Thứ nhất: Về mục đích và phương hướng phát triển kinh tế.
- Mọi chính sách và biện pháp phát triển kinh tếcủa nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đều nhằm phục vụ cho lợi ích của nhân dân lao động. Cả hai bản hiến pháp văm 1980 và năm 1992 đều khẳng định chính sách phát triển kinh tế của nước ta là: làm cho dân giàu nước mạnh đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất, tinh thần của nhân dân (điều 15 hiến pháp năm 1985; điều 16 hiến pháp năm 1992)
Sở dĩ có sự giống nhau trong mục tiêu phát triển kinh tế ở hai bản hiến pháp này là vì xúât phát từ bản chất của nhà nước ta.
- Phương hướng và nhiệm vụ trong chính sách phát triển kinh tế thể hiện qua hai bản hiến pháp năm 1980 và 1992 đều thống nhất ở chỗ phải thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên do xuất phát từ điều kiện hoàn cảnh lịch sử và nhận thức về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của mỗi giai đoạn có khác nhau nên cách thức thực hiện cũng không giống nhau. Nhưng phương hướng và nhiệm vụ chiến lược thì vấn thống nhất.
25 trang |
Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 2126 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Điểm giống nhau trong chính sách phát triển kinh tế của hai bản hiến pháp năm 1980 và năm 1992, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Điểm giống nhau trong chính sách phát triển kinh tế của hai bản hiến pháp năm 1980 và năm 1992.
Thứ nhất: Về mục đích và phương hướng phát triển kinh tế.
- Mọi chính sách và biện pháp phát triển kinh tếcủa nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đều nhằm phục vụ cho lợi ích của nhân dân lao động. Cả hai bản hiến pháp văm 1980 và năm 1992 đều khẳng định chính sách phát triển kinh tế của nước ta là: làm cho dân giàu nước mạnh đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất, tinh thần của nhân dân (điều 15 hiến pháp năm 1985; điều 16 hiến pháp năm 1992)
Sở dĩ có sự giống nhau trong mục tiêu phát triển kinh tế ở hai bản hiến pháp này là vì xúât phát từ bản chất của nhà nước ta.
- Phương hướng và nhiệm vụ trong chính sách phát triển kinh tế thể hiện qua hai bản hiến pháp năm 1980 và 1992 đều thống nhất ở chỗ phải thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên do xuất phát từ điều kiện hoàn cảnh lịch sử và nhận thức về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của mỗi giai đoạn có khác nhau nên cách thức thực hiện cũng không giống nhau. Nhưng phương hướng và nhiệm vụ chiến lược thì vấn thống nhất.
Thứ hai: Các hình thức sở hữu chủ yếu ở nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Xuất phát từ điều kiện hoàn cảnh lịch sử và nhận thức về phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ có khác nhau, nhưng điểm giống nhau của hai bản hiến pháp năm 1980 và năm 1992 trong việc xác định hình thức sở hữu chủ yếu ở nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là: cả hai bản hiến pháp đều có hai hình thức sở hữu đó là hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể đều khẳng định cả hai hình thức sở hữu này là nền tảng của nền kinh tế. Tuy nhiên tại hiến pháp năm 1992 có ghi nhận thêm hình thức sở hữu khác là sở hữu tư nhân nhưng vẫn nhất quán khẳng định sở hữu tòan dân và sở hữu tập thể là nền tảng dẫn dắt nền kinh tế quốc dân.
Thứ ba: Về thành phần kinh tế ở nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội được ghi nhận ở hai bản hiến pháp có sự giống nhau là đều ghi nhận sự tồn tại của hai thành phần kinh tế là thành phần kinh tế quốc doanh và thành phần kinh tế tập thể, đều ghi nhận thành phần kinh tế quốc doanh chiếm vị trí then chốt và giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Thứ tư: Sự giống nhau về nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế được ghi nhận trong hai bản híên pháp năm 1980 và năm 1992 là đều xác định nhà nước thông nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách. Đều có sự kết hợp lợi ích của nhà nước, của tập thể, của người lao động. Những nội dung này được ghi rõ trong các điều 26 hiến pháp năm 1992 và điều 34 hiến pháp năm 1980. Tuy nhiên mức độ ưu tiên cho lợi ích đối với từng thành phần kinh tế có khác nhau.
Bên cạnh những điểm giống nhau trong chính sách phát triển kinh của nhà nước ta qua hai bản hiến pháp năm 1980 và năm 1992 như đã trình bày ở trên thì con có những điêm rất khác biệt về chính sách phát triển kinh tế được ghi nhận tại hai bản hiến pháp này thể hiện ở một số điểm sau: (Phần chuyển tiếp)
Thứ nhất: Điểm khác nhau giữa mục đích và phương hướng chính sách kinh tế của 2 bản hiến pháp.
a, Mục đích:
Mục đích của chính sách phát triển kinh tế năm 1980 được đề ra trong điều 15 của bản Hiến pháp:
Mục đích chính sách kinh tế của nước Cộng Hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và văn hoá ngày càng tăng của xã hội bằng cách không ngừng phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, trên cơ sở chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa và nền khoa học, kỹ thuật hiện đại.
