Đề tài Hoạt động tự học của sinh viên năm thứ nhất khoa sư phạm toán – tin, trường đại học đồng tháp

Tuy nhiên theo xu hướng dạy học hiện nay là người học đóng vai trò chủ đạo, vì thế người học cần tự học nhiều hơn nữa mới có thể đáp ứng được nhu cầu học tập ở bậc Đại học bên cạnh sự hỗ trợ giúp đỡ của các giảng viên giảng dạy và nhất là sinh viên năm thứ nhất cần nhận ra nhữnghạn chế về chủ quan của sinh viên vì đây là vấn đề sinh viên có thể tự điều chỉnh được, tự ý thức được. Từ đó mỗi sinh viên chủ động tìm cho mình những biện pháp phù hợp nhằmthúc đẩy năng lực tự học, nâng cao chất lượng học tập ở Đại học cũng như hoàn thiện bản thân trong cuộc sống sau này

pdf10 trang | Chia sẻ: chaien | Lượt xem: 1917 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Hoạt động tự học của sinh viên năm thứ nhất khoa sư phạm toán – tin, trường đại học đồng tháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT KHOA SƯ PHẠM TOÁN – TIN, TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP Huỳnh Lê Uyên Minh, Khoa SP Toán-Tin, Trường Đại học Đồng Tháp Email: hluminh@dthu.edu.vn Phan Thị Hiệp, Khoa GD TH-MN, Trường Đại học Đồng Tháp Email: pthiep@dthu.edu.vn Tóm tắt nội dung.Trong bài viết này, chúng tôi đã đề cập đến thực trạng hoạt động tự học của sinh viên năm thứ nhất khoa Sư phạm Toán-Tin, trường Đại Học Đồng Tháp. Chúng tôi đã đi phân tích những nguyên nhân xuất phát theo hai hướng chủ quan và khách quan liên quan trực tiếp từ sinh viên và giảng viên trực tiếp giảng dạy hay do tác động xung quanh như môi trường học tập, các trang thiết bị. Trong đó, nguyên nhân khách quan chủ yếu xuất phát từ các vấn đề như việc thích ứng với môi trường học tập của sinh viên năm thứ nhất, phương pháp ghi chép, đọc và tóm tắt tài liệu chưa hiệu quả, do một số tác động chưa hiệu quả cao từ giảng viên, việc lựa chọn nguồn tài liệu tham khảo chưa tốt, do năng lực ngoại ngữ của sinh viên còn hạn chế, ngoài ra còn do một số tác động khác như nguồn tài liệu tham khảo từ thư việc chưa phong phú, sinh viên chưa năm rõ quy trình mượn máy tính của nhà trường, chưa có kinh nghiệm trong việc lập kế hoạch hoạt động và học tập,Bên cạnh đó, nguyên nhân chủ quan xuất phát từ phía sinh viên như do bất đồng trong hợp tác nhóm, thụ động trong việc tìm kiếm, trao đổi học tập với bạn bè, do sức ì tâm lý, muốn nghỉ ngơi sau quá trình học tập, thi cử mệt mỏi ở phổ thông, Trên cơ sở đó, chúng tôi đã đề xuất ra hệ thống giải pháp nâng cao hoạt động tự học cho sinh viên năm thứ nhất, Khoa Sư phạm Toán-Tin. 1.Đặt vấn đề Giống như bao hiện tượng xã hội khác, quá trình dạy học luôn luôn vận động và phát triển nhằm phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội hiện thời. Mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế xã hội lại đặt ra cho quá trình dạy học những yêu cầu và mục đích khác nhau, bắt buộc quá trình dạy học phải thỏa mãn những yêu cầu, mục đích ấy nhằm tạo ra động lực để phát triển xã hội. Ngày nay, quá trình dạy học được diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế xã hội có nhiều thay đổi, nền kinh tế dựa trên sức mạnh của máy móc đang chuyển giao vai trò sứ mệnh cho kinh tế tri thức, sự bùng nổ thông tin do cuộc cách mạng khoa học công nghệ, sự giao 