TÀI LIỆU CÓ 158 TRANG
Câu 1: Các khái niệm cơ bản của Giáo dục học.
Muốn nghiên cứu Giáo dục học có kết quả, một trong những điều kiện quan trọng là chúng ta phải nắm vững các kiến thức công cụ, mà trước hết là các phạm trù, các kiến thức cơ bản.Chỉ có như vậy chúng ta mới có cơ sở để thực hiện các hoạt động nghiên cứu, phát triển được tư duy khoa học trong lĩnh vực này. Việc nắm vững các khái niệm của Giáo dục học không chỉ có ý nghĩa đối với các nhà nghiên cứu mà còn đối với tất cả những ai tham gia vào hoạt động Giáo dục.
Sau đây chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu một số khái niệm cơ bản:
Giáo dục (theo nghĩa rộng):
Là sự hình thành nhân cách được tổ chức một cách có mục đích, có tổ chức thông qua các hoạt động và các quan hệ giữa nhà Giáo dục với người được giáo dục nhằm giúp người được giáo dục chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội của loài người.
Để hiểu rõ hơn khái niệm Giáo dục (theo nghĩa rộng) cần làm sáng tỏ khái niệm nhân cách và khái niệm xã hội hoá con người.
Hình thành nhân cách: Đó là quá trình phát triển con người về mặt sinh lý, tâm lý và mặt xã hội, mang tính chất tăng trưởng về lượng và biến đổi về chất. Quá trình này diễn ra do ảnh hưởng của các nhân tố bên trong (bẩm sinh, di truyền, tính tích cực của chủ thể ), và các nhân tố bên ngoài (ảnh huởng của hoàn cảnh tự nhiên và hoàn cảnh xã hội, tác động giáo dục), do ảnh hưởng của các tác động tự phát, ngẫu nhiên (tác động bên trong, bên ngoài chưa được kiểm soát, điều khiển) và các tác động có mục đích, có tổ chức (kiểm soát được, điều khiển được). Quá trình này làm biến đổi đứa trẻ với những tư chất vốn có của con người thànhmột nhân cách.
Xã hội hoá con người: Đó là quá trình có tính chất xã hội hình thành nhân cách. Quá trình này chỉ bao hàm các tác động do những nhân tố xã hội; xã hội tác động một cách có mục đích, có tổ chức tới cá nhân, mặt khác cá nhân tích cực tái sản xuất các mối quan hệ xã hội bằng hoạt động, bằng sự tham gia tích cực vào môi trường xã hội. Từ đó, giáo dục nói một cách khác là sự xã hội hoá con nguời chỉ dưới những tác động có mục đích và có tổ chức.
Giáo dục (theo nghĩa hẹp):
Đó là một bộ phận của quá trình sư phạm, là quá trình hình thành những cơ sở khoa học của thế giới quan, niềm tin, lý tưởng, động cơ, tình cảm, thái độ, những tính cách, những hành vi, thói quen cư xử đúng đắn trong xã hội, kể cả việc phát triển và nâng cao thẻ lực.
Chức năng trội của quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp) chỉ được thực hiện trên cơ sở vừa tác động đến ý thức, vừa tác động đến tình cảm và hành vi.
Giáo dưỡng (hay trau dồi học vấn):
Dưới góc độ là quá trình thì đó là quá trình con người lĩnh hội hệ thống tri thức nhất định về khoa học tự nhiên, xã hội và về tư duy.
Dưới góc độ kết quả lĩnh hội thì đó là trình độ học vấn, nghĩa là trình độ tri thức, kỹ năng kỹ xảo đã được lĩnh hội, chẳng hạn như người ta nói trình độ THPT cơ sở, trình độ Đại học Chức năng trội của nó là sự tác động đến ý thức là chính.
Dạy học - Đó là con đường, phương tiện của giáo dưỡng (trau dồi học vấn) và giáo dục (nghĩa hẹp):
Dưới góc độ quá trình thì dạy học là quá trình tác động qua lại giữa giáo viên và học sinh, điều khiển hoạt động tâm lý của học sinh để giúp họ tự giác, tích cực, chủ động chiếm lĩnh tri thức khoa học, những kỹ năng, kỹ xảo hoạt động nhận thức và thực tiễn, trên cơ sở đó phát triển năng lực nhận thức và hình thành thế giới quan khoa học cho họ.
________________________________________
158 trang |
Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 4741 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hệ thống các câu hỏi ôn tập môn giáo dục học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gia phong trào thi đua với động cơ đúng đắn, sáng tạo nhiều hình thức mới mẻ, hấp dẫn, so sánh công khai những kết quả đạt được trong thi đua, tiến hành sơ tổng kết, thi đua đều đặn, biểu dương, khen thưởng công bằng và thích đáng các cá nhân và tập thể đạt thành tích cao hoặc nhiều nỗ lực trong thi đua.
* Phương pháp khen thưởng : Đó là phương pháp biểu thị sự đánh giá tích cực của xã hội đối với hành vi ứng xử và hoạt động của từng học sinh hoặc của tập thể học sinh được khen. Học sinh qua đó cảm thấy hài lòng, phấn khởi, có thêm nghị lực, tự tin vào sức lực của mình và có mong muốn tiếp tục thực hiện hành vi đó.
Không nên cho rằng việc biểu dương, khen thưởng bất kỳ ở đâu và bất kỳ lúc nào cũng có ích. Ý nghĩa giáo dục của khen thưởng càng lớn, nếu khi khen thưởng không chỉ đánh giá kết quả mà cả động cơ và phương thức hoạt động. Cần tạo cho học sinh biết quý trọng bản thân sự việc được khen chứ không chỉ coi trọng giá trị của lời khen và vật được thưởng. Cần chú ý khen những học sinh nhút nhát và thiếu tự tin. Cần đặc biệt chú ý đảm bảo tính khách quan, sự công minh khi khen thưởng. Cần luôn nhớ rằng khen thưởng là để người được khen thưởng cố gắng hơn nữa.
* Phương pháp trách phạt: Đó là phương thức biểu thị sự không tán thành, lên án, phủ định của giáo viên, của tập thể, của xã hội đối với hành vi của cá nhân, của tập thể học sinh trái với những chuẩn mực ứng xử xã hội để buộc cá nhân hay tập thể đó từ bỏ những hành vi có hại cho xã hội và bản thân, và điều chỉnh sự ứng xử theo chuẩn mực đã định.
Hình thức trách phạt trong nhà trường của chúng ta là: Nhận xét của giáo viên; Phê bình vào sổ liên lạc; Gọi lên hội đồng của giáo viên để khuyên bảo, phê bình; Cảnh cáo thông báo trong toàn trường; chuyển sang lớp khác cùng khối, đuổi ra khỏi trường, gửi tới các trường cải tạo trẻ hư.
Cách vận dụng phương pháp trách phạt: Mục đích của trách phạt là giúp nguời làm điều sai trái sửa chữa lỗi lầm nên phải giúp họ hiểu rõ hành vi sai trái ở chỗ nào, gây tác hại gì cho người khác và cho bản thân, và cần phải hành động như thế nào. Trách phạt công minh, có thiện ý, tôn trọng nhân cách không được gây đau đớn về thể xác, sỉ nhục nhân cách người phạm tội. Song đôi khi cũng phải áp dụng những biện pháp để người có lỗi chịu "hậu quả tự nhiên" do việc làm sai trái của mình.
Những yêu cầu chung về mặt sư phạm đối với phương pháp khen thưởng và trách phạt:
- Khen thưởng và trách phạt là những phương pháp trực tiếp đụng chạm mạnh mẽ đến nhân cách người được giáo dục. Bởi vậy nhà giáo dục cần nhớ rằng không phải khen hay chê, thưởng hay phạt một nhân cách mà là khen hay chê, thưởng hay phạt những hành động đúng hay sai, tốt hay xấu mà thôi.
- Khen thưởng hay trách phạt phải cơ động hay cá biệt, chú ý đến hoàn cảnh nảy sinh hành vi, đặc điểm lứa tuổi và cá nhân của học sinh.
- Sức mạnh giáo dục của khen thưởng và trách phạt phụ thuộc vào chỗ ai khen, ai phạt, giáo viên có uy tín nhiều hay ít, hiệu trưởng, đoàn thể xã hội, hội đồng sư phạm... Sức mạnh của dư luận xã hội ở trong khen chê là rất lớn.
- Khen thưởng và trách phạt, cũng như mọi kích thích, phải được sử dụng có chừng mực về tần số cũng như về cường độ, không thể áp dụng mãi cho một số người cùng một hình thức, vì như vậy sẽ dẫn đến hiện tượng "thích nghi" hoặc "chai sạn".