Mục đích của chính sách kinh tế Hiến pháp năm 1992 được đề ra trong điều 16 của bản Hiến pháp:
Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và giao lưu với thị trường thế giới.
Như vậy, qua hai bản Hiến pháp ta thấy mục đích chung của nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phục vụ lợi ích tối đa của nhân dân lao động. Song trong mỗi thời kỳ thì tính chất và mức độ có sự khác nhau.
Trong Hiến pháp năm 1980 mục đích của chính sách kinh tế là làm “ thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và văn hoá ngày càng tăng của xã hội”, còn Hiến pháp năm 1992 đã đặt ra mục đích mới cùng một nội dung nhưng phải khẳng định là nó mang tính chất cao hơn: “làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân”. Trong bản Hiến pháp năm 1992 mục đích của Nhà nước ta không chỉ dừng lại là đáp ứng được các nhu cầu căn bản của nhân dân nữa mà là đáp ứng tốt hơn những nhu cầu cao hơn, điều đó được thể hiện trong việc “làm cho dân giàu”.
Trong bản Hiến pháp năm 1980 đề cập đến việc đạt được mục đích phát triển kinh tế dựa hoàn toàn bằng nội lực. Trong Hiến pháp năm 1992, việc đạt được mục đích phát triển kinh tế dựa vào nội lực vẫn là chủ yếu nhưng vẫn tận dụng các yếu tố ngoại lực.
b, Phương hướng
Phương hướng phát triển kinh tế được đề cập trong Điều 18 Hiến pháp năm 1980 và điều 15 Hiến pháp năm 1992
Điều 18 Hiến pháp năm 1980 : Nhà nước tiến hành cách mạng về quan hệ sản xuất, hướng dẫn, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thiết lập và củng cố chế độ sở xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
Điều 15 Hiến pháp năm 1992 : Nhà nước phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa đạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân,trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng
Điểm khác nhau căn bản trong chính sách kinh tế của hai bản Hiến pháp này chính là cơ chế quản lý đề ra:
Hiến pháp năm 1980 đề ra cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, nền kinh tế tự cung tự cấp, với hai thành phần kinh tế là quốc doanh và tập thể. Triệt tiêu hoàn toàn những thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa như tiểu chủ, tư nhân…Điều đó dẫn đến tất yếu nền kinh tế chỉ có một chế độ sở hữu là chế độ công hữu duy nhất về tư liệu sản xuất. Sự phát triển kinh tế dựa vào sự chỉ huy nền kinh tế theo một kế hoạch tập trung với những chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt từ trên xuống của Nhà nước, nó tuyệt đối hoá vai trò của kế hoạch và phủ nhận vai trò của thị trường. Như vậy sự nền kinh tế phi hàng hoá, tự cung tự cấp, không có tính cạnh tranh không có yếu tố thúc đẩy phát triển.
Hiến pháp năm 1992 đề ra phương hướng phát triển kinh tế hàng hoá cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước với nhiều thành phần kinh tế, giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với sự chuyên môn hoá, phân công lao động hợp lý để mỗi thành phần kinh tế phát huy được sức mạnh của mình trong sản xuất, phân phối, tiêu thụ sản phẩm làm cho khối lượng sản phẩm xã hội ngày càng tăng, giải quyết việc làm cho người lao động, tăng cường khả năng hợp tác, ứng dụng khoa học kỹ thuật của các đơn vị kinh tế thuộc các thành phần khác nhau…Như vậy Nhà nước ta từ chỗ quan niệm đồng nhất kinh tế thị trường với kinh tế tư bản chủ nghĩa đã đi đến quan niệm coi sản xuất hàng hoá và kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành quả phát triển qua nhiều phương thức sản xuất. Chấp nhận cơ chế thị trường đồng nghĩa với việc chúng ta chấp nhận quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh và sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Đồng thời ta cũng chấp nhận những mặt tiêu cực mà kinh tế thị trường đem lại như : phân hoá giàu nghèo, bóc lột sưc lao động, làm hàng giả,buôn lậu... Nhưng đó không phải là sự chấp nhận một cách thụ động mà có sự định hướng xã hội chủ nghĩa với những phương thức khác nhau như pháp luật, kế hoạch, chính sách để nhằm hạn chế những mặt tiêu cực đó. Bên cạnh đó để đảm bảo lợi ích của nhân dân lao động lên hàng đầu phải không ngừng nâng cao năng suất lao động trên cơ sở sử dụng hợp lý sức lao động, tài nguyên của đất nước cũng như áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể.
Nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau đó là:
_ Do trình độ phát triển kinh tế ở mỗi thời kỳ là khác nhau.