2 thoa – hội nhập văn hóa toàn cầu, gia tốc phát triển nhanh của khoa học – kỹ thuật – công nghệ Chính đây là những nguyên nhân tác động đòi hỏi quá trình dạy học phải có những thay đổi toàn diện về mục đích, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, về vai trò, nhiệm vụ của người dạy và người học trong quá trình dạy học. Phương pháp học tập tích cực, hiệu quả được xem là một khâu then chốt, là một cuộc cách mạng thực sự để nâng cao chất lượng của quá trình dạy học. Vì thế các nhà khoa học Tâm lý học, Giáo dục học đã khẳng định: “ngày nay, dạy học là dạy phương pháp học tập cho học sinh” là vậy. Trong hệ thống các phương pháp học tập tích cực, hiệu quả thì hoạt động tự học được các nhà khoa học đánh giá cao về ý nghĩa và vai trò của nó đối với đòi hỏi về mặt cấu trúc vĩ mô của quá trình dạy học nói chung, cũng như có vai trò quyết định trong quá trình hình thành hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo tương ứng, nhằm hình thành các năng lực trí tuệ vững chắc ở người học nói riêng. Ở mỗi giai đoạn lứa tuổi khác nhau của người học, có những yêu cầu, mức độ, tính chất khác nhau về hoạt động tự học. Trong đó, sinh viên là một trong những giai đoạn đòi hỏi cao nhất, gắt gao nhất về hoạt động tự học, vì môi trường học tập của sinh viên là môi trường học tập tiệm cận nghiên cứu khoa học, mặt khác sinh viên hội tụ đầy đủ các điều kiện thuận lợi, cần thiết để tiến hành hoạt động tự học. Vì vậy, việc hình thành hoạt động tự học cho sinh viên phải được chú tâm ngay từ những sinh viên năm thứ nhất, đây là giai đoạn đặt nền tảng quan trọng cho quá trình học tập sau này. Nhưng muốn hình thành hoạt động tự học tích cực, hiệu quả, chúng ta cần phải có những nghiên cứu, tìm hiểu để thấy rõ được những nguyên nhân tạo ra sự hạn chế, trở ngại, tiêu cực trong quá trình tự học của sinh viên, từ đó đề xuất, xây dựng các biện pháp khắc phục hiệu quả. 2.Nội dung 2.1. Thực trạng hoạt động tự học của sinh viên năm thứ nhất khoa Sư phạm Toán- Tin, trường Đại Học Đồng Tháp hiện nay Thông qua tìm hiểu và bằng phương pháp điều tra số liệu, chúng tôi nhận thấy những nguyên nhân làm hạn chế hoạt động tự học của sinh viên năm thứ nhất khoa Sư phạm Toán-Tin, Trường Đại học Đồng Tháp như sau: 2.1.1. Nguyên nhân khách quan  Sinh viên chưa thích ứng với môi trường học tập mới, nghiên cứu ở Trường Đại học. Hơn 50% ý kiến các giảng viên khoa Sư phạm Toán-Tin,trường Đại học Đồng Tháp cho rằng việc này rất ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động tự học của sinh viên năm thứ nhất của Khoa. Nguyên nhân xuất phát từ việc thay đổi hình thức học tập cũng như phương pháp giảng dạy. 3  Ý thức tự học: việc kiểm tra bài cũ trước giờ học trên lớp như trước đây ở bậc phổ thông không còn nữa ở bậc Đại học. Điều này làm cho sinh viên trở nên lười xem lại hay học lại bài đã học trước khi lên lớp hay chưa có tác phong học tập đúng mực.  