- Khen thưởng và trách phạt có thể sử dụng cho từng cá nhân cũng như cho cả tập thể.Nếu việc khen thưởng cả tập thể thường có nhiều tác dụng tích cực, thì việc trách phạt cả tập thể đôi khi cũng dẫn đến những hậu quả không hay ( bao che, dung túng cho nhau, đồng tình với những điều sai trái...).
- Khen thưởng và trách phạt trong nhà trường chúng ta là biểu thị của những đòi hỏi đối với con người và sự tôn trọng con người. Do đó cần khen thưởng những cố gắng nỗ lực của người đó, và trong trách phạt, phải loại bỏ mọi phương pháp, phương tiện, thái độ hạ thấp nhân phẩm con người.
Câu 14: Phân tích các giai đoạn phát triển của tập thể học sinh. Tại sao người giáo viên phải nghiên cứu các giai đoạn phát triển của tập thể học sinh?
* Các giai đoạn phát triển của tập thể học sinh:
Quá trình phát triển của một tập thể là quá trình lâu dài, quá trình này diễn biến theo từng giai đoạn, được đặc trưng bởi nhiều dấu hiệu, trong đó nổi bật hai dấu hiệu sau:
+ Ai đề ra yêu cầu (nêu nhiệm vụ, đề xuất cách giải quyết) đối với tập thể: Giáo viên, phụ trách Đội, cán bộ chi đoàn, cán bộ lớp đề ra hay các thành viên của tập thể tự đề ra.
+Các thành viên của tập thể chấp nhận những yêu cầu đó như thế nào (tự giác, tự nguyện, tự động...) và thực hiện những đòi hỏi đó với những động cơ đạo đức như thế nào? (Vì mục đích xã hội, vì vinh dự tập thể...)
Cả hai đặc trưng nói trên phản ánh mặt bên ngoài cũng như mặt bên trong của sự vận động của tập thể.
Xét theo đặc trưng thứ nhất, sự phát triển của tập thể thường trải qua ba giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Nhà giáo dục cần và có thể đề ra yêu cầu đối với học sinh. Những yêu cầu này có tính chất kiên quyết về mặt hình thức, rõ ràng về mặt nội dung và ít nhiều có tính chất gợi ý.
+ Giai đoạn hai: Là giai đoạn mà các cán bộ lớp, Đoàn, Đội, các phần tử tích cực của tập thể đề ra yêu cầu đối với bạn mình, và tự đề ra yêu cầu đối với mình.
+ Giai đoạn 3: Là giai đoạn mà tập thể tự đề ra yêu cầu đối với mình, đoàn kết lại trong một thể thống nhất. Đó cũng là lúc từng thành viên trong tập thể tự đề ra yêu cầu xã hội đối với mình và tự lựa chọn các cách ứng xử phù hợp với yêu cầu đó. Tóm lại, con đường từ chỗ nhà giáo dục đề ra yêu cầu kiên quyết đến chỗ mỗi thành viên tự giác, tự động đề ra yêu cầu cho bản thân ttrên cơ sở những yêu cầu của tập thể là con đường cơ bản của sự phát triển của tập thể học sinh.
* Tại sao người giáo viên phải nắm được các giai đoạn phát triển của tập thể học sinh?
Biết rõ tập thể mà mình đang tiến hành dạy học, giáo dục đang ở giai đoạn phát triển nào và qua đó có những biện pháp tổ chức, biện pháp tác động giáo dục, cách đề ra yêu cầu phù hợp với tình hình phát triển của tập thể, có cách bố trí, bồi dưỡng cán bộ phù hợp với tình hình. Cụ thể là:
- Ở giai đoạn tập thể vừa mới hình thành, chức năng chủ yếu của giáo viên là tổ chức: Tổ chức các cơ cấu và quan hệ trong tập thể, tổ chức triển khai các hoạt động của tập thể theo mục đích yêu cầu do giáo viên đề ra, tổ chức và phát hiện các phần tử tích cưc.
Trong giai đoạn này, tập thể là mục đích của những nỗ lực sư phạm của nhà giáo dục, nhằm biến một đơn vị vừa được tập hợp lại (lớp, chi đội, chi đoàn, tổ ngoại khoá...) thành một cộng đồng về mặt xã hội, tâm lý, trong đó quan hệ giữa các thành viên đã được thiết lập thông qua các hoạt động chung và các quan điểm, đánh giá, xúc cảm của họ được xem xét theo các chuẩn mực chính trị - đạo đức XHCN, đã có điều kiện để xích lại gần nhau hơn.
Mở đầu giai đoạn này, nhà giáo dục thường đề ra trước học sinh những mục đích có tính chất xã hội của cuộc sống tương lai, đồng thời đề ra những mục đích riêng. Muốn vậy, phải cần thu thập những thông tin về hứng thú, nguyện vọng của học sinh, về những quan niệm đạo dức, văn hoá, kinh nghiệm của họ, về công việc của tập thể và các mối quan hệ của tập thể.
Sau đó, giáo viên tổ chức một số hoạt động chung của tập thể nhằm làm cho các thành viên gần gũi nhau hơn và hiểu nhau hơn. Thông qua hoạt động chung của tập thể mà giáo viên và học sinh phát hiện ra ai là những người tích cực, ai là những người chưa tích cực.
Kết thúc giai đoạn này, tập thể cử được cơ quan điều khiển do các thành viên bầu ra do sự hướng dẫn khéo léo của giáo viên. Những quan hệ phụ thuộc về trách nhiệm đã được hình thành.
- Ở giai đoạn 2, bước vào giai đoạn này, do thái độ khác nhau đối với sự hưởng ứng và thực hiện những yêu cầu của giáo viên, học sinh trong tập thể đã phân hoá thành các loại khác nhau: Loại tích cực, gương mẫu thực hiện những nhiệm vụ chung của tập thể hợp thành đội ngũ cốt cán. Đồng thời, những người này cũng biết đòi hỏi các bạn cùng lớp thực hiện những yêu cầu đã đề ra. Loại thứ hai là những học sinh thụ động, sẵn sàng thực hiện những yêu cầu đã đề ra nếu giáo viên và tập thể đề ra yêu cầu. Loại thứ ba là loại học sinh dửng dưng với công việc chung, với lợi ích chung nhưng không chống lại những công việc giáo viên hoặc tập thể đề ra và thực hiện. Đặc biệt có loại học sinh "cá biệt", mất trật tự, vô kỷ luật, hay quấy phá, gây trở ngại cho việc tổ chức và tiến hành các công việc chung của tập thể.
Ở giai đoạn này, giáo viên và các thành viên tích cực cần chú ý lôi cuốn các học sinh thụ động ủng hộ các phần tử cốt cán và cũng cần phải đề ra các yêu cầu đối với tập thể. Cơ quan điều khiển - bộ phận tích cực của tập thể đã được hình thành, tích cực ủng hộ, tổ chức thực hiện các yêu cầu và các chỉ dẫn của nhà giáo dục đối với hoạt động của tập thể. Những đòi hỏi của nhà giáo dục dưới dạng khuyên bảo, gợi ý, đề nghị đều thông qua các phần tử tích cực và biến thành yêu cầu của cơ quan điều khiển. Chức năng của nhà giáo dục chuyển dần từ chỗ trực tiếp tổ chức mọi công việc của tập thể sang chức năng tổ chức và giáo dục các thành viên tích cực, đặc biệt là việc giúp đỡ các cán bộ của tập thể đề ra các yêu cầu đối với tập thể, qua đó mà xây dựng uy tín của các phần tử tích cực của tập thể, hoàn thiện hệ thống các mối quan hệ trong tập thể cơ quan lãnh đạo và các nhóm nhỏ với tập thể lớn. Đó là nhiệm vụ chủ yếu của nhà giáo dục trong giai đoạn này.
- Giai đoạn thứ 3 là giai đoạn mà những yêu cầu của nhà giáo dục đã trở thành yêu cầu của toàn thể học sinh. Toàn tập thể đã đề ra yêu cầu đối với bản thân, đa số các thành viên của tập thể đều tham gia các loại hoạt động khác nhau do tập thể tổ chức và đều trở thành mạng lưới tích cực trong các hoạt động đó.
Đến giai đoạn này, tập thể đã phát huy đầy đủ chức năng giáo dục của mình thông qua dư luận chung, những đánh giá chung căn cứ vào những định hướng giá trị đạo đức đã được tập thể thừa nhận.
Vị rí của nhà giáo dục ở giai đoạn này hầu như chỉ ở hậu trường để điều khiển với tư cách là nguời cố vấn. Phần lớn thời gian của giáo viên dành cho việc nghiên cứu, theo dõi sự phát triển của tập thể cũng như của từng cá nhân để giúp đỡ cơ quan tự quản xác định những mục đích và phương tiện hoạt động của tập thể.