Năm 1980, do nước ta mới giành được độc lập, các cơ sở kinh tế bị tàn phá, nền kinh tế ở trong tình trạng kém phát triển, nhân dân tuy đã được độc lập, tự do nhưng còn thiếu thốn trăm bề, ngay cả cơm không đủ ăn, những nhu cầu thiết yếu không được đáp ứng. Chính vì thế mục tiêu hàng đầu và cấp bách của Nhà nước đặt ra cho nền kinh tế lúc bây giờ là phải đáp ứng được căn bản những nhu cầu đó của nhân dân.
Năm 1999, sau thời kỳ khủng hoảng do chế độ tập trung bao cấp mang lại, Nhà nước ta đã nhận ra sai lầm và thực hiện cải cách vào năm 1986. Năm 1999 là giai đoạn nước ta đạt được những thành tựu bước đầu trên mọi lĩnh vực, đặc biệt kinh tế, thể hiện sự đúng đắn của đường lối cải cách. Nhân dân ta đã được đáp ứng đầy đủ những nhu cầu thiết yếu như ăn mặc…Tất yếu nhu cầu văn hoá, vật chất của người dân sẽ ngày càng cao hơn, chính vì thế mục đích của chính sách kinh tế cũng phải có tính chất cao hơn. Từ chỗ làm cho nhân dân “ăn no mặc ấm” trở thành “ăn ngon, mặc đẹp”.
_ Do cơ chế quản lý kinh tế
Năm 1980, nước ta thực hiện chế độ tập trung quan liêu bao cấp, đóng kín cửa với thế giới chỉ nhận sự trợ cấp, viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em như : Liên Xô, Trung Quốc…
Năm 1992, nước ta thực hiện phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chính vì vậy việc mở cửa nền kinh tế và xu hướng toàn cầu hoá là tất yếu.
_ Do tâm lý chính trị
Năm 1980, như đã nói ở trên nước ta vừa thực hiện thành công công cuộc giữ nước, đánh đuổi được đế quốc Mỹ, giành độc lập tự do cho nước nhà. Trong không khí hân hoan đó xuất hiện những tư tưởng chủ quan, nóng vội, duy ý chí từ những người lãnh đạo Nhà nước: nước ta sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội một cách nhanh chóng. Nhưng thực chất cơ sở hạ tầng của nước ta lúc bấy giờ đang rất yếu kém, nước ta đang ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ mà thôi. Chính tư tưởng kiến trúc thượng tầng phát triển có thể thúc đẩy hạ tầng phát triển theo nên Nhà nước ta đã đốt cháy giai đoạn, đề ra những phương hướng phát triển kinh tế trái với quy luật phát triển tự nhiên như quy định tại bản Hiến pháp năm 1980.
Năm 1992, với sự sụp đổ của nhà nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô cùng với các nước Đông Âu, nhận thấy rõ sai lầm của mình Nhà nước ta đã thực hiện cải cách và đạt được những thành công đáng kể bước đầu. Nhà nước ta nhận ra sản xuất hàng hoá và kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản, mà là thành quả phát triển qua nhiều phương thức và đến chủ nghĩa tư bản thì kinh tế tư bản phát triển đến mức điển hình. Chính vì thế, phát triển kinh tế hàng hoá nhưng hạn chế những tiêu cực của nó bằng việc định hướng xã hội chủ nghĩa rõ ràng sẽ vẫn đưa được nền kinh tế đi lên mà không đi chệch với con đường đã chọn – tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
Đánh giá:
Hai bản Hiến pháp có sự khác nhau cơ bản về mục đích đặc biệt là phương hướng phát triển kinh tế. Sự chuyển hướng từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự định hướng có sự quản lý của Nhà nước là bước ngoặt trong đời sống kinh tế của xã hội, đánh dấu sự đổi mới nhận thức với nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân chủ hoá trong đời sống kinh tế của xã hội, đem lại những thành tựu không thể phủ nhận trong sự phát triển kinh tế ở những năm gần đây. Đưa nền kinh tế nước ta trở thành một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nóng, dần xoá tên Việt Nam trong danh sách những nước nghèo của thế giới.
Thứ hai: về thành phần kinh tế được xác định trong hai bản hiến pháp năm 1980 và năm 1992.
Khi so sánh về các thành phần kinh tế được nêu trong hai bản Hiến pháp 1980 và 1992, ta dựa trên các tiêu chí sau:
Tên gọi và số lượng thành phần kinh tế.
Vị trí chủ đạo của thành phần kinh tế được quy định tại mỗi bản Hiến pháp.
Mục đích sản xuất kinh doanh của mỗi thành phần kinh tế qua từng thời kì.
Vai trò, sự tác động qua lại giữa các đơn vị kinh tế trong nền kinh tế quốc dân được xác định trong hai bản Hiến pháp và qua đó rút ra tính phù hợp của hai bản Hiến pháp.
Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Thành phần kinh tế tồn tại ở những hình thức tổ chức kinh tế nhất định, trong đó căn cứ vào quan hệ sản xuất ( mà hạt nhân là quan hệ sở hữu ) nào thống trị để xác định từng thành phần kinh tế. So sánh về thành phần kinh tế, tức là ta đi so sánh về những hình thức tổ chức kinh tế, những phương thức quản lí của Nhà nước phù hợp với trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất. Và chính từ sự so sánh này, chúng ta mới nhận thức rõ hơn sự phù hợp hay không của chính sách phát triển các thành phần kinh tế ở trong hai bản Hiến pháp.
Trước hết, ta đi so sánh về tên gọi và số lượng các thành phần kinh tế. Tại bản Hiến pháp năm 1980, Nhà nước ta chỉ chủ trương “thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động” ( Điều 18, Hiến pháp Việt Nam 1980). Nhưng cho đến Hiến pháp năm 1992, Nhà nước chủ trương phát triển một nền “kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa…”(Điều 15). Lần đầu tiên Nhà nước ta thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các thành phần kinh tế cũng như tác dụng tích cực của kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế (Điều 22). Nền kinh tế nhiều thành phần được nói đến trong bản Hiến pháp năm 1992 bao gồm: kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy, chúng ta có thể dễ nhận thấy ngay sự khác biệt chỉ qua số lượng các thành phần kinh tế được Nhà nước quy định. Có sự khác biệt về số lượng các thành phần cũng chứng tỏ sự thay đổi trong cả chính sách kinh tế và quản lí nền kinh tế của Nhà nước. Sự thay đổi này được đánh giá là một sự thay đổi đi lên, vì nó phù hợp với thực tiễn, hoàn cảnh đất nước trong thời kì đổi mới. Nền kinh tế nhiều thành phần được Nhà nước thừa nhận làm phong phú và đa dạng hóa các chủ thể kinh tế, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hóa, tạo điều kiện đẩy mạnh cạnh tranh, khắc phục tình trạng độc quyền đã từng xảy ra trong thời kì trước đó, khi mà trong Hiến pháp 1980 Nhà nước chỉ cho thừa nhận sự tồn tại của hai thành phần chủ yếu, các thành phần kinh tế khác ít có cơ hội để phát triển. (xuống hàng)
Về tên gọi, thành phần kinh tế nhà nước ở nước ta được hình thành từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trước đây gọi là kinh tế quốc doanh, nhưng sau đó chúng ta đã nhận thức lại và gọi là kinh tế nhà nước. Thành phần kinh tế tập thể trước đây được gọi là thành phần kinh tế hợp tác xã (Hiến pháp 1980) nhưng sau cũng được đổi lại cách gọi cho chuẩn xác hơn.
Thứ hai, so sánh về vị trí chủ đạo trong nền kinh tế. Ở đây có xuất hiện nét tương đồng bởi ở cả hai bản Hiến pháp đều quy định thành phần kinh tế nhà nước (kinh tế quốc doanh) giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, là lực lượng vật chất quan trọng và công cụ để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết, quản lí vĩ mô nền kinh tế theo định hướng XHCN. Còn nền kinh tế tập thể(kinh tế hợp tác xã) vẫn được “ Nhà nước tạo điều kiện để củng cố và mở rộng các hợp tác xã hoạt động có hiệu quả”(Điều 20 Hiến pháp năm 1992). Tuy nhiên, cũng trong bản Hiến pháp năm 1992 do có sự xuất hiện của nhiều thành phần kinh tế hơn, nên vị trí của kinh tế tập thể không còn có chỗ đứng vững chắc như trong thời kì trước. Bên cạnh đó, các thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân; thành phần kinh tế tư bản nhà nước và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được Nhà nước khuyến khích và tạo mọi điều kiện để phát triển. Và trên thực tế, các thành phần này đang là những thành phần kinh tế có tốc độ phát triển nhanh nhất, vị trí ngày càng được nâng cao trong toàn nền kinh tế đất nước và tạo ra một nền kinh tế thị trường sôi động tại Việt Nam.