Tâm lý thụ động, ngại trao đổi với Thầy cô, bạn bè, thiếu tính tự giác: yêu cầu của giảng viên đối với sinh viên trong học tập cao hơn. Cụ thể khi lên lớp giảng viên chỉ dạy cáicốt lõi, tập trung cho lớp thảo luận những vấn đề trọng tâm. Điều này rất khác so với phổ thông, nó đòi hỏi sinh viên hoạt độngtích cực, độc lập để giải quyết vấn đề đặt ra. Tuy nhiên, phần lớn sinh viên quen với cách học “cầm tay chỉ việc” trước đây nên khi lên Đại học tính năng động, trách nhiệm tự giác của sinh viên năm thứ nhất chưa cao bằng các sinh viên năm thứ 2, thứ 3 hay thứ 4. Theo ý kiến của một số giảng viên khoa Sư Phạm Toán-Tin thì khi được giao bài tập thảo luận trên lớp, phần lớn sinh viên còn thụ động, chưa biết cách tổ chức thảo luận nhóm, và phải phụ thuộc vào hướng dẫn của người dạy. Hơn nữa, đối với các bài tập về nhà, đa số sinh viên chỉ học một mình và chỉ có bộ phận nhỏ là thành lập được nhóm học tập. Bên cạnh đó sinh viên còn ngại trao đổi thông tin với bạn cùng lớp, với giảng viên dạy bộ môn. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tiếp thu kiến thức của sinh viên bởi vì nếu sinh viên gặp vấn đề khó khăn mà họ không biết cách giải quyết sẽ dễ dẫn đến một số sinh viên chán nản việc học tập bài tiếp theo.  Ảnh hưởng của cách dạy theo truyền thống ở bậc phổ thông: trước đây học sinh học chủ yếu ở thầy, thầy nói trò nghe mà chưa có sự tác động ngược trở lại, trò trao đổi thầy...cũng gây ảnh hưởng nhiều đến chất lượng tự học của sinh viên năm nhất. Điều này được đưa ra bởi khoảng 50%ý kiến giảng viên khoa này. Mức độ tìm hiểu tài liệu trước khiđến lớp của sinh viên năm nhấtlà rất thấp khoảng 50%cho mức trung bình, còn lại 50% sinh viên rất ít chuẩn bị hay không chuẩn bị bài.  Chưa biết cách ghi chép, tóm tắt tài liệu có hiệu quả: khi nghe giảng phần lớn sinhviên chỉ chú trọng chép nội dung từ slide bài giảng- giáo trình của giảng viên, điều này gây ảnh hưởng đến việc tự học rất lớn, nhận định này đưa ra bởi 80%ý kiến chung của giảng viên khoa Sư phạm Toán-Tin.Khoảng 70% sinh viên năm nhất thường ghi chép tài liệu theo lối văn xuôi, chỉ khoảng 20% sinh viên dùng sơ đồ, kí hiệu để tóm tắt tài liệu học tập, còn lại khoảng 10% ghi vào sách, bài giảng.  Nguyên nhân tác động chưa đạt hiệu quả cao từ giảng viên: Nhìn chung cách đánh giá điểm cho từng học phần của nhiều giảng viên trong khoa Sư phạm Toán - Tin là có sự khác nhau,tùy theo từng môn học, có khi giảng viên đánh giá vào giữa môn học, cuối môn học hay cả quá trình. Tuy nhiên, nhìn chung phần lớn tập trung cho bài kiểm tra đánh giá môn học vào những thời điểm như giữa môn học hay cuối môn học. Tỷ lệ này chiếm cao khoảng 80%,một số giáo viên khác thì có thêm phần đánh giá tinh thần thái độ học tập, đánh giá mức độ tự học, tự nghiên cứu. Tuy nhiên những điều này vẫn chưa thể khơi gợi được toàn bộ quá trình tự học của sinh viên, nhất là đối với bộ phận sinh viên có sức ì quá lớn. Do đó hoạt động tự học của đa số sinh viên vẫn còn mang tính hình thức, 4 đối phó với các bài kiểm tra, sinh viên không có thói quen tự học hay chuẩn bị bài trước khi đến lớp.  Việc lựa chọn nguồn tài liệu tham khảo: Mặc dầu nguồn cung cấp tài liệu nhiều, đa dạng, phong phú, trong khi đó sinh viên năm thứ nhất lại chưa có nhiều năng lực và kỹ năng để khai thác, thu thập xử lí thông tin, chiếm lĩnh tri thức, biến nó thành cái kiến thức cần thiết cho bản thân. Ví dụ khi các em tìm hiểu về cách sử dụng thanh công cụ Toolbox để sử dụng cho lập trình Visual basic.Net thì các em lại xem nhầm tài liệu của Visua basic 6, hoặc tìm hiểu về nội dung Phân tích thiết kế hệ thống thông tin theo hướng chức năng thì các em lại xem Phân tích thiết kế hướng đối tượng, .