Tóm lại, người giáo viên phải nắm vững các giai đoạn phát triển của tập thể học sinh mới xác định cho mình vị trí, chức năng phù hợp với từng giai đoạn đó. Nhờ vậy mà tạo cho tập thể phát triển nhanh, mạnh và đúng hướng.
Câu 15: Hãy trình bày nội dung, phương pháp và kế hoạch công tác của giáo viên chủ nhiệm lớp.
* Nội dung và phương pháp công tác của giáo viên chủ nhiệm lớp:
Nội dung và phương pháp công tác của giáo viên chủ nhiệm lớp tuỳ theo đối với cá nhân và tập thể học sinh, với giáo viên bộ môn dạy ở lớp mình và vói cha mẹ học sinh của lớp.
Riêng đối với cá nhân và tập thể học sinh, nội dung và pgương pháp của giáo viên chủ nhiệm lớp bao gồm những công việc cụ thể sau:
1) Tìm hiểu và nắm vững đối tượng giáo dục:
1.1.Ý nghĩa của nội dung công việc này đã được K.Đ.Usinxki nêu lên hết sức sâu sắc. Theo ông, muốn giáo dục con người về mọi mặt thì phải hiểu con người về mọi mặt. Người học vừa là đối tượng giáo dục, nhưng đồng thời cũng là chủ thể giáo dục với tính năng động có ý thức của họ. Để giáo dục họ, nhà giáo dục phải hiểu họ một cách toàn diện và cụ thể, từ đó mới có những tác động sư phạm thích hợp không thì những tác động sư phạm được lựa chọn không mang lại hiệu quả giáo dục như mong muốn, thậm chí còn thất bại.
1.2.Nội dung tìm hiểu và nắm vững đối tượng giáo dục bao gồm những điểm sau:
Tìm hiểu và nắm được các đặc điểm cơ bản về tâm lý, tư tưởng chính trị, đạo đức, năng lực nhận thức, thể lực, khả năng và ý thức lao động, về hoàn cảnh sống và các mối quan hệ với tập thể và những người xung quanh... Qua đó mà thấy được mặt mạnh, mặt yếu cơ bản và nguyên nhân của nó, của từng cá nhân học sinh cũng như của cả lớp.
1.3.Phương pháp tìm hiểu và nắm vững đối tượng giáo dục có thể sử dụng những cách sau:
- Nghiên cứu hồ sơ học sinh (học bạ, y bạ, sơ yếu lý lich, các bản tự nhận xét và đánh giá định kỳ của học sinh ở những năm học trước...).
- Nghiên cứu các sản phẩm học tập, lao động của học sinh ( bài làm, báo tường, nhật ký, các sản phẩm lao động...).
- Nghiên cứu các sổ sách, giấy tờ của lớp (sổ điểm danh, sổ điểm, sổ biên bản sinh hoạt lớp, tổ, các giấy khen và bằng khen...).
Quan sát hàng ngày về thái độ, về hoạt động và hành vi của học sinh ở trong lớp, ngoài lớp, trong trường và ngài trường.
- Trò chuyện, trao đổi với cá nhân và tập thể học sinh, với các giáo viên, các cán bộ Đoàn, Đội về những vấn đề cần phải tìm hiểu.
- Thăm gia đình học sinh và trò chuyện với các bậc phụ huynh.
- Tiến hành thực nghiệm tự nhiên...
Nhờ vậy mà giáo viên chủ nhiệm lớp nắm vững được đặc điểm của từng cá nhân cũng như tập thể học sinh và quá trình phát triển của họ cũng như những nguyên nhân cơ bản tương ững. Điều đó tạo nên tiền đề quan trọng để công tác giáo dục học sinh đạt hiệu quả.
Cần chú ý rằng việc tìm hiểu học sinh là công việc phải thực hiện thường xuyên, nghiêm túc và khoa học.
2) Xây dựng và phát triển tập thể học sinh:
2.1.Ý nghĩa của việc xây dựng và phát triển tập thể học sinh:
Tập thể học sinh được xem như môi trường, như phương tiện giáo dục học sinh, trong đó mỗi thành viên của nó có điều kiện thuận lợi để phát triển nhân cách.
Theo nhà giáo dục nổi tiếng A.X.Macarenco, tập thể là một cơ thể xã hội sinh động thể hiện sức mạnh tổng hợp của các thành viên của nó. Sức mạnh của các thành viên một khi đã liên kết lại một cách có mục đích, có tổ chức thì sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả tập thể, mạnh hơn rất nhiều lần so với tổng số sức mạnh của các thành viên.
Vì vậy giáo viên chủ nhiệm lớp phải đặc biệt quan tâm phát triển tập thể học sinh.
2.2.Nội dung và phương pháp xây dựng và phát triển tập thể học sinh:
- Giáo viên chủ nhiệm cần đề ra những yêu cầu thống nhất, nhất quán, hợp lý, vừa sức cho học sinh, phù hợp với yêu cầu chng của nhà trường và chú ý tới đặc điểm, điều kiện cụ thể của lớp mình. Những yêu cầu này được coi là công cụ điều khiển, lãnh đạo học sinh, có tác dụng định hướng và điều khiển hành vi của họ.
Khi đề ra yêu cầu, giáo viên chủ nhiệm cần giải thích cho học sinh hiểu đúng và đầy đủ những tiêu chuẩn, những quy tắc hành vi được thể hiện trong yêu cầu.
Giáo viên chủ nhiệm phải kịp thời phát hiện và bồi dưỡng những phần tử tích cực để trở thành hạt nhân đoàn kết, làm nòng cốt cho bộ máy tự quản.
Để bồi dưỡng các phần tử tích cực, giáo viên chủ nhiệm cần làm cho họ:
- Ý thức được vị trí, vai trò, nhiệm vụ của mình trong tập thể.
- Giúp họ nắm được nội dung công tác, đặc biệt là phương pháp công tác qua công tác hoạt động thực tiễn.
- Tổ chức cho họ phân tích, đánh giá, khái quát hoá, hệ thống hoá những kinh nghiệm hoạt động.
- Kiểm tra, đánh giá hoạt động của họ, giúp họ khắc phục khó khăn, động viên họ kịp thời xây dựng, phát triển và bảo vệ uy tín của họ trước tập thể.
- Dựa vào các phần tử tích cực, giáo viên chủ nhiệm tổ chức các hoạt động, qua đó mà thu hút toàn thể học sinh tham gia tích cực, tạo ra và củng cố những mối quan hệ lành mạnh trong tập thể.
- Tổ chức phong trào thi đua theo từng đợt, có ý nghĩa giáo dục, gắn liền với hoạt động của các thành viên trong tập thể. Nhờ vậy mà làm xuất hiện và phát triển tình cảm tập thể, tình cảm thầy trò, tạo nên dư luận lành mạnh, tạo nên truyền thống tốt đẹp của lớp, của trường.
- Tổ chức giao lưu với các tập thể khác để học sinh có quan hệ rộng rãi hơn, học tập những kinh nghiệm của tập thể khác, so sánh, tìm ra mặt mạnh, mặt yếu của tập thể mình để có những phát huy hơn nữa.
- Trong quá trình xây dựng tập thể, cần chú ý đến sự xuất hiện những phần tử cá biệt, tiêu cực, những nhóm tự phát. Trong trường hợp đó, giáo viên chủ nhiệm cần phát hiện đúng bản chất tiêu cực của họ cùng với những nguyên nhân, có những tác động giáo dục đúng đắn, thích hợp, tránh cô lập họ, đẩy họ xa rời tập thể và đối lập với tập thể.
3) Giáo dục những phẩm chất đạo đức cho học sinh:
3.1.Một trong những nội dung quan trọng của giáo viên chủ nhiệm lớp là phải giáo dục đạo đức cho học sinh. Cụ thể là phải hình thành cho họ những quan điểm, niềm tin, tư tưởng đạo đức, động cơ và có thái độ học tập đúng đắn, chăm chỉ học hành, tích cực tu dưỡng.
3.2.Phương pháp công tác:
- Cần phối hợp chặt chẽ với giáo viên giảng dạy bộ môn ở lớp mình phụ trách, đảm bảo quá trình giáo dục trong quá trình dạy học các môn học.
- Phối hợp với các lực lượng giáo dục khác, đặc biệt là Đoàn TNCSHCM và Đội TNTP tổ chức các hoạt động với những hình thức khác nhau.
- Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh để cùng thống nhất giáo dục.
- Cần kết hợp sự đánh giá của mình với sự đánh giá của tập thể học sinh, đặc biệt là sự đánh giá của học sinh về sự tự rèn luyện của họ. Trong việc đánh giá đạo đức cho học sinh cần tránh chủ quan, thành kiến, thiên vị, cảm tính, vì nếu không sẽ gây ảnh hưởng xấu đến quá trình rèn luyện, tu dưỡng của học sinh. Cần phải khắc phục nguyên tắc phát huy ưu điểm và trên cơ sở đó mà khắc phục khuyết điểm.