Thứ ba,về mục đích sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế, hay nói đúng hơn là những chính sách mà Nhà nước định hướng cho việc hoạt động của các thành phần kinh tế, qua hai bản Hiến pháp có sự khác biệt rõ nét. Lí do là vì, trong bản Hiến pháp 1992 có sự thay đổi cơ bản về nội dung của chế độ kinh tế, dẫn đến sự khác biệt trong chính sách phát triển. Tại các điều 22, 23, 24 Hiến pháp 1980 quy định chính sách kinh tế đối với hai thành phần kinh tế chính, theo đó “Các cơ sở kinh tế quốc doanh…thực hiện chế độ hạch toán, chế độ thủ trưởng và chế độ trách nhiệm cá nhân…”.Điều này vô hình chung đã tạo điều kiện cho sự tồn tại kéo dài của chế độ quan liêu, bao cấp, cửa quyền, kéo chậm sự phát triển của nền kinh tế. Cũng do chỉ thừa nhận sự tồn tại của hai thành phần kinh tế nên không thể tránh khỏi việc xảy ra chế độ độc quyền trong hoạt động kinh doanh, thương mại. Nhưng tại Hiến pháp năm 1992, lỗ hổng này được khắc phục về cơ bản khi Nhà nước chủ trương chấn chỉnh và tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh trong khu vực kinh tế nhà nước. Đối với những xí nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ phải chuyển hóa hình thức sở hữu để sử dụng có hiệu quả tư liệu sản xuất như chuyển thành xí nghệp cổ phần để đấu thầu, cho thuê. Nhà nước cũng chủ trương để các cơ sở kinh tế quốc doanh được quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh để phát huy tính năng động hiệu quả của các đơn vị kinh tế. Đây là bước phát triển mới trong việc quy định mục đích, nhiệm vụ và hướng hoạt động cho thành phần kinh tế nhà nước để xóa bỏ những hạn chế của bản Hiến pháp 1980. Các thành phần kinh tế như kinh tế tư nhân ( cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đều được Nhà nước giúp đỡ phát triển theo hướng tích cực, trong đó “Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”. Có thể nhận thấy, sự thay đổi rõ nét về cách nhìn nhận vấn đề phát triển kinh tế qua hai bản Hiến pháp, từ đó Đảng và Nhà nước đã đưa ra những định hướng đúng hơn cho những bước tiến của nền kinh tế đất nước, góp phần thay đổi bộ mặt và vị thế của đất nước.
Cuối cùng, khi so sánh về vai trò, sự tác động qua lại giữa các đơn vị kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, ta nhận thấy: Bản Hiến pháp năm 1980 chỉ có hai thành phần kinh tế tồn tại, nên trong hoạt động kinh tế có xuất hiện tình trạng độc quyền, độc quyền nhà nước hay độc quyền hợp tác xã, các thành phần khác không có nhiều cơ hội để cạnh tranh và phát triển, hoặc cạnh tranh không bình đẳng. Hơn nữa, “Nhà nước độc quyền về ngoại thương trong mọi quan hệ kinh tế khác vơi nước ngoài” nên trong thực tế, có thời kì nền kinh tế nước ta bị coi là nền kinh tế đóng kín. Nhưng Hiến pháp 1992 lại là sự thay đổi cơ bản, có nhiều thành phần kinh tế hơn, Nhà nước hầu như không tham gia trực tiếp mà chỉ đóng vai trò điều tiết, tao ra một sân chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế. Sự tác động qua lại của các thành phần có nhịp nhàng, uyển chuyển hơn, thoát khỏi sự cứng nhắc và máy móc. Sự mở cửa của nền kinh tế với sự xuất hiện của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài buộc các thành phần kinh tế nội địa phải gắn kết với nhau hơn nếu không muốn bị tụt hậu về các khâu sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ hay phân phối. Mặt khác, cũng do sự tất yếu của cơ chế mở cửa mà nguồn vốn đầu tư vào trong nước tăng lên mạnh mẽ, sự chuyển giao và phát triển công nghệ, nâng cao năng lực quản lí và tạo cơ hội việc làm được thúc đẩy mạnh mẽ hơn. Có thể nhận xét, chính sách phát triển kinh tế được quy định qua Hiến pháp 1992 khắc phục phần lớn hạn chế của chính sách phát triển kinh tế trong Hiến pháp 1980, là một bước phát triển lớn, đúng đắn và tạo đà cho bước nhảy của nền kinh tế Việt Nam.( chuyển xuống cuối )
Thư ba: về chế độ kinh tế được ghi nhận trong hai bản hiến pháp
Trong chế độ kinh tế thì chế độ sở hữu là vấn đề mấu chốt nhất.Sở hữu trước hết là những quan hệ kinh tế được hình thành trong quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối các lợi ích vật chất và tinh thần.
Ta thấy rằng: hiến pháp năm 1980 ra đời trong hoàn cảnh điều kiện kinh tế bao cấp và khủng hoảng kinh tế đang xảy ra nghiêm trọng và ý tưởng đổi mới của Đảng đang hình thành .Trong khi đó hiến pháp năm 1992 lại ra đời trong hoàn cảnh cơ chế quản lí kinh tế đã chuyển đổi nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước bước đầu đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng
Thực chất của bước chuyển đổi kinh tế đó là cuộc cải cách cấu trúc lại nền kinh tế mà bắt đầu từ chế độ sở hữu. (nên cắt bỏ phần này)
Điểm khác nhau cơ bản giữa 2 bản hiến pháp là: Hiến pháp năm 1980 chỉ ghi nhận 2 hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.Trong khi đó hiến pháp năm 1992 lai thừa nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần dựa trên 3 hình thức sở hữu là: sở hữu toàn dân , sở hữu tập thể , và sở hữu tư nhân.
Trong mỗi hình thức sở hữu được ghi nhần trong từng bản hiến pháp lại có sự khác nhau.
