phap_tu_hoc_6695.docx