4) Nâng cao thành tích của tập thể học sinh:
4.1.Ý nghĩa của việc nâng cao thành tích của tập thể học sinh: Nâng cao thành tích của tập thể học sinh là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của giáo viên chủ nhiệm lớp. Thành tích học tập không chỉ là sự thể hiện kết quả nắm tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà còn thể hiện kết quả phát triển năng lực trí tuệ, thái độ, động cơ học tập.
4.2.Nội dung và phương pháp nâng cao thành tích của tập thể học sinh:
- Thông qua chủ nhiệm lớp, giáo viên chủ nhiệm đề ra những yêu cầu, chỉ tiêu cụ thể đối với học tập, xác định động cơ, thái độ học tập đúng đắn.
- Giáo viên chủ nhiệm lớp lãnh đạo tập thể lớp tổ chức các nhóm học tập, nhóm ngoại khoá, định kỳ tổ chức giáo lưu học tập giữa các học sinh trong lớp.
- Phối hợp với giáo viên bộ môn giảng dạy ở lớp mình nhằm nâng cao thành tích học tập của lớp. Cụ thể là thống nhất các yêu cầu về mặt học tập đối với học sinh, có biện pháp giúp đỡ học sinh học yếu, bồi dưỡng học sinh học giỏi.
- Phối hợp với gia đình học sinh tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh học tập, theo dõi sát sao công việc học tập của con em mình.
5) Giáo dục lao động và hướng nghiệp:
5.1.Ý nghĩa và công tác giáo dục lao động và hướng nghiệp của giáo viên chủ nhiệm lớp:
Giáo dục lao động và hướng nghiệp cho học sinh của giáo viên chủ nhiệm lớp là nhằm góp phần hình thành cho họ năng lực và phẩm chất để chuẩn bị cho họ sẵn sàng về mặt tâm lý cũng như về mặt thực tiễn để họ tham gia lao động trong xã hội sau này.
5.2.Nội dung và phương pháp giáo dục lao động và hướng nghiệp:
- Giáo viên chủ nhiệm lớp căn cứ vào kế hoach lao động chung của trường và hoàn cảnh cụ thể của lớp, xây dựng kế hoạch cho lớp.
- Trong khi ttỏ chức lao động phải đảm bảo tính hệ thống, vừa sức với học sinh, vừa có tính giáo dục.
- Giáo viên chủ nhiệm lớp có vai trò rất quan trọng trong việc hướng nghiệp cho học sinh. Chức năng cơ bản của phương pháp này là giúp cho học sinh lựa chọn đúng ngành nghề trên cơ sở yêu cầu của xã hội đối với những ngành nghề cũng như hình thành và phát triển những hứng thú và khuynh hướng cấ nhân đối với lĩnh vực được lựa chọn.
- Để tiến hành công tác này giáo viên chủ nhiệm dưới nhiều hình thức khác nhau như báo cáo, toạ đàm, hội thảo, giao lưu, gặp gỡ những người thuộc nhiều ngành nghề khác nhau... nhằm thực hiện:
+ Thông tin nghề nghiệp: Là một trong những hình thức chủ yếu của công tác hướng nghiệp trong nhà trường PT, có nhiệm vụ giúp học sinh hiểu biết khái quát về nền kinh tế quốc dân: vị trí, vai trò, nhiệm vụ của một số ngành nghề chủ yếu, cơ bản của đất nước, của địa phương, đặc điểm hoạt động của một số nghề; những đòi hỏi của mỗi loại nghề đối với người lao động (sức khoẻ, trình độ học vấn, năng lực, tâm lý, những điều cần tránh...), hệ thống những nơi đào tạo, triển vọng và quyền lợi. Nói tóm lại, đó là những tri thức mở đầu nghề nghiệp.
Công việc này khá phức tạp vì ngành nghề hết sức đa dạng, vì cần phải tính đến chính xác nhu cầu về các nghề trong vùng hiện nay và tương lai, đồng thời phải nắm vững hệ thống các truờng đào tạo.
Trong thông tin nghề nghiệp cần phải vạch ra những khả năng sáng tạo trong các nghề phổ biến thuộc lĩnh vực sản xuất cũng như lĩnh vực phi sản xuất, chỉ ra tính lãng mạn trong những tìm tòi sáng kiến, đổi mới trong nghề chuyên môn, vai trò của mỗi chuyên gia ttrong quá trình công nghệ nói chung.
+ Tư vấn nghề nghiệp: Là một bộ phận quan trọng của công tác huớng nghiệp trong nhà trường PT. Nó có nhiệm vụ phân tích tình trạng sức khoẻ, những phẩm chất giải phẫu - sinh lý - xã hội của từng cá nhân học sinh và đưa ra những lời khuyên về nhóm nghề hoặc các nghề thích hợp với từng học sinh.
+ Thích ứng nghề nghiệp: Được thực hiện ở ngay nơi làm viậc trong quá trình lao động thực sự. tham gia trtực tiếp vào thực tiễn sản xuất, làm cho học sinh thích ứng dần với các ngành nghề định chọn và tập dượt khắc phục các khó khăn về mặt tâm lý.
6) Tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí, rèn luyện thể lực bảo vệ khoẻ:
Song song với hoạt động học tập, lao động của cả lớp, giáo viên chủ nhiệm lớp còn phải quan tâm tổ chức cho học sinh vui chơi giải trí, rèn luyện thể lực, bảo vệ sức khoẻ nhằm giúp họ thu giãn tinh thần, mở mang trí tuệ, phát triển thể chất, vừa góp phần làm phát triển toàn diện con người, vừa tạo ra những điều kiện học tập, tu dưỡng tốt.
Để tiến hành các hoạt động này, giáo viên chủ nhiệm lớp cần dựa vào tập thể học sinh, tổ chức Đoàn, Đội, các cơ quan văn hoá, thể dục thể thao...để tổ chức các hoạt động phong phú.
Đồng thời giáo viên chủ nhiệm lớp phải căn cứ vào cơ quan y tế của trường, của xã hội cũng như các giáo viên để giáo dục học sinh ý thức giữ gìn vệ sinh, phòng bệnh, đề ra các biện pháp bảo vệ môi trường, cân bằng sinh thái.
7) Phối hợp công tác và giúp đỡ các tổ chức Đoàn TNCS và Đội TNTP:
Đối với hai tổ chức này, giáo viên chủ nhiệm cần có kế hoạch phối hợp tiến hành các hoạt động giáo dục như trên đẫ trình bày. Song mặt khác, giáo viên chủ nhiệm phải giúp đỡ hai tổ chức này trong việc xây dựng kế hoạch công tác, tổ chức các hoạt động, công tác phát triển Đoàn và Đội, bồi dưỡng, giáo dục cán bộ nòng cốt.
Trong công tác này, giáo viên chủ nhiệm phải tuyệt đối tôn trọng tính độc lập, tự quản của hai tổ chức này, không được lợi dụng, không được can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của hai tổ chức này.
* Việc lập kế hoạch công tác của giáo viên chủ nhiệm lớp:
Để thực hiện nội dung công tác hết sức đa dạng và phong phú với hiệu quả cao, một trong những điều kiện hết sức quan trọng là giáo viên chủ nhiệm lớp phải tiến hành lập kế hoạch công tác. Lập kế hoạch công tác là kết quả sáng tạo của người giáo viên chủ nhiệm lớp vì nó phản ánh sự kết hợp năng lực dự đoán và năng lực thiết kế của họ.
Để vạch kế hoạch công tác hàng năm hoặc từng học kỳ, giáo viên chủ nhiệm phải nắm chắc và xử lý tốt hàng loạt thông tin về:
1) Các mục tiêu và nhiệm vụ, kế hoach công tác năm học, học ký của toàn trường.
2) Xác định đúng những đặc điểm hiện nay của học sinh trong lớp, những truyền thống tốt đẹp, mặt khó khăn và những hạn chế của lớp.
3) Xác định đúng những đặc điểm của gia đình, của các bậc cha mẹ học sinh.
4) Tìm hiểu, nghiên cứu mục tiêu, nhiệm vụ, kế hoạch công tác của các tổ chức Đoàn TNCS và ĐỘI TNTP trong trường.
5) Các đặc điểm hiện nay của địa phương nơi trường đóng cũng như tình hình chung của đất nước.
Từ những thông tin thu thập được phải xử lý, trên cơ sở kết quả thu được mà vạch ra kế hoạch công tác chủ nhiệm toàn năm học hay từng học kỳ.
Trên cơ sở kinh nghiệm thực tế, kế hoạch công tác của chủ nhiệm lớp bao gồm những nội dung sau đây:
Kế hoạch công tác chủ nhiệm lớp.............
Năm học (Học kỳ).................................