1.Sở hữu toàn dân: là sở hữu trong đó toàn thể nhân dân là chủ sở hữu đối với tài sản.
Trong sở hữu toàn dân ở 2 bản hiến pháp thì điểm khac nhau cơ bản nhất là hướng phát triển.Trước đây ở hiến pháp năm 1980 cấc doanh nghiệp các cơ quan và các tổ chức thuộc sở hữu toàn dân được bảo hộ đến cùng, không bao giờ bị giải thế . bị phá sản hoặc chuyển đổi hình thức sở hữu vì sở hữu nhà nước là nền tảng đánh giá mức độ chin muồi của CNXH. Tuy nhiên ngày nay trong hiến pháp năm 1992 sở hữu nhà nước được điều chỉnh theo 2 hướng :
- Xác định những khu vực được côi là then chốt , chủ yếu nhất như các cơ sở công nghiệp năng, công nghiệp chế tạo máy, công nghiệp hoá chất , giao thông vận tải…phải củng cố và mở rộng sở hữu nhà nước.Mặt khác phải thu hẹp sở hữu nhà nước ở những ngành , những lĩnh vưc , đơn vị kinh tế làm ăn kém hiệu quả hoặc chưa thực sự cần thiết dưới nhiều hình thức như: chuyển quyền sở hữu , bán đấu thầu , chuyển thành công ty cổ phân
- Thực hiện phân cấp quản lí tài sản thuộc sở hữu nhà nước nhằm bảo toàn và phát triển số tài sản này.Trong những năm qua nhà nước đã tiến hành rộng rãi việc giao vốn cho các đơn vị kinh tế quốc doanh , trên cơ sở đó tăng cường trách nhiệm trong việc sử dụng vốn của các đơn vị kinh tế quốc doanh.Còn đối với ruộng đất là sở hữu nhà nước cũng quy định quyền sữ dụng ổn định và lâu dài đối với cá nhân và tập thể được giao.
2. Sở hữu tập thể: là sở hữu của các hợp tác xă hoặc các hình thức kinh tế ổn định khác do cá nhân hộ gia đình góp vốn góp sức hợp tác sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện dân chủ cùng có lợi để thực hiện mục đích chung được quy định trong điều lệ.
Trươc đây sở hữu tập thể được quy định tại điều 23 HP1980 . Các tập thể được hình thành theo mệnh lệnh của nhà nước . Khi đó chúng ta chưa quan tâm đúng mức tới các nguyên tắc tự nguyện dân chủ và cùng có lợi. Vì thế , sở hữu tập thể có lúc bị biến dạng và không được phát triển .
Trong HP1992 đổi mới giúp ta có những nhìn nhận mới về sở hữu tập thể .Chúng ta không còn đồng nhất hợp tác hoá với tập thể hoá . Hợp tác xã theo mô hình mới phải là đơn vị kinh tế tập thể do người lao động tự nguyện góp vốn và sức lao động cùng nhau tiến hành kinh doanh . Nhu cầu sản xuất và lợi ích kinh tế là động lực trực tiếp thúc đẩy những người sản xuất nhỏ tự nguyện hợp lại với nhau trong lĩnh vực mà họ thấy là cần thiết và ở những quy mô hiệu quả nhất nhằm đạt được hiệu quả cao hơn.
3. Sở hữu tư nhân là vấn đề rất mới trong HP1992 so với HP1980.
Sở hữu tư nhân là hình thức sở hữu của cá nhân đối với tài sản hợp pháp của mình trong đó có vốn , tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dung. Sở hữu tư nhân bao gồm sở hữu của hộ cá thể , tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân.
Ở nước ta hiện nay sự tồn tại của sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất là một tất yếu khách quan bởi vì lực lượng sản xuất tương ứng với nó còn đầy sức sống thể hiện ở chỗ: nguồn vốn trong nhân dân còn rất lớn chưa được khai thác hết thể hiện ở nhu cầu sản xuất và tiêu dung trong xã hội còn rất bức bách , số lượng lao động chưa có việc làm còn nhiều và mỗi năm còn được bổ sung.
Để có cái nhìn khái quát về sở hữu tư nhân ta xem xét các khía cạnh sau:
a, Chủ thể của sở hữu tư nhân:là từng cá nhân công dân.Như vậy phạm vi chủ thể của sở hữu tư nhân cũng rất rộng
b, Khách thể của sở hữu tư nhân: Được quy định tại điều 58 trong HP1992:”Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở ,tư liệu sinh hoạt , tư liệu sản xuất ,vốn và các tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc các tổ chức kinh tế khác.”Vì vậy khách thể của sở hữu tư nhân bao gồm:vốn , những tư liệu tiêu dung trong sản xuất và sinh hoạt như nông cụ , máy móc, nhà, xưởng…Những tư liệu sản xuất chủ yếu như ruộng đất hầm mỏ ,sông hồ , tài nguyên trong lòng đất…không thể là sở hữu tư nhân. Tài sản hợp pháp thuộc sở hữu tư nhân không bị hạn chế về số lượng và giá trị.