điều này dẫn đến nội dung cần tìm hiểu bị sai lệch đi rất nhiều. Nguyên nhân là sinh viên chưa biết cách lựa chọn nguồn thông tin phù hợp, trên 50% ý kiến cho rằng đây cũng là một trong các yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tự học, chất lượng học tập của sinh viên, bởi vì nếu sinh viên tìm được nguồn tài liệu phù hợp cho môn học thì quá trình tự lĩnh hội tri trức trở nên ngắn hơn, hiệu quả học tập cao hơn.  Năng lực ngoại ngữ của sinh viên năm nhất chưa được trang bị tốt:Trong khi nguồn tài liệu tham khảo bằng Tiếng Anh đối với hai chuyên ngành Toán học và Tin học thì khá phổ biến. Với ngành Tin học, một số học phần rất hiếm có tài liệu tham khảo Tiếng Việt mà đa phần bằng Tiếng Anh, hay trên các diễn đàn Toán học quốc tế có rất nhiều thông tin bổ ích cho sinh viên học hỏi, trao đổi, học tập cho môn học. Tuy nhiên phần lớn các em chưa có khả năng đọc hiểu các tài liệu tài liệu tiếng anh này hay đọc rất chậm, ví dụ như từ trang wiki.math sinh viên có thể tra cứu nhiều thông tin Toán học bổ ích hay đối với học phần Nhập môn hệ điều hành Linux, khi lên lớp ngoài bài giảng của giảng viên đã soạn bằng Tiếng Việt thì phần lớn tài liệu tham khảo chủ yếu là từ các website bằng Tiếng Anh.  Số lượng và chất lượng giáo trình, tài liệu tham khảo của thư viện Trường chỉ đáp ứng nhu cầu học tập của sinh viên ở mức tương đối, chiếm khoảng 60% ý kiến từ giảng viên Khoa sư phạm Tóan - Tin. Điều này cũng ảnh hưởng cao đến hoạt động tự học của sinh viên .  Về trang thiết bị, máy tính phòng máycủa Trường đã trang bị cho sinh học tập và nghiên cứu, quản lí rất tốt, tất cả đều được kết nối mạng Intenet và có cả quy trình cho sinh viên đăng k ý mượn để sử dụng cho việc tự học tự nghiên cứu, thực hành tin học, nhưng đa số sinh viên ngại đến và số khác thì chưa nắm được quy trình mượn, nhất là khi các em học những học phần mà phần lớn mà tài liệu được tham khảo từ Internet, trong khi đa phần các em sinh viên năm nhất lại chưa được gia đình trang bị máy tính cá nhân.  Chưa có kinh nghiệm trong việc lập kế hoạch hoạt động và học tập, trong khi khối lượng học tập trên lớp khá nhiều. Ví dụ như chưa sắp xếp đựợc các buổi học nhóm để giải bài tập toán sau giờ lên lớp do nhiều lí do, mệt mõi hay một số lí do cá nhân như về quê vì nhớ nhà, đây cũng là thực tế xảy ra cho sinh viên năm thứ nhất. Thường thì ngoài việc các em học các môn học trong học kìbao gồm các môn đại cương, chuyên 5 ngành thì cũng cần đảm bảo các học phần điều kiện tiếng Anh, Tin học đáp ứng tiêu chuẩn đầu ra, trong khi khả năng nhiềusinh viên năm nhất chưa thích ứng được với việc học như vậy. Từ đó dẫn đến sinh viên không có thời gian tự đọc nghiên cứu tài liệu trước cũng như làm bài tập và mở rộng vấn đề sau giờ trên lớp. Bên cạnh đó, nhiều sinh viên không tự chủ động lựa chọn ngành nghề mình đang theo học, có thể do gia đình bắt buộc hoặc do kinh tế gia đình, hay do kết quả điểm các em không cao nên phải xét xét tuyển nguyệnvọng, dẫn đến các em chưa học hết khả năng, hay không hứng thú với ngành mình đang theo học. 2.1.2. Nguyên nhân chủ quan từ phía sinh viên Xuất phát từ tâm