Kết luận: Hoạt động tự học của sinh viên đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình dạy -học đại học nói chung và đặc biệt cần thiết trong phương thức đào tạo theo tín chỉ. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động tự học cần phải có sự quản lý sát sao của mọi người liên quan đến hoạt động tự học của sinh viên, đặc biệt giảng viên phải đổi mới phương thức tổ chức dạy học và đòi hỏi cao hơn tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của sinh viên trong việc thực hiện nhiệm vụ học tập của mình.
12 trang |
Chia sẻ: chaien | Lượt xem: 1687 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Hoạt động tự học của sinh viên khi trường chuyển sang đào tạo tín chỉ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hoạt động tự học của SV khi trường chuyển sang đào tạo tín chỉ
Đặt vấn đề
Sinh viên là những người đang theo học ở các trường đại học, cao đẳng - nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Thuật ngữ “Sinh viên” có nguồn gốc từ tiếng Latin là “Student” - có nghiã là người học tập, nghiên cứu, người đi tìm kiếm, khai thác tri thức. Khác với học sinh phổ thông, bên cạnh hoạt động chủ đạo là học tập, lĩnh hội tri thức của thầy, người sinh viên còn phải có nhiệm vụ tự học, tự nghiên cứu trên cơ sở tư duy độc lập. Về bản chất, quá trình học tập của sinh viên ở bậc đại học là quá trình nhận thức có tính nghiên cứu. Điều này đã được thể chế hóa trong Luật giáo dục như sau: “Phương pháp giáo dục đại học phải coi trọng bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng.”
Do vậy, dù ở phương thức đào tạo đại học nào, người sinh viên cũng cần phải có năng lực tự học, hay nói cách khác: “tự học là cách học ở bậc đại học”. Trong những năm gần đây, thực hiện chủ trương của đổi mới giáo dục đại học, nhiều trường đại học đã và đang triển khai mô hình đào tạo theo học chế tín chỉ. Phương thức đào tạo này coi trọng vai trò trung tâm của sinh viên, tạo cho sinh viên năng lực chủ động, sáng tạo trong phương pháp học của mình. Như vậy, một vấn đề đặt ra là hoạt động tự học của sinh viên trong phương thức đào tạo theo tín chỉ có những đặc điểm gì? Các yếu tố nào ảnh hưởng đến hoạt động tự học của sinh viên trong phương thức đào tạo này?
1. Khái quát về hoạt động tự học của sinh viên
a) Khái niệm tự học
Tự học (self - study) là sự nỗ lực chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng của bản thân của người học để hướng tới những mục đích học tập nhất định. Các nhà khoa học giáo dục đã nghiên cứu vấn đề tự học dưới nhiều góc độ [1], [4] nhưng một cách chung nhất có thể hiểu tự học là quá trình tự giác, độc lập, tích cực, sử dụng các năng lực trí tuệ, phẩm chất của bản thân người học để người học chiếm lĩnh được tri thức của nhân loại và những kinh nghiệm lịch sử xã hội, biến những tri thức đó thành sở hữu của mình, hình thành kỹ năng, thái độ và ngày càng hoàn thiện nhân cách của bản thân.