c, Cơ sở pháp lí để hình thành sở hữu tư nhân
Sở hữu tư nhân được hình thành bằng nhiều cách khác nhau.Trước hết sở hữu tư nhân được hình thành bằng con đường thu nhập hợp pháp.Bằng sức lao động của cá nhân , hộ cá thể ,xí nghiệp tư doanh có quyền được hưởng những thành quả do lao động của chính mình làm ra.Sở hữu tư nhân còn được hình thành bằng con đường thừa kế , tiết kiệm để dành của cá nhân , hộ cá thể , xí nghiệp tư doanh.
d, Hướng phát triển
Hình thức sở hữu tư nhân hiện nay còn khá phổ biến và còn tồn tại lâu dài trong nền kinh tế quốc dân.Hướng phát triển cũng khác nhau: Sở hữu tư nhân cũng dần dần được chuyển hoá thành các hình thức sở hữu khác ( sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể ) bằng việc góp vốn để kinh doanh .Và cũng được tăng lên và phát triển bằng việc các doanh nghiệp nhà nước thực hiện việc cổ phần hoá.
Tóm lại thực tiễn những năm gần đây đã chứng tỏ việc thừa nhận sự tồn tại của sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất đảm bảo cho nền kinh tế phát triển . Và việc này có tác dụng giải phóng tiềm năng sản xuất to lớn và có tác dụng hỗ trợ kích thích sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể phát triển.Sự khác nhau giữa việc ghi nhận các hình thức sở hữu trong 2 bản HP năm 1980 và HP năm 1992 càng cho thấy rõ hơn điểm tiến bộ của nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế thị trường.Hiến pháp nước ta vẫn đang trong quá trình đổi mới hứa hẹn trong tương lai sẽ còn có nhiều quy định tiến bộ về hình thức sở hữu góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Thứ tư: Đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa, tổ chức và xây dựng nền kinh tế phát triển đúng hướng, lành mạnh, năng suất và hiệu quả là hoạt động chủ yếu. Để đạt được điều này thì nhà nước xã hội chủ nghĩa cần thiết phải xây dựng nguyên tắc quản lí của nhà nước cho chính sách phát triển kinh tế. Tuy nhiên, các nguyên tắc quản lí cảu nhà nước cho chính sách phát triển kinh tế ở mỗi Hiến pháp là có sự khác nhau. Đối với Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 thì sự khác nhau đó được thể hiện như sau:
Hiến pháp năm 1980 quy định nguyên tắc quản lí của nhà nước về nền kinh tế như sau:
Điều 33:
Nhà nước lãnh đạo nền kinh tế quốc dân theo kế hoạch thống nhất; đề cao tinh thần trách nhiệm, phát huy tính chủ động và tính sáng tạo của các cấp, các ngành, các đơn vị cơ sở và cá nhân, để xây dựng và thực hiện kế hoạc nhà nước; huy động mọi lực lượng lao động, tài nguyên thiên nhiên và cơ sở vật chất – kỹ thuật của đất nước, bảo đảm nền kinh tế quốc dân phát triển toàn diện, cân đối, vững chắc, với nhịp độ nhanh và hiệu quả cao.
Điều 34:
Nhà nước tổ chức nền sản xuất xã hội theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa; xây dựng và hoàn thiện không ngừng hệ thống quản lí kinh tế; vận dụng đúng đắn các qui luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội; áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc kết hợp quản lí theo ngành với quản lí theo địa phương và vùng lãnh thổ; kết hợp lợi ích của nhà nước, của tập thể và của người lao động; xây dựng và bảo đảm tôn trọng pháp luật kinh tế.
Còn Hiến pháp năm 1992 quy định:
Điều 26:
Nhà nước thống nhất quản lí nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách; phân công trách nhiệm và phân cấp quản lí nhà nước giữa các ngành, các cấp; kết hợp lợi ích của cá nhân, của tập thể với lợi ích của nhà nước.
- Sự khác biệt thứ nhất được thể hiện ở chỗ: Nhà nước thống nhất quản lí nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách. Tuy cả Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 đều quản lí nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật nhưng ở Hiến pháp năm 1992 việc dùng pháp luật để quản lí đã được mở rộng ra nhiều lĩnh vực hơn như về quan hệ trong phân phối, quan hệ với các nước, các tổ chức nước ngoài trong lĩnh vực kinh tế…
Cùng với pháp luật, Nhà nước phải có kế hoạch để từng bước ổn định và phát triển nền kinh tế. Kế hoạch của nhà nước ở Hiến pháp năm 1992 đã có sự tuân theo các qui luật phát triển kinh tế 1 cách triệt để hơn, không chủ quan duy ý chí như trong Hiến pháp năm 1980 đã qui định. Hiến pháp năm 1992 đã chỉ rõ kế hoạch của nhà nước chỉ mang tính định hướng, nhà nước lập kế hoạch chung cho cả nền kinh tế chứ không điều chỉnh chi tiết từng bộ phận của nền kinh tế.