lý chán nản, thất vọng, tự ti, tiêu cực trong học tập của một bộ phận không nhỏ sinh viên làm ảnh hưởng đến cách thành viên khác. Nhiều sinh viên tổ chức được các nhóm học tập nhưng nhìn chung điều này chưa rộng rãi và chưa ổn định, còn mang tính nhỏ lẻ. Hầu như những đối tượng này là những sinh viên khá, giỏi. Đại bộ phận những sinh viên yếuít hoặc không tham gia học nhóm. Được biết từ các giảng viên khoa Sư phạm Toán - Tin có một vài nguyên nhân như là:  Nguyên nhân bất đồng trong hợp tác nhóm do khả năng hoạt động nhóm sinh viên năm thứ nhất không có hoặc yếu. Bên cạnh đó ý thức hoạt động nhóm của các em chưa cao, dù giáo viên đã đã hướng dẫn cách phối hợp, phân chia công việctrong nhóm nhưng một số em không có tinh thần trách nhiệm, ùn đẩy công việc cho các thành viên khác trong nhóm, từ đó dẫn đến việc chỉ làm bài tập nhóm mang tính đối phó cho xong, mà không có sự đầu tư, nghiên cứu, mở rộng cho chủ đề nhóm đang thực hiện.  Bộ phận nhỏ sinh viên không quan tâm đến môn học mà mình đang học. Điều đó thể hiện qua việc không biết đến nội dung đề cương môn mình đang học, thậm chí không biết tên giảng viên đang dạy, hay tên lớp học phần đang theo học.  Sinh viên năm nhất quen với việc sống phụ thuộc vào gia đình, họ thường về quê để được hỗ trợ tiền bạc học tập hay vì nhớ nhà, chưatự độc lập giải quyết vấn đề. Cụ thể khi giáo viên giao một vấn đề về nhà tự tìm hiểu thì sinh viên không biết phải tìm hiểu từ đâu, rất thụ động trong việc tìm kiếm, trao đổi với bạn bè mà phải đợi giáo viên chỉ dẫn từng bước cụ thể thì mới thực hiện được.  Một bộ phận sinh viên cho rằng năm thứ nhất là năm nghỉ ngơi sau quá trình học tập, thi cử mệt mỏi ở phổ thông nên không tích cực trong việc học tập, tự học, tự nghiên cứu. 2.2. Hệ thống giải pháp nâng cao hoạt động tự học cho sinh viên năm thứ nhất,Khoa Sư phạm Toán-Tin.  Đối với Khoa: 6  Liên chi Đoàn Khoa có thể tổ chức các câu lạc bộ Toán học, sân chơi Tin học nhiều hơn, trước đây thay vì 1 lần/1 năm thì có thể tăng lên 1 lần/3 tháng,các hoạt động vui chơi nhằm giúp sinh viên tự tin giao tiếp, mở rộng các mối quan hệ bạn bè, thầy cô, làm cầu nối cho việc học nhóm, trao đổi thông tin (về trường, về khoa,) cho sinh viên.  Khoa có thể tăng cường tổ chức các buổi trao đổi kinh nghiệm học tập giữa sinh viên năm nhất với với sinh viên các lớp anh chị một cách thường xuyên hơn, nhằm giúp sinh viên năm nhất có nhiều kinh nghiệm học tập từ các anh chị. Thường thì Khoa chỉ tổ chức 1 lần/năm với 1 buổi như vậy chỉ khoảng 3 đến 4 giờ, trung bình khoảng 7 tham luận kinh nghiêm của sinh viên, như vậy là quá ít so với những gì mà các sinh viên năm 2,3,4 đã tích lũy được. Như vậy để tăng hiệu quả Khoa có thể tổ chức trung bình 1 buổi/2 tháng, mỗi lần tổ chức Khoa sẽ lựa chọn các sinh viên chưa báo cáo lần nào để lên báo cáo kinh nghiệm.  Đối với giảng viên:  Chủ động, sáng tạo trong hình thức đánh giá môn học thường xuyên hơn: có thể cho sinh viên trả lời các phiếu câu hỏi trước và sau mỗi giờ học nhằm thúc đẩy sinh viên tự học, đồng thời tăng cường hướng dẫn rộng rãi sinh viên cách học trong môn mình phụ trách. Ví dụ: giảng viên giao các chủ đề “ứng dụng lý thuyết nhóm trong Toán học phổ thông”, “ứng dụng hình học cao cấp vào soi sáng hình học sơ cấp”, “thế nào là một website thành công?”,để sinh viên tìm hiểu. Sau đó, sinh viên báo cáo nhóm, giảng viên đánh giá.  