1. Đặc điểm của năm học (hay học kỳ) Và những đặc điểm của lớp.
2. Những mục tiêu phấn đấu và những nhiệm vụ chung của lớp.
TT
Nội dung nhiệm vụ các mặt công tác của chủ nhiệm lớp.
Những biện pháp thực hiện (bao gồm cả phối hợp các lực lượng GD).
Những điều kiện cần thiết.
Thời gian thực hiện và hoàn thành.
Người phụ trách phù hợp với từng mặt hoạt động.
- Trên cơ sở kế hoach công tác chủ nhiệm lớp năm học hoặc từng học kỳ mà kế hoạch hoạt động được cụ thể hoá trong từng tháng.
- Sau khi lập kế hoạch công tác chủ nhiệm lớp rồi, giáo viên chủ nhiệm cần tổ chức góp ý, trao đổi cho bản kế hoạch đó với cán bộ lớp, với chi hội phụ huynh học sinh để có sự sửa đổi phù hợp với tình hình.
- Khi đã có sự trao đổi, góp ý kiến cho bản kế hoạch công tác chủ nhiệm rồi, giáo viên chủ nhiệm cần phổ biến cho học sinh lớp mình phụ trách để họ góp ý kiến thêm và tiếp nhận kế hoạch đó.
Tuỳ theo sự phát triển của lớp ở giai đoạn nào mà giáo viên có thể giao cho cán bộ lớp triển khai kế hoach đó.
Bản kế hoạch công tác chủ nhiệm lớp tuy đã xây dựng ttrên cơ sở tính đến các điều kiện thực tế nhất định, song cũng không tránh khỏi phải điều chỉnh kịp thời trong quá trình triển khai thực hiện do những biến động của hoàn cảnh.
Câu 16: Nêu và phân tích các phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục.
I) Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
- Là phương pháp nhận thức khoa học bằng con đường suy luận dựa trên các tài liệu lý thuyết thu thập từ các nguồn khác nhau.
1. Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết:
- Phân tích lý thuyết: Là thao tác phân chia tài liệu lý thuyết thành các bộ phận đơn vị kiến thức, cho phép ta có thể tìm hiểu các dấu hiệu đặc thù, cấu trúc bên trong của lý thuyết.
- Tổng hợp lý thuyết: Là sự liên kết các yếu tố, các thành phần để tạo thành một tổng thể.
Phân tích, tổng hợp cho phép xây dựng được cấu trúc của vấn đề nghiên cứu.
2. Phương pháp mô hình hoá: Là phương pháp khoa học để nghiên cứu các đối tượng, các quá trình...bằng cách xây dựng các mô hình của chúng, các mô hình này đảm bảo được tính chất cơ bản của đối tượng đang nghiên cứu.
- Ý nghĩa của phương pháp mô hình hoá: Nghiên cứu trên mô hình sẽ giúp cho việc nhận thức đối tượng rõ ràng, giúp cho việc điều khiển hệ thống, giúp cho việc lựa chọn phương pháp tốt nhất để điều khiển hệ thống.
II) Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
1. Phương pháp quan sát: Là phương pháp thu thập thông tin về đối tượng nghiên cứu bằng cách tri giác trực tiếp đối tượng và các nhân tố khác có liên quan đến đối tượng trong lĩnh vực giáo dục.
* Mục đích của quan sát trong khoa học giáo dục:
+ Phát hiện, thu thập thông tin về các vấn đề nghiên cứu.
+ Xác định bản chất của vấn đề và xác định giả thuyết nghiên cứu.
+ Để kiểm chứng giả thuyết nghiên cứu và kết quả nghiên cứu.
* Các loại quan sát:
- Phân loại theo mức độ chuẩn bị có:
+ Quan sát có sự bố trí trước.
+ Quan sát không có sự bố trí trước hay tác động trước vào đối tượng.
- Phân loại theo quan hệ giữa người quan sát và đối tượng quan sát:
+ Quan sát không tham dự.
+ Quan sát có tham dự.
-Phân loại theo tính liên tục của quan sát:
+ Quan sát liên tục.
+ Quan sát định kỳ.
+ Quan sát chu kỳ.
- Theo khoảng thời gian:
+ Quan sát dài hạn.
+ Quan sát ngắn hạn.
- Theo phạm vi quan sát:
+ Quan sát khía cạnh.
+ Quan sát toàn diện.
- Phân loại theo tính bí mật hay công khai của nó:
+ Quan sát công khai.
+ Quan sát bí mật.
* Những ưu điểm và hạn chế của phương pháp quan sát:
+ Ưu điểm:
- Giúp cho việc thu thập được hình ảnh thực, sinh động của sự vật, hiện tượng cần nghiên cứu.
- Không gây bất cứ biến động nào đối với đối tượng nghiên cứu.
+ Hạn chế:
- Kết quả quan sát phụ thuộc nhiều vào yếu tố chủ quan của người quam sát.
- Khối lượng quan sát không được lớn, khối lượng thu được không thật toàn diện nếu không có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin.
- Chỉ thu được những biểu hiện trực tiếp, bề ngoài của đối tượng.
- Mang tính bị động cao.
* Những yêu cầu khi sử dụng phương pháp quan sát:
- Xác định rõ mục đích, nội dung, trình tự quan sát, phương tiện sử dụng để quan sát.
- Nắm được lý luận có liên quan đến vấn đề quan sát.
- Sơ bộ nắm được đặc điểm của đối tượng quan sát.
- Nên có từ 2 đến 3 người trở đi cùng quan sát một đối tượng để nâng cao tính khách quan của quan sát.
- Số lượng quan sát phải nhiềi, đa dạng. tỉ mỉ, kết quả quan sát phải được phản ánh đầy đủ trong biên bản.
- Có thể sử dụng các phương tiện kỹ thuật vào quá trình quan sát.
- Phương pháp quan sát cần phải được sử dụng phối hợp với nhiều phương pháp khác.
2) Phương pháp điều tra viết: (điều tra bằng bảng hỏi):
Thực chất của phương pháp này là sử dụng bảng hỏi đã được soạn sẵn với một hệ thống câu hỏi đặt ra cho nhiều người nhằm thu thập ý kiến của họ về vấn đề nghiên cứu.
* Một số nghệ thuật xây dựng phiếu điều tra:
- Phiếu điều tra là một hệ thống câu hỏi đã được xếp đặt trên cơ sở các nguyên tắc và nội dung nhất định, nhằm tạo điều kiện cho người được hỏi thể hiện quan điểm của mình về vấn đề nghiên cứu và người nghiên cứu thu nhận được thông tin đáp ứng yêu cầu của đề tài và mục đích nghiên cứu.
- Phiếu điều tra là công cụ đo lường quan trọng, đo những nhân tố nhất định có liên quan đến cá nhân người trả lời.
- Trong giai đoạn chuẩn bị: Xây dựng phiếu điều tra là một nhiệm vụ quan trọng, giúp cho việc xây dựng chương trình nghiên cứu.
- Trong giai đoạn thực hiện: Đối với những công trình nghiên cứu có sử dụng phiếu điều tra, phiếu điều tra sẽ giúp cho việc thu thập thông tin.
- Trong giai đoạn xử lý thông tin: Phiếu điều tra đóng vai trò như nguồn mang thông tin được lấy ra từ phiếu điều tra.
+ Viết loại câu hỏi cho phiếu điều tra:
+) Câu hỏi mở: Là câu hỏi không chứa sẵn câu trả lời mà người trả lời tự bộc lộ ý kiến của mình theo vấn đề đặt ra; cho phép người được hỏi trả lời một cách tự do, có thể gạch đầu dòng hoặc trả lời thành đoạn văn.
+) Câu hỏi đóng: Là loại câu hỏi mang tính chất lựa chọn, trong đó đã có sẵn các phương án trả lời, người trả lời chỉ cần lựa chọn các phương án phù hợp với bản thân.
Có câu hỏi đóng lựa chọn và câu hỏi đóng tuỳ chọn.
- Câu hỏi đóng lựa chọn: Đặc điểm nổi bật của loại câu hỏi này là các câu trả lời được chuẩn bị trước của câu hỏi mang tính chất loại trừ lẫn nhau và nguời trả lời chỉ có thể lựa chọn một trong các phương án trả lời được đưa ra. Có câu lựa chọn một trong hai phương án, câu lựa chọn một trong nhiều phương án, câu lựa chọn có nhiều mức độ.
- Câu hỏi đóng tuỳ chọn: Người trả lời có thể lựa chọn một hay một vài phương án trả lời được đưa ra. Các phương án được đưa ra không nhất thiết loại trừ nhau.
Việc xử lý các câu hỏi trên có thể dịnh lượng bằng tính tần xuất, tính điểm, tính giá trị trung bình...tuỳ thuộc vào từng lọai câu hỏi.