b) Hoạt động tự học của sinh viên hiện nay
Qua quá trình khảo sát thực tiễn, đa số sinh viên đều hiểu được vai trò quan trọng của tự học. Tuy nhiên, sức ì và tính thụ động của sinh viên còn rất lớn. Hoạt động tự học vẫn còn mang tính hình thức, đối phó với các bài kiểm tra. Theo số liệu khảo sát của sinh viên một số trường đại học, hầu hết các sinh viên được hỏi cho rằng tính chủ động trong học tập của sinh viên thấp. Có đến 75% ý kiến cho rằng sinh viên không có thói quen tự học, chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
Một thực tế hiện nay là sinh viên “rất lười đọc sách”. Mặc dù sách tham khảo đã được giảng viên hướng dẫn cụ thể ở từng nội dung bài học nhưng khi được hỏi về việc này, số đông sinh viên đều lúng túng. 85% cho rằng họ “có đọc” nhưng chỉ một số cuốn sách chuyên ngành khi phải trình bày, báo cáo hay làm bài kiểm tra. 15% còn lại cho rằng họ không đọc tài liệu tham khảo, có những sinh viên năm cuối chưa từng một lần đến thư viện tìm sách. Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển như hiện nay, nhiều sinh viên lựa chọn kênh thông tin từ các trang web. Điều này là tốt nhưng vì quá lạm dụng nên đại đa số sinh viên đã bỏ lỡ một kho tàng tri thức rất có giá trị từ sách tham khảo. Ngay cả khi tra cứu tài liệu trên Internet, sinh viên cũng chưa biết cách thu thập và xử lý khối lượng thông tin đa dạng đó như thế nào để thu được những kiến thức thật sự cần thiết và có hiệu quả.
Như vậy, một cách khái quát có thể thấy rằng nhiều sinh viên chưa nhận thức được đúng đắn về sự cần thiết của hoạt động tự học. Sinh viên chưa tự giác, tích cực, chủ động chiếm lĩnh tri thức cho mình mà còn thụ động, phụ thuộc nhiều vào những gì thầy dạy, không có nhu cầu mở rộng hiểu biết, phát huy sáng tạo, đào sâu kiến thức. Một số ít sinh viên có ý thức tự học thì kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin phục vụ nhiệm vụ học tập còn yếu. Phương pháp tự học theo kiểu đối phó, theo phong trào, học để thi vẫn là hình thức tự học phổ biến hiện nay. Liệu phương pháp học tập của sinh viên như vậy có thể đáp ứng với yêu cầu của phương thức đào tạo theo tín chỉ ở mức độ nào, đó là câu hỏi đặt ra đối với các nhà quản lý giáo dục.
2. Một số đặc điểm của hoạt động tự học trong phương thức đào tạo theo tín chỉ
Có thể khẳng định rằng: hoạt động tự học của sinh viên là một hoạt động không thể thiếu và đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình học tập ở bậc đại học. Tuy nhiên, trong các phương thức đào tạo khác nhau, hoạt động này lại có những nét đặc thù riêng. Sự khác biệt giữa hoạt động tự học trong học chế niên chế so với học chế tín chỉ được thể hiện ở một số điểm sau:
Trước hết, trong phương thức đào tạo theo niên chế, sinh viên tuân thủ theo một chương trình do nhà trường định sẵn của từng học kỳ, từng năm học, từng khóa học căn cứ vào thời khóa biểu. Khi chuyển sang phương thức đào tạo theo tín chỉ, kế hoạch học tập cụ thể phụ thuộc vào chính bản thân người học. Sinh viên có nhiệm vụ và quyền được lựa chọn môn học, thời gian học, tiến trình học tập nhanh, chậm phù hợp với điều kiện của mình. Phương thức này tạo cho sinh viên năng lực chủ động trong việc lập kế hoạch học tập khoa học, xác định thời gian, phương tiện, biện pháp để thực hiện các mục tiêu đề ra trong kế hoạch học tập đó. Khi đó người sinh viên phải ý thức xây dựng kế hoạch tự học, tự nghiên cứu sao cho quá trình học tập hiệu quả nhất.
Thứ hai, hình thức tổ chức dạy học trong phương thức tín chỉ qui định hoạt động tự học của sinh viên như là một thành phần bắt buộc trong thời khóa biểu và là một nội dung quan trọng của đánh giá kết quả học tập. Hoạt động dạy - học theo tín chỉ được tổ chức theo ba hình thức: lên lớp, thực hành và tự học. Trong ba hình thức tổ chức dạy học này, hai hình thức đầu được tổ chức có sự tiếp xúc trực tiếp giữa giảng viên và sinh viên (giảng viên giảng bài, hướng dẫn; sinh viên nghe giảng, thực hành, thực tập dưới sự hướng dẫn của giảng viên,..), hình thức thứ ba có thể không có sự tiếp xúc trực tiếp giữa giảng viên và sinh viên (giảng viên giao nội dung để sinh viên tự học, tự nghiên cứu, tự thực hành và sẵn sàng tư vấn khi được yêu cầu). Ba hình thức tổ chức dạy học tương ứng với ba kiểu giờ tín chỉ: giờ tín chỉ lên lớp, giờ tín chỉ thực hành và giờ tín chỉ tự học.