Cần hướng dẫn, khơi gợi, giới thiệu cho sinh viên trong quá trình học (chứ không phải chỉ gửi nội dung tài liệu tham khảo trên đề cương chi tiết) các nguồn tài liệu tham khảo từ thư viện hay trên mạng Intenet. Ví dụ: giới thiệu các em nên đọc vài cuốn sách kinh điển về Toán học, Tin học như “giải bài toán như thế nào” của Polia, “các phản ví dụ trong giải tích”, Giảng viên trực tiếp giảng dạy hướng dẫn sinh viên năm nhất kĩ năng thu thập thông tin, giới thiệu các địa chỉ website như:  Giảng viên tăng cường trao đổi học tập với sinh viên thông qua Blackboard của trường, ra hệ thống câu hỏi, bài tập cụ thể,vừa sức sinh viên nhằm giúp sinh viên dễ dàng tự học.  Nhà Trường, Khoa, giảng viên khuyến khích sinh viên học tiếng Anh ngay từ năm đầu tiên nhằm đáp ứng nhu cầu ra trường và chủ yếu phục vụ việc tự học tốt hơn.  Hàng tháng, hàng quý, giáo viên bộ môn cũng cần tích cực hơn, chú trọng việc giới thiệu sách cho thư viện để họ có thể dựa vào đó mà cập nhật, bổ sung thường xuyên, đầy đủ, giúp sinh viên có được nguồn tài liệu phong phú và hiệu quả hơn cho việc tự học của các em.Thư viện Trường cần trang bị đầy đủ hơn nữa sách mới cho chuyên ngành Toán và Tin học về số lượng lẫn chất lượng, khuyến khích sinh viên đến đọc sách nhằm tăng cường hiệu quả việc đọc sách. 7  Giảng viên bộ môn cần giáo dục tư tưởng, bồi dưỡng tình cảm cho sinh viênthông qua môn học trên lớp hay thực hành. Từ đó các em tin tưởng và bày tỏ ý kiến hay ý tưởng học tập của mình, kịp thời giúp đỡ sinh viên khi có khó khăn để sinh viên nâng cao thức học tập của bản thân.  Ngoài ra giáo viên bộ môn có thể giới thiệu, hướng dẫn thêm các em quy trình mượn máy tính của trường để hỗ trợ cho việc học, tự nghiên cứu, giới thiệu cụ thể các nguồn sách tham khảo mà sinh viên có thể tìm đọc.  Đối với bộ phận tư vấn học tập, hay thông qua các bản tin của Trường, hay giờ lên lớp của giáo viên bộ môn: có thể hướng dẫn sinh viên cần chú trọng một số vấn đề sau:  Cách đọc sách Ở trường Đại học, sinh viên muốn đạt kết quả cao thì họ phải có ý thức đọc sách, đọc tài liệu khoa học, đọc tạp chí chuyên ngành, báo chí ( hiện nay Phòng Công tác sinh viên, Đoàn Thanh niên - Hội Sinh viên trường và Ban quản lý Ký túc xá Trường Đại học Đồng Tháp, phong trào đọc báo của sinh viên nội trú phát động phong trào đọc báo cho sinh viên nôi trú và cũng đang mang lại một số hiệu quả cho sinh viên. Điều này không chỉ giúp hoàn chỉnh những kiến thức đã tiếp thu được mà hơn thế sinh viên còn tự rèn luyện được cách học, cách đọc những tài liệu khoa học, phân biệt được đúng sai với thái độ có phê phán. Lợi ích đó không chỉ có ý nghĩa trong thời gian học ở trường mà còn có giá trị to lớn trong việc học suốt đời sau này. Đọc sách là công việc được coi trọng hàng đầu trong quá trình học tập. Thông qua việc đọc sách ta học được cách diễn đạt và trình bày từng vấn đề, nâng cao phẩm chất tư duy. Khi tiếp cận một cuốn sách sinh viên cần đọc phần giới thiệu hay lời tựa để nắm tư tưởng cốt lõi của cuốn sách, đọc phần mục lục để có sự khái quát chung về cuốn sách; Đọc từng phần cụ thể, đọc lướt rồi