+ Yêu cầu chung với câu hỏi trong phiếu điều tra:
- Diễn đạt câu hỏi phải cụ thể, rõ ràng, chính xác, dễ hiểu, tránh hiểu lầm hoặc có nhiều cách hiểu khác nhau.
- Nên thiết kế các câu hỏi có khía cạnh ràng buộc lẫn nhau để đánh giá tính trung thực, chính xác của câu trả lời.
- Các câu hỏi trong bảng hỏi phải phù hợp với đề tài và mục tiêu nghiên cứu.
- Các câu hỏi không đặt ở mức độ thái quá mà luôn luôn đặt ở mức độ trung lập.
- Nên có các câu hỏi kiểm tra lẫn nhau để đảm bảo độ trung thực, khách quan của câu trả lời.
+ Thiết kế bảng hỏi:
Bảng hỏi là chiếc cầu nối giữa người nghiên cứu và người trả lời. Chiếc cầu đó có đảm bảo hay không, phụ thuộc rất nhiều vào sự chuẩn bị.
+) Xây dựng cấu trúc chung của phiếu điều tra:
- Đặt tên cho phiếu điều tra: Trong phần đầu đối với mỗi bảng hỏi thường bắt đầu bằng việc đặt tên cho mỗi bảng hỏi. Trong đa số trường hợp, tên của bảng hỏi trùng với tên của đề tài nghiên cứu.
MẪU PHIẾU ĐIỀU TRA.
Phiếu trựng cầu ý kiến
( Dành cho...............)
Mở đầu: (- Nêu ý nghĩa, vai trò của vấn đề điều tra.
- Hướng dẫn cách tra lời bằng phiếu hỏi)
Nội dung: (Hệ thống các câu hỏi đóng và mở)
Cuối cùng: (Một vài thông số về cá nhân được hỏi:
Họ và tên, tuổi, nghề nghiệp...
Lời cảm ơn.
-) Xếp đặt trật tự các câu hỏi là đi từ cái đơn giản đến cái phức tạp, từ cái chung đến cái riêng. Cần xếp đặt câu hỏi theo sự cần thiết để tránh gây những mệt mỏi, căng thẳng cho việc trả lời.
-) Lượng câu hỏi trong phiếu vừa phải, tránh quá tải; đảm bảo sự cân đối giữa câu hỏi đóng và câu hỏi mở.
- Rà soát lại từng câu hỏi trong phiếu điều tra:
-) Những giải thích, chú thích cho bảng hỏi hoặc cho từng câu hỏi cần phải được in ấn để người học dễ nhận thấy nhất.
-) Chất giấy và khổ giấy của phiếu điều tra phải đảm bảo tính thẩm mỹ.
-) Tuỳ theo nội dung của phiếu điều tra cần đảm bảo bí mật nội dung trả lời và điạc chỉ của người trả lời.
* Ưu điểm và hạn chế của phương pháp điều tra viết:
+ Ưu điểm:
- Có thể thu thập được thông tin trên một khối lượng lớn đối tượng nghiên cứu trong một thời gian ngắn với địa bàn rộng rãi, dễ khái quát được vấn đề nghiên cứu, có thể thu thập được một số tài liệu lớn, không cần nhiều thời gian, nhiều người nghiên cứu và phương tiện phức tạp, chủ động khai thác thông tin cần cho vấn đề nghiên cứu qua nội dung câu hỏi. Tuy nhiên chất lượng thông tin thu được phụ thuộc vào chất lượng của các câu hỏi điều tra và phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của người được điều tra.
+ Nhược điểm:
- Kết quả của phương pháp điều tra viết nhiều khi không đảm bảo khách quan vì nó tiếp cận dưới góc độ nhận thức luận.
- Trong phương pháp điều tra viết, đặc biệt là ở loại câu hỏi đóng là không khai thác được hết ý của đối tượng và ép đối tượng trả lời theo ý của nhà nghiên cứu.
* Những yêu cầu khi sử dụng phương pháp điều tra viết:
- Đảm bảo số lượng nghiên cứu đủ lớn.
- Đảm bảo các yêu cầu đối với việc thiết kế phiếu điều ttra.
+ Yêu cầu khi điều tra:
- Cần giải thích cho người được điều tra rõ nội dung câu hỏi và cách trả lời.
- Áp dụng toán học để xử lý kết quả điều tra.
3. Phương pháp phỏng vấn:
Phỏng vấn là phương pháp giáo dục thông qua việc tác động trực tiếp giưa người hỏi và người được hỏi, nhằm thu thập những thông tin phù hợp với mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài nghiên cứu.
+ Nếu phân loại phỏng vấn căn cứ vào mức độ chuẩn bị và đặc tính của những thông tin thu được, có:
- Phỏng vấn sâu.
- Phỏng vấn bán tiêu chuẩn.
- Phỏng vấn tiêu chuẩn.
+ Căn cứ vào mức độ tiếp xúc giữa người hỏi và người trả lời, có:
- Phỏng vấn trực diện.
- Phỏng vấn qua điện thoại.
- Phỏng vấn qua điện thoại có sự trợ giúp của mạng Internet.
+ Căn cứ vào số lượng người được hỏi trong cuộc phỏng vấn có:
- Phỏng vấn cá nhân, thảo luận nhóm tập trung.
+ Căn cứ vào tần số thực hiện với cùng một đối tượng có:
- Phỏng vấn một lần.
- Phỏng vấn nhiều lần (lặp lại).
+ Ưu điểm và hạn chế:
Phỏng vấn thu thập được những thông tin rất đa dạng, từ những vấn đề liên quan tới cá nhân cũng như đến những vấn đề chung, không đòi hỏi kỹ thuật phức tạp. Tuy nhiên, người được phỏng vấn có thể không nói thực, ít có khả năng rút ra những kết luận chắc chắn về bản chất hiện tượng nghiên cứu.
+ những yêu cầu khi phỏng vấn:
- Địa điểm phỏng vấn phù hợp với nội dung và đặc điểm của đối tượng nghiên cứu.
- Thời lượng phỏng vấn không nên kéo dài.
- Thời điểm phỏng vấn phù hợp.
- Cần tìm hiểu sơ bộ về đối tượng phỏng vấn.
- Tạo hứng thú cho người trả lời.
- Người phỏng vấn luôn giữ tính trung lập.
- Nhịp độ cuộc phỏng vấn tuỳ thuộc vào mục đích, nội dung, địa điểm, thời gian phỏng vấn.
- Cần ghi chép lại trong khi phỏng vấn.
+Yêu cầu cụ thể đối với người phỏng vấn:
Người phỏng vấn phải có trình độ văn hoá nhất định, có sự hiểu biết rộng, không định kiến với người trả lời, biết sử dụng ngôn từ phù hợp với văn hoá người trả lời, khéo léo trong đối thoại, kiên nhẫn, tôn trọng ý kiến của người đối thoại, biết thích ứng với tâm lý của người trả lời.
4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm:
Thực nghiệm sư phạm là phương pháp thay đổi thông tin về số lượng và chất lượng trong nhận thức và hành vi của các đối tượng giáo dục do nhà khoa học tác động lên chúng bằng một số tác nhân điều khiển và đã được kiểm tra.
+ Đặc điểm của thực nghiệm:
- Thực nghiệm phụ thuộc rất nhiều vào đặc điểm của đối tượng nghiên cứu.
- Bao gồm các biến số độc lập và biến số phụ thuộc.
Các biến số độc lập (tác nhân): Được coi là tác nhân quy định sự biến đổi của đối tượng, nó ảnh hưởng đến đối tượng thực nghiệm.
Biến số độc lập có thể là nhân tố mới đối với đối tượng thực nghiệm mà nhà nghiên cứu mang vào áp dụng.
Hoặc cũng có thể biến số độc lập là một trong những nhân tố đã có ở đối tượng mà nhà nghiên cứu chỉ cần thay đổi ở một mức độ nào đó.
Các biến số phụ thuộc: Là những nhân tố mà sự biến đổi của nó do biến số độc lập quy định. Biến số phụ thuộc là nội dung chính của thực nghiệm.
* Thiết kế một thực nghiệm:
+ Giai đoạn 1: Giai đoạn lý luận của việc nghiên cứu thực nghiệm:
- Xác định mục đích thực nghiệm.
- Xác định loại thực nghiệm.
- Xây dựng giả thuyết thực nghiệm.
- Xác định đối tượng thực nghiệm.
Đối tượng thực nghiệm được chia thành hai nhóm: Nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng.
Nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm phải tương đương nhau về số lượng và chất lượng. Nhóm đối chứng chịu tác động bình thường, nhóm thực nghiệm chịu tác động của nhân tố thực nghiệm.