Hình thức tổ chức thực hiện một giờ tín chỉ
Lý thuyết
Thực hành, thí nghiệm, xemina
Tự học
Tổng
Chuẩn bị
Tự nghiên cứu
Giờ Lý thuyết
1
2
3
Giờ Thực hành
2
1
3
Giờ Tự học
3
3
Tùy thuộc tính chất đặc thù của từng môn học (mục tiêu, nội dung môn học) mà có các hình thức tổ chức dạy - học khác nhau. Có những môn học chỉ có một kiểu giờ tín chỉ, nhưng có những môn học có hai hoặc cả ba kiểu giờ tín chỉ. Trong mọi trường hợp, công thức tính cho mỗi môn học là không đổi:1+0+2 (môn học thuần lý thuyết); 0+2+1 (môn học thuần thực hành); 0+0+3 (môn học thuần tự học).
Cách tổ chức thực hiện một giờ tín chỉ cho chúng ta thấy một đặc điểm rất quan trọng góp phần tạo nên sự khác biệt với phương thức đào tạo truyền thống. Nếu hoạt động tự học trong học chế niên chế chỉ mang tính chất tự nguyện thì phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ coi tự học là một thành phần hợp pháp và bắt buộc phải có trong hoạt động học tập của sinh viên. Để học được 1 giờ lý thuyết hay 2 giờ thực hành, thực tập trên lớp sinh viên cần phải có 2 hay 1 giờ chuẩn bị ở nhà. Đó là yêu cầu bắt buộc trong cơ cấu giờ học của sinh viên.
Thứ ba, nội dung một bài giảng trong hệ thống tín chỉ thường gồm 3 thành phần chính:
- Phần nội dung bắt buộc phải biết (N1) được giảng trực tiếp trên lớp.
- Phần nội dung nên biết (N2) có thể không được giảng trực tiếp trên lớp mà giáo viên có trách nhiệm hướng dẫn cụ thể sinh viên tự học, tự nghiên cứu ở ngoài lớp.
- Phần nội dung có thể biết (N3) dành riêng cho tự học, chuẩn bị bài, làm bài tập, thảo luận nhóm, xemina, làm thí nghiệm và các hoạt động khác có liên quan đến môn học.
Như vây, kiến thức của mỗi môn học được phát triển thông qua những tìm tòi của người học dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ của giảng viên. Nếu sinh viên không tự học thì họ mới chỉ lĩnh hội được 1/3 khối lượng kiến thức của môn học và như vậy đồng nghĩa với việc họ không đạt được yêu cầu của môn học đó.
Ngoài ra, một điểm rất quan trọng, khác biệt với học chế niên chế là trong học chế tín chỉ, hoạt động tự học được kiểm tra, đánh giá thường xuyên thông qua các bài kiểm tra, bài tập, các buổi thảo luận trong suốt cả quá trình học.
Qua các phân tích trên đây, rõ ràng rằng trong phương thức đào tạo theo tín chỉ, hoạt động tự học của sinh viên trở thành hoạt động bắt buộc với các chế tài cụ thể qui định cho hình thức học tập này.
3. Các yếu tố thúc đẩy hoạt động tự học của sinh viên trong học chế tín chỉ
Thực trạng hoạt động tự học của sinh viên như đã phân tích trên đây là do tác động của nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nhưng dù là nguyên nhân gì thì hoạt động tự học như vậy không đáp ứng được với phương pháp đào tạo theo tín chỉ mà cần phải có những biện pháp nhằm tăng cường hoạt động này.