đọc sâu. Sau khi đọc, sinh viên phải hiểu và nắm nội dung đã học, suy nghĩ về những điều đã học và ghi lại, tự hỏi cuốn sách vừa đọc đã đem đến cho mình điều gì mới hay giải quyết được vấn đề gì? Khi đọc sinh viên cần ghi lại vấn đề chưa hiểu, nhất là xem các câu hỏi và hệ thống bài tập trong phần nội dung đang đọc để nắm được vấn đề chính, đồng thời cố gắng tìm câu trả lời cho chúng và ghi lại, tránh đọc suông. Hơn nữa, sinh viên cần tự đặt ra các câu hỏi dự đoán trước. Cụ thể, đối với các sách đại số sinh viên cần chú ý đến các cấu trúc nhóm, vành, trường. Ý tưởng chủ đại của các cách xây dựng cấu trúc đại số, các ứng dụng đại số trong đời sống, toán học sơ cấp,  Cách ghi chép khi đọc tài liệu Chuẩn bị đầy đủ các phương tiện cần thiết để sẵn sàng ghi chép. Điều này làm tăng sự tập trung tư tưởng trong lúc đọc sách. Nếu ghi chép để nắm những nội dung cơ bản thì có thể ghi tóm tắt nội dung tài liệu bằng công thức Toán học, sơ đồ logic của bản thân không phụ thuộc câu từ của tác giả. Đối với các môn chuyên ngành của ngành Sư phạm Toán học, do đặc thù của các môn học năm nhất có nhiều định nghĩa, định lý nên 8 sinh viên cần tóm tắt định nghĩa, ghi giả thuyết và kết luận của các định lý, mệnh đề, các bước lớn trong một chứng minh, ý tưởng chủ đạo của mỗi chứng minh.  Sự tích lũy hồ sơ nghề nghiệp Sinh viên xây dựng tủ sách môn học (ví dụ tủ sách Toán học, Tin học); Sưu tầm tích lũy những tài liệu lịch sử môn học (môn Toán với các bài toán vui, bài toán cổ). Tuy nhiên tư liệu ấy có thể chưa dùng được ngay mà phải sau một vài năm mới sử dụng đến mà vẫn còn nguyên ý nghĩa. Để thấy được điều này đòi hỏi sinh viên phải có tư duy trực giác sâu sắc thì mới phát hiện ra những tư liệu có giá trị cần ghi chép để tích lũy vào hồ sơ nghề nghiệp.  Cách học tập và nghiên cứu ở trên lớp Nội dung bài giảng của giảng viên chỉ cung cấp những vấn đề cơ bản nhất, những định hướng cần nghiên cứu chứ không phải là tất cả những gì có liên quan đến nội dung. Quá trình học tập, nghiên cứu trên lớp đòi hỏi sinh viên phải tích cực hợp tác cùng thầy khám phá, suy nghĩ để giải quyết các vấn đề khoa học. Do đó sinh viên cần nghiên cứu bài kĩ trước khi lên lớp nghe giảng (dựa vào đề cương chi tiết môn họcđể nắm nội dung sắp học và các yêu cầu của nội dung đó). Ghi chép là khâu không thể thiếu để nâng cao hiệu quả học trên lớp. Ngoài việc ghi bài học chính xác, rõ ràng (có thể sử dụng bút màu, hay viết highlight để làm nổi bật các tiểu mục). Ghi lại những chú ý của thầy, những ý kiến của sinh viên khác. Ghi chép nhanh và logic là hết sức cần thiết (có thể sử dụng các loại sơ đồ, kết hợp hình vẽ, kí hiệu, hay viết tắt) để nắm tốt các vấn đề và tranh thủ thời gian suy nghĩ vấn đề mới. Sinh viên cần tránh các khuynh hướng không tốt khi học tập, nghiên cứu trên lớp như thờ ơ với việc ghi chép thông tin vì cho rằng nội dung bài giảng đã có trong giáo trình hay ghi chép quá nhiều mà ít suy nghĩ, lựa chọn thông tin vì quan niệm học trong vở là đủ. Cần giải quyết tốt giữa nghe và ghi. Cụ thể, đối với các môn đại số và giải tích sinh viên nên dùng kí hiệu, công thức để ghi nhanh các ý chính, theo dõi các kĩ thuật chứng minh. Đối với các môn hình học, sinh viên nên dùng các hình vẽ, sơ đồđể ghi chú, minh họa, theo dõi các kĩ thuật tính toán, suy luận trong môn học.  