+ Giai đoạn 2:
Xây dựng phương pháp thực nghiệm cụ thể với các tiêu chuẩn, thông số để đo đạc, quan sát trong thực nghiệm, xây dựng kế hoạch thực nghiệm và chuẩn bị về phương tiện vật chất cho thực nghiệm.
- Xác định các tiêu chí.
- Xác định các thông số để đo đạc.
+ Giai đoạn 3:
Tiến hành thực nghiệm: Sử dụng phương pháp thực nghiệm cụ thể đã xác định để nghiên cứu các vấn đề theo mục đích thực nghiệm đặt ra.
+ Giai đoạn 4:
Phân tích kết quả thực nghiệm - Xử lý và phân tích về mặt định lượng các kết quả thực nghiệm, từ đó đưa ra những kết luận định tính.
* Các loại thực nghiệm trong nghiên cứu giáo dục:
+Phân loại theo môi trường diễn ra hoạt động:
- Thực nghiệm tự nhiên: Diễn ra trong hoạt động tự nhiên của đối tượng thực nghiệm, đảm bảo quá trình thực nghiệm diễn ra một cách tự nhiên ở mức tối đa, các yếu tố giả tạo được hạn chế ở mức tối thiểu.
Đặc điểm của loại thực nghiệm này là: Đối tượng thực nghiệm vẫn tiến hành hoạt động bình thường, còn những nhân tố thực nghiệm thì được lồng vào các hoạt động đó. Đối tượng thực nghiệm không biết mình đang có cuộc thực nghiệm.
Ưu điểm: Tài liệu thu được dễ trung thực, chính xác.
Hạn chế: Khó đạt được độ chính xác cao trong việc khống chế các nhân tố không thực nghiệm.
Giải quyết hạn chế bằng cách thực nghiệm nhiều lần để trung hoà bớt những chênh lệch ngẫu nhiên.
- Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm: Diễn ra trong phòng thí nghiệm có sử dụng các phương tiện kỹ thuật thực nghiệm. Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm là thực hiện trong môi trường giả tạo. Phương pháp này đòi hỏi phải có sự hỗ trợ tích cực của các phương tiện thiết bị từ đơn giản đến phức tạp.
Ưu điểm: Khống chế và ổn định cao các nhân tố thực nghiệm và không thực nghiệm, cho phép thực nghiệm lặp lại nhiều lần trong điều kiện giống nhau.
Hạn chế: Vì diễn ra không tự nhiên, kết quả thu được tuy chính xác nhưng lại khác xa với thực tiễn.
+ Phân loại theo mục đích thực nghiệm:
- Thực nghiệm tác động (song hành): Là thực nghiệm trên những đối tượng khác nhau trong những điều kiện được khống chế giống nhau, trong đó có một trong hai được chọn làm đối chứng, nhằm út ra kết luận về ảnh hưởng của thực nghiệm trên các đối tượng.
Cơ cấu thực nghiệm có thể tóm tắt như sau
Các bước tiến hành
Nhóm thực nghiệm
Nhóm đối chứng
Thu tập thông tin trước khi thực nghiệm
QS 1
QS '1
Tác động của biến độc lập
Có tác động
Không có tác động
Thu thập thông tin sau khi thực nghiệm
QS 2
QS '2
So sánh chỉ ra sự khác nhau ở từng nhóm và giữa 2 nhóm.
QS 1- QS2 = KQ
QS '1 - QS'2 = KQ
- Thực nghiệm thăm dò: Loại thực nghiệm này nhằm phát hiện bản chất của vấn đề nghiên cứu, xây dựng giả thuyết nghiên cứu. Có các dạng thực nghiệm như:
-) Dạng thứ nhất:
Các bước tiến hành
Nhóm thực nghiệm
Nhóm đối chứng
Tác động của biến độc lập
Có tác động
Không có tác động
Thu thập thông tin sau khi thực nghiệm
QS 2
QS ' 2
-) Dạng thứ hai:
Chỉ thiết kế một nhóm thực nghiệm, tác động vào nhóm thực nghiệm, sau đó quan sát:
Các bước tiến hành
Nhóm htực nghiệm
Tác động của biến độc lập
Tác động
Thu thập thông tin sau thực nghiệm
Quan sát
-) Dạng thứ ba:
Các bước tiến hành
Nhóm thực nghiệm
Thu thập thông tin trước thực nghiệm
QS 1
Tác động của biến độc lập
Tác động
Thu thập thông tin sau thực nghiệm
QS 2
So sánh QS1 và QS2
* Ưu điểm, hạn chế của phương pháp thực nghiệm:
+ Ưu điểm:
- Người nghiên cứu có thể chủ động tạo ra các tình huống, có thể thay đổi tình huống để nghiên cứu hiện tượng với các khía cạnh của nó mà không phải thụ động chờ đợi như quan sát tự nhiên.
- Cho phép đi sâu vào bản chất, quy luật, phát hiện ra các thành phần, cấu trúc, cơ chế của hiện tượng giáo dục.
- Những kết luận rút ra có cơ sở khoa học và thực tế, có độ tin cậy cao.
+ Hạn chế:
- Hoàn cảnh thực nghiệm là sự mô phỏng hoặc chịu nhiều điều kiện ràng buộc.
- Những kết luận rút ra phản ánh kết quả nghiên cứu với phạm vi hẹp.
- Đòi hỏi sự chuẩn bị công phu cả về sức lực và thời gian, về trang thiết bị cho thực nghiệm.
- Nhiều trường hợp tốn kém về kinh phí.
* Yêu cầu khi sử dụng phương pháp thực nghiệm:
- Cần lựa chọn được vấn đề then chốt nhất, cần thiết nhất để nghiên cứu.
- Kết hợp với các phương pháp khác.
5. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục:
Là vận dụng lý luận về khoa học giáo dục để thu thập, phân tích, đánh giá, khái quát hoá, hệ thống hoá thực tiễn giáo dục, từ đó rút ra lý luận giáo dục.
* Các bước tiến hành tổng kết kinh nghiệm:
(1) Xác định đối tượng (đề tài):
- Xuất phát từ thực tiễn: Chọn những điển hình tốt hoặc xấu của thực tiễn giáo dục.
(2) Trang bị lý luận:
+ Chú ý đọc các loại tài liệu như:
- Các báo cáo tổng kết kinh nghiệm đã công bố có liên quan đến đề tài.
- Các tài liệu lý luận, phương pháp luận khoa học, phương pháp nghiên cứu cụ thể phục vụ cho vấn đề đã chọn (trong nước và ngoài nước).
+ Sự trợ giúp của các chuyên gia, các nhà khoa học.
(3) Mô tả quá trình phát triển của đối tượng được tổng kết:
- Thực trạng chất lượng ban đầu.
- Những yêu cầu khách quan, những động lực thúc đẩy sự phát triển.
- Những bước chuyển biến căn bản và những biện pháp đã có tác dụng đến những chuyển biến ấy, tức là thực trạng hiện nay của đối tượng. So sánh số liệu hiện nay với số liệu ban đầu thấy sự phát triển đó chính là những tiến bộ hay những thiếu xót hoặc là những vấn đề chưa giải quyết.
(4) Dùng lý luận phân tích:
- Đem lý luận ra phân tích thực tiễn.
- Từ phân tích thực tiễn rút ra những khái quát có tính chất lý luận. Đó là những khái quát về nguyên nhân, điều kiện, về biện pháp, về bước đi dẫn tới thành công hay thất bại.
(5) Những kinh nghiệm rút ra cần được kiểm nghiêm, bổ sung:
Cần đưa ra các kết luận vào thực tế đa dạng để tiếp tục kiềm nghiệm và khẳng định nó bằng cách:
- Thông qua các hội thảo khoa học, hội nghị.
- Thông qua các phương tiện thông tin: Tài liệu, báo chí, tạp chí ( trung ương, nghành).
- Vận dụng ở các địa bàn và phạm vi khác nhau.
* Cấu trúc của báo cáo tổng kết kinh nghiệm giáo dục:
Viết kết quả của một công trình tổng kết kinh nghiệm (trình bày dưới hình thức một văn bản báo cáo), cấu trúc gồm 3 phần:
+ Phần 1: Cơ sở xuất phát và cách đặt vấn đề (phần mở đầu): Cần trình bày ngắn gọn nhưng phải được chọn lọc cẩn thận. Giới thiệu rõ thực tiễn phải giải quyết và phương hướng định giải quyết.
+ Phần 2: Giải quyết vấn đề (phần nội dung): Trình bày những biện pháp đã thực hiện.
+ Phần 3: Kết luận và kiến nghị.
* Ưu điểm và hạn chế của phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục:
+ Ưu điểm:
- Có khả năng ứng dụng được.
- Người nghiên cứu chủ động trong việc lựa chọn kinh nghiệm để tổng kết.
- Những tài liệu thu được rất phong phú, những kinh nghiệm thu được là kinh nghiệm sống.