Chất lượng và hiệu quả của hoạt động tự học phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố trực tiếp và gián tiếp. Trong đó chúng ta phải thừa nhận vai trò đặc biệt quan trọng của giảng viên, sinh viên và điều kiện phục vụ tự học trong việc đẩy mạnh hoạt động tự học của sinh viên
a) Vai trò của giảng viên đối với hoạt động tự học của sinh viên trong phương thức đào tạo theo tín chỉ
Giảng viên đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong việc định hướng và kích thích ý thức tự học cho sinh viên. Không phải giảng viên chỉ có nhiệm vụ quan trọng trong những giờ lên lớp còn những giờ tự học, tự nghiên cứu của sinh viên thì không cần can thiệp. Ngược lại, đối với hoạt động tự học của sinh viên, giảng viên phải quan tâm hơn. Đối với hoạt động tự học, giảng viên cần kịp thời tư vấn khi sinh viên cần.
Một số nhiệm vụ chính của giảng viên đối với hoạt động tự học của sinh viên như sau:
* Giúp sinh viên nắm được đề cương môn học
Khi bắt đầu một môn học, giảng viên cần giới thiệu và cung cấp cho sinh viên đề cương của môn học đó. Nội dung của đề cương bao gồm: Mục đích môn học, Mục tiêu môn học, Nội dung chi tiết của môn học, Điều kiện tiên quyết, Hình thức tổ chức và phương pháp dạy - học cho từng nội dung của môn học, Hình thức kiểm tra - đánh giá của từng hoạt động học tậpQua đó, sinh viên chủ động lên kế hoạch tự học, tự nghiên cứu để thực hiện được các mục tiêu của môn học. Giảng viên cần phải tuân thủ theo đúng kế hoạch trong đề cương và yêu cầu sinh viên nghiêm túc thực hiện đề cương này.
* Xác định rõ nội dung tự học và phương tiện để thực hiện nội dung đó
Trong đào tạo theo tín chỉ, nội dung N2, N3 như đã đề cập ở trên là những nội dung của hoạt động tự học. Giảng viên cần thiết kế các nhiệm vụ tự học cụ thể cho sinh viên để họ có thể tự chiếm lĩnh được các nội dung này, đáp ứng mục tiêu và yêu cầu của từng bài học trong một khoảng thời gian định trước. Để giúp sinh viên thực hiện được nhiệm vụ tự học của mình, giảng viên cần giới thiệu đầy đủ các tài liệu bắt buộc, tài liệu tham khảo, cách thu thập, tra cứu và xử lý thông tin trong tài liệu với những hướng dẫn chi tiết, cụ thể. Bên cạnh đó, giảng viên cần tăng cường hướng dẫn, giúp đỡ sinh viên xây dựng kế hoạch tự học khoa học, hợp lý, phù hợp với điều kiện của mình để đạt tới đích một cách hiệu quả nhất.
* Kiểm tra - đánh giá hoạt động tự học của sinh viên
Trong phương thức đào tạo theo tín chỉ, khi hoạt động tự học là một thành phần bắt buộc trong cơ cấu thời khóa biểu thì cần phải có các hình thức kiểm tra - đánh giá hoạt động này. Nếu giảng viên chỉ giao nhiệm vụ tự học mà không tổ chức kiểm tra, đánh giá thì hoạt động học tập này chỉ mang tính hình thức, đối phó mà không đem lại kết quả như mong muốn. Giảng viên thường xuyên đánh giá sinh viên trong suốt quá trình của môn học thông qua các hình thức kiểm tra đa dạng như bài tập cá nhân (tuần); bài tập nhóm (tháng); bài tập lớn (học kỳ thông thường là một bài tổng luận về môn học) và các bài thi giữa kỳ, cuối kỳ. Qua đó hình thành cho sinh viên cách làm việc nghiêm túc, tính tích cực và ý chí phấn đấu vươn lên để đạt kết quả cao trong học tập
b) Vai trò của sinh viên đối với hoạt động tự học trong phương thức đào tạo theo tín chỉ
Bên cạnh sự hướng dẫn của giảng viên, sự quản lý của nhà trường thì hoạt động tự học chỉ có thể thực sự đem lại hiệu quả khi có sự nỗ lực của bản thân chủ thể tham gia, đó chính là sinh viên. Khi chuyển sang phương thức đào tạo theo tín chỉ, sinh viên phải thay đổi nhận thức, xóa bỏ sức ỳ để có những phương pháp học tập tích cực, thái độ tự chủ- tự chịu trách nhiệm nhằm thích ứng với những yêu cầu học tập mới.