Tự đánh giá về cách sử dụng thời gian tự học Với lợi thế về mặt sử dụng phần mềm, sinh viên của khoa sư phạm Toán – Tin có thể sử dụng phần mềm Microsoft Excel hoặc một số phần mềm khác để kiểm soát quĩ thời gian học tập, xây dựng kế hoạch tự học; Để làm được điều đó, sinh viên cần xác định rõ mục tiêu cá nhân và mục tiêu tự học, lên lịch, sắp xếp thời gian phản ánh mục tiêu đó. Có thể lập ra danh mục hoạt động: thời gian lên lớp, đọc giáo trình, tài liệu, seminar, hoạt động theo nhóm, viết và trình bày các báo cáo; Danh mục về cá nhân như thời gian giải trí, thể thao, thời gian cho người thân, bạn bèSau khi thiết kế mục tiêu thì tiến hành nghiên cứu cách sử dụng thời gian của mình. Khoảng hai, hay ba tuần một lần máy tính sẽ nhắc nhở sinh viên kiểm tra lại kế hoạch. Khi nghiên cứu cách sử dụng quĩ thời gian 9 xong, sinh viên sẽ thấy tính quy luật sử dụng thời gian của mình và đánh dấu những điểm nỗi bật. Điều này giúp sinh viên xác định cái gì họ cần làm nhiều hơn và ít hơn. 3. Kết luận Trên đây là những nguyên nhân và hạn chế của hoạt động tự học của sinh viên năm thứ I của khoa Sư phạm Toán – Tin, trường Đại học Đồng Tháp và các biện pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả của hoạt động tự học cho sinh viên. Theo phân tích nguyên nhân xuất phát theo hai hướng chủ quan và khách quan liên quan trực tiếp từ sinh viên và giảng viên trực tiếp giảng dạy hay do tác động xung quanh như môi trường học tập, các trang thiết bị. Tuy nhiên theo xu hướng dạy học hiện nay là người học đóng vai trò chủ đạo, vì thế người học cần tự học nhiều hơn nữa mới có thể đáp ứng được nhu cầu học tập ở bậc Đại học bên cạnh sự hỗ trợ giúp đỡ của các giảng viên giảng dạy và nhất là sinh viên năm thứ nhất cần nhận ra nhữnghạn chế về chủ quan của sinh viên vì đây là vấn đề sinh viên có thể tự điều chỉnh được, tự ý thức được. Từ đó mỗi sinh viên chủ động tìm cho mình những biện pháp phù hợp nhằmthúc đẩy năng lực tự học, nâng cao chất lượng học tập ở Đại học cũng như hoàn thiện bản thân trong cuộc sống sau này. 10 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Đào Tam, tiếp cận các phương pháp dạy học không truyền thống trong dạy học toán,NXB ĐạI HọCSư phạm, 2007. [2] Nguyễn Cảnh Toàn, Dạy-Tự học, NXB Giáo dục, 2011. [3] Nguyễn Thị Bích Hồng, Nguyễn Thị Tố Quyên, “Vai trò của việc hình thành kĩ năng sống cho học sinh thông qua môn Tự nhiên và Xã hội”, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Đồng Tháp, 2012. [4] Võ Thị Lan,“Một số biện pháp phát huy hiệu quả hoạt động tự học của sinh viên mầm non Trường Đại học Đồng Tháp”, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2009. [5] Vũ Ngọc Am, Về phương pháp, kĩ năng đọc sách, tìm kiếm tư liệu, Tạp chí tuyên giáo, số 9, 2009. [6] Kỉ yếu hội thảo, Phương pháp học của sinh viên khoa Tiểu học-Mầm non, Đồng Tháp, 11/05/2013. [7] Website Sở Giáo dục Đào tạo Bến Tre, hc-i-hc&catid=69:i-mi-phng-phap-dy-hc&Itemid=96 [8] Website trường Đại học Đông Á Đà Nẵng, eId/6827/Default.aspx

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhoat_dong_tu_hoc_cua_sinh_vien_nam_thu_nhat_khoa_su_pham_toan_tin_truong_dai_hoc_dong_thap_0812.pdf