+ Hạn chế:
Phương pháp này phụ thuộc vào năng lực chuyên môn và trình độ lý luận của người nghiên cứu, vào phẩm chất của người nghiên cứu.
* Yêu cầu khi sử dụng phương pháp này:
- Người nghiên cứu cần được trang bị chu đáo về cơ cở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
- Những kết luận rút ra từ tổng kết kinh nghiệm nên coi là những giả định khoa học cần tiếp tục chứng minh chứ chưa nên coi là kết luận cuối cùng.
6. Phương pháp trắc nghiệm:
Trắc nghiệm là một phương pháp nghiên cứu đối tượng với những chương trình đặt trước, nhưng không gây biến đổi bất cứ một tiêu chí nào trên đối tượng nghiên cứu.
- Trong tâm lý dùng trắc nghiệm để chuẩn đoán các chức năng tâm lý.
- Trong giáo dục, trắc nghiệm được sử dụng khá rộng rãi. Có nhiều cách phân loại trắc nghiệm, mỗi cách phân loại đều dựa trên những cơ sở nhất định. Căn cứ vào mục đích trắc nghiệm có trắc nghiệm năng lực và trắc nghiệm kết quả học tập. Trắc nghiệm năng lực gồm trắc nghiệm trí thông minh dùng để thăm dò một số năng lực trí tuệ ( khả năng ghi nhớ, chú ý, tưởng tượng..... Các trắc nghiệm về năng lực đặc biệt (năng lực giác quan, cơ khí, văn phòng, năng lực âm nhạc, nghệ thuật...). Trắc nghiệm kết quả học tập được sử dụng rộng rãi nhất trong lĩnh vực giáo dục để đo lường tri thức, kỹ năng, thái độ của học sinh trong quá trình học tập ở các môn học, cấp học.
7. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động sư phạm:
- Là phương pháp mà nhà giáo dục thông qua các sản phẩm sư phạm để tìm hiểu tính chất, đặc điểm, tâm lý của con nguời và của cả hoạt động đã tạo ra sản phẩm ấy.
- Là phương pháp bổ sung cần được dùng kết hợp với phương pháp quan sát và phương pháp thực nghiệm.
8. Phương pháp chuyên gia:
Là phương pháp sử dụng trí tuệ của đội ngũ chuyên gia có trình độ cao về một chuyên ngành nhằm xem xét, nhận định bản chất của một sự kiện khoa học hay thực tiễn để tìm ra các giải pháp tối ưu cho các sự kiện khoa học hay thực tiến đó, hoặc phân tích, đánh giá một sản phẩm khoa học.
- Là phương pháp tiết kiệm thời gian, sức lực và tài chính để triển khai nghiên cứu. Ý kiến của chuyên gia là chỗ dựa tin cậy về chuyên môn giúp cho nhà nghiên cứu trong quá trình tiến hành nghiên cứu.
- Tuy nhiên, chuyên gia không phải là người trực tiếp nghiên cứu, đôi khi vốn kinh nghiệm cũ không còn cập nhật với vấn đề nghiên cứu. Nhiều khi sự đánh giá chỉ dựa trên cơ sở trực giác hay kinh nghiệm.
+ Yêu cầu khi sử dụng phương pháp chuyên gia trong nghiên cứu:
- Chọn đúng chuyên gia có chuyên môn về lĩnh vực nghiên cứu, có phẩm chất trung thực, khách quan và khoa học, có kinh nghiệm trong nhận định và đánh giá.
- Để đảm bảo tính khách quan trong đánh giá và nhận định một sự kiện, một vấn đề khoa học nào đó cần hạn chế tới mức tối thiểu ảnh hưởng qua lại của các chuyên gia.
- Cần khai thác được nhiều các thông tin có giá trị từ phía các chuyên gia.
III) Phương pháp sử dụng toán học trong nghiên cứu:
Toán học sử dụng trong nghiên cứu khoa học nói chung nhằm hai mục đích:
- Dùng lý thuyết toán học, phương pháp logic toán học để xây dựng các lý thuyết chuyên nghành.
- Một số công thức thống kê toán học sử dụng để xử lý kết quả nghiên cứu.
Câu 17: Hãy trình bày các giai đoạn của công trình nghiên cứu khoa học.
Gồm 4 giai đoạn:
I. Giai đoạn 1 (chuẩn bị):
1. Xác định tên đề tài.
2. Xây dựng tên đề cương nghiên cứu.
3. Xây dựng kế hoạch nghiên cứu:
- Dự kiến công việc.
- Nội dung công việc.
- Thời gian thực hiện từng việc.
II. Giai đoạn 2 (triển khai nghiên cứu):Nghiên cứu lý luận và thực tiễn:
1. Nghiên cứu lý luận:
a) Tiến hành tổng quan: Tổng quan khoa học hay còn gọi là lịch sử vấn đề nghiên cứu:
- Thu thập tài liệu, yêu cầu khi thu thập tài liệu cần có sự ghi chép.
- Viết tổng quan nghiên cứu của đề tài, yêu cầu:
-) Phân tích các quan điểm, các xu hướng làm cơ sở lý luận cho đề tài.
-) Đưa ra các quan điểm của bản thân, xác định hệ thống lý thuyết.
b) Xây dựng khái niệm công cụ cho đề tài:
+ Mục đích là hình thành một hệ thống khái niệm khoa học được sử dụng trong đề tài nghiên cứu.
+ Việc hình thành khái niệm khoa học này có thể diễn ra bằng hai cách:
- Xuất phát từ sự phân tích, khái quát hoá lý luận trong các tài liệu lý luận.
- Dựa trên việc trưng cầu ý kiến các chuyên gia để xây dựng các khái niệm công cụ cần thiết cho đề tài.
2. Nghiên cứu thực tiễn:
- Sử dụng các phương pháp thực tiễn để thu thập các tài liệu thực tiễn.
- Ghi nhật ký: Ghi lại những điều đã làm và đã thấy trong quá trình nghiên cứu nhằm thực hiện cho vấn đề nghiên cứu.
- Có thể sử dụng các phương tiện kỹ thuật khác (chụp ảnh, ghi âm, ghi hình...).
+ Yêu cầu đối với tài liệu thực tiễn:
- Các tài liệu thu được phải khách quan, rõ ràng, chính xác , đầy đủ.
- Phải chứng minh cho giả thuyết khoa học.
- Phải bao gồm nhiều loại hình phong phú, đa dạng.
- Phải ghi chú thời điểm rõ ràng, không gian, nguồn khai thác.
- Cần phân loại sơ bộ trong quá trình thu thập.
III. Giai đoạn 3 (xử lý thông tin):
1. Sàng lọc tài liệu: Loại bỏ thông tin thiếu khách quan, không chính xác, không cần thiết.
2. Phân loại tài liệu, có nhiều cách phân loại:
+ Có thể phân loại tài liệu thành:
- Tài liệu dạng văn tự và phi văn tự.
- Tài liệu chính thức và không chính thức.
- Tài liệu sơ cấp và thứ cấp.
Trước khi sử dụng một tài liệu nào đó cho phân tích cần phải trả lời hai vấn đề sơ bộ sau: Thứ nhất, phải chăng tài liệu có được là cần thiết cho nghiên cứu. Thứ hai, phải chăng thông tin có được trong các tài liệu là tin tưởng được.
+ Phân biệt sự kiện và tài liệu:
Sự kiện là cái tồn tại khách quan, được ta ghi nhận. Còn tài liệu là tất cả những gì mà từ đó chúng ta tạo ra công trình hoặc một sản phẩm.
3. Xử lý tài liệu ( Cần phân tích về định tính và định lượng):
+ Phân tích định lượng: Là xem xét, đánh giá mặt số lượng các kết quả nghiên cứu, thể hiện bằng các con số.
- Cần lập bảng số liệu.
- Lập sơ đồ, biểu đồ, đồ thị...
+ Phân tích định tính:
- Xem xét, đánh giá kết quả nghiên cứu về mặt chất lượng, đòi hỏi phải phân tích, lý giải các số liệu trên cơ sở đối chiếu với tri thức lý luận.
4. Rút ra các kết luận.
IV) Giai đoạn 4: Viết và công bố kết quả nghiên cứu khoa học:
1. Hoàn thiện dàn ý: Phải đảm bảo được các yêu cầu sau:
- Phản ánh được kết quả nghiên cứu, phù hợp với giả thuyết và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Có cấu trúc hợp lý, đảm bảo tính lôgic.
- Có dự kiến sử dụng bảng số, sơ đồ, đồ thị ở những chỗ cần thiết.
- Có dự kiến khối lượng cho từng chương, từng mục.
2. Tiến hành cách viết: Gồm 2 bước:
- Viết bản thảo.
- Viết bản chính.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hệ thống các câu hỏi ôn tập môn giáo dục học.doc