Một số nhiệm vụ chính của sinh viên đối với hoạt động tự học như sau:
- ChuÈn bÞ tèt vÒ ®éng c¬, th¸i ®é häc tËp, tinh thÇn tr¸ch nhiÖm, tự lực cánh sinh ®Ó "tù chñ, tù chÞu tr¸ch nhiÖm" trong häc tËp mét c¸ch chñ ®éng vµ hiÖu qu¶.
- Nắm vững mục tiêu của môn học và mục tiêu của từng bài học (mà thông thường được mô tả khá kỹ trong đề cương môn học được cung cấp khi bắt đầu học môn học) để làm cơ sở xây dựng kế hoạch tự học phù hợp và nghiêm túc thực hiện kế hoạch đó.
- Đảm bảo hoàn thành các nhiệm vụ tự học, tự nghiên cứu trước giờ lên lớp: đọc tài liệu, làm các bài tập, bài kiểm tra, thảo luận nhóm theo yêu cầu của giảng viên.
- Trong quá trình tự học, sinh viên cần suy nghĩ, sáng tạo và mạnh dạn đưa ra những ý kiến, nhận xét, thắc mắc của mình mà không quá phụ thuộc vào tài liệu và những bài giảng của giảng viên.
c) Tăng cường các điều kiện phục vụ tự học của sinh viên
Hoạt động tự học của sinh viên không thể thực hiện tốt nếu không đảm bảo các điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất: phòng học, trang thiết bị học tập, nguồn học liệu Trong đó hệ thống nguồn học liệu đầy đủ về số lượng, phong phú về nội dung và chuẩn mực về chất lượng là một yêu cầu không thể thiếu trong hoạt động tự học của sinh viên. Nhận thức được vai trò quan trọng của yếu tố này, các nhà trường cần có kế hoạch để không ngừng cải thiện điều kiện cơ sở vật chất của mình như:
- Củng cố, nâng cấp, mở rộng hệ thống phòng học, phòng thí nghiệm - thực hành - thực tập, thư viện; bám sát yêu cầu cúa các đề cương môn học để chuẩn bị các học liệu được coi là bắt buộc ghi trong đề cương môn học
- Tăng cường khả năng khai thác các tiện ích của mạng nội bộ, mở rộng nguồn tư liệu điện tử, thiết bị dạy học bằng cách ứng dụng các thành tựu công nghệ thông tin hiện đại.
Ngoài các điều kiện về cơ sở vật chất, khi xem xét các điều kiện phục vụ hoạt động tự học, các nhà quản lý cũng cần quan tâm tới các điều kiện phục vụ, thái độ phục vụ sinh viên của các bộ phận chuyên trách, các chính sách hỗ trợ của nhà trường để tạo cho sinh viên một môi trường học tập tốt nhất.
Kết luận: Hoạt động tự học của sinh viên đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình dạy -học đại học nói chung và đặc biệt cần thiết trong phương thức đào tạo theo tín chỉ. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động tự học cần phải có sự quản lý sát sao của mọi người liên quan đến hoạt động tự học của sinh viên, đặc biệt giảng viên phải đổi mới phương thức tổ chức dạy học và đòi hỏi cao hơn tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của sinh viên trong việc thực hiện nhiệm vụ học tập của mình.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoat_dong_tu_hoc_cua_sv_khi_truong_chuyen_sang_dao_tao_tin_chi_4687.docx