- Sự khác biệt thứ hai được thể hiện trong việc nhà nước phân công trách nhiệm và phân cấp quản lí giữa các ngành, các cấp 1 cách hợp lí.
Hiến pháp năm 1980 tuy đã đề cập tới việc này nhưng rồi nó lại không được chú trọng. Sự phân công trách nhiệm và phân cấp quản lí đã được tiến hành nhưng lại có sự chồng chéo, không rõ ràng . Sự ôm đồm của nhà nước trong việc quản lí nền kinh tế đã dẫn đến nhầm lẫn giữa quản lí nhà nước về kinh tế với quản lí sản xuất, kinh doanh.
Đã có sự đổi mới so với trước, Hiến pháp năm 1992 đã cụ thể hơn trách nhiệm giữa các ngành, các cấp cũng như trách nhiệm của tập thể và cá nhân đã được xác định rõ ràng hơn, bớt chồng chéo và tránh để không xảy ra hiện tượng vô hiệu hóa lẫn nhau. Ngoài ra, trách nhiệm của trung ương và trách nhiệm của từng địa phương cũng như trách nhiệm của các cơ quan quản lí tổng hợp (Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp…) và các cơ quan quản lí ngành (bộ, sở, phòng…) cũng được phân định 1 cách rõ ràng, hợp lí. Đồng thời, nhà nước đã giao quyền tự chủ cho các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Các đơn vị kinh tế được quyền chủ động sản xuất kinh doanh, chịu trách nhiệm về việc bảo toàn và phát triển vốn cũng như toàn bộ hoạt động của mình, làm tròn các nghĩa vụ đối với nhà nước.
- Một điểm khác biệt nữa đó là về việc nhà nước giải quyết tốt mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân, tập thể và nhà nước. Điều 34 Hiến pháp năm 1980 đã đề cập đến việc kết hợp lợi ích của nhà nước, của tập thể và của người lao động, tuy nhiên trong lĩnh vực phân phối sản phẩm của xã hội, lợi ích của người lao động chưa được chú ý thỏa đáng (được xếp vào hàng cuối). Người lao động với tư cách là chủ thể trong sản xuất, kinh doanh không thể nào đem hết khả năng của mình để làm ra nhiều sản phẩm khi mà lợi ích của họ không được đảm bảo, không được quan tâm thỏa đáng. Với chiến lược vì con người, HIến pháp năm 1992 đã có sự thay đổi, đã chú trọng quan tâm đến lợi ích của người người lao động cả về vật chất và tinh thần trong lĩnh vực kinh tế. Lợi ích của người lao động phải đặt lên hàng đầu, đây là đòn bẩy góp phần phát triển kinh tế. Qua đây thấy rõ được bản chất giai cấp của nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, luôn lấy lợi ích của nhân dân làm động lực và mục đích của mọi hoạt động.
Như vậy rõ ràng Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 đã có sự khác biệt nhưng vậy thì nguyên nhân là do đâu?
Nguyên nhân chính là do Hiến pháp năm 1980 là Hiến pháp của cơ chế cũ – cơ chế tập trung kế hoạch của những nhận thức cũ về chủ nghĩa xã hội. Cơ chế này đã có tác dụng rất to lớn đối với công cuộc chiến thắng thực dân và đế quốc những năm trước đây, nhưng sang đến một nền hòa bình, xây dựng và phát triển kinh tế, nó đã đẩy đất nước Việt Nam đến bờ vực của sự khủng hoảng kinh tế và xã hội. Đồng thời trên thế giới cũng có nhiều biến động lớn, đó là không riêng gì Việt Nam mà cả hệ thống XHCN thời kì này đều bước vào giao đoạn khủng hoảng, rồi sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu. Trước tình hình mới của đất nước cũng như trước xu thế mới của thời đại, Hiến pháp năm 1992 đã ra đời với nhiều đổi mới hơn.
Chính sách phát triển kinh tế là một trong những chính sách quan trọng của đảng và nhà nước ta trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vậy xem xét hai bản hiến pháp 1980 và 1992 sửa đổi ta có thể đánh giá về chính sách phát triển kinh tế của nước ta theo hai thời kỳ đó sau:
Theo hiến pháp năm 1980 đất nước ta mới giành được độc lập nền kinh tế nước ta còn nghèo nàn kém phát riển. Thể hiện ở tốc độ tăng trưởng chỉ đạt 0,2% (76-80), công nghiệp 0,6%, nông nghiệp 2%. Đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, Bên cạnh đó sau khi mới giành được độc lập nước ta còn gặp phải sự chống cự của các đối tượng thù địch, và sự cấm vận của nước ngoài (Mĩ) đóng cửa không cho giao lưu với các nước trên thế giới. Bởi vậy kinh tế xã hội nước ta lúc bấy giờ rơi vào thế cô lập, Xuất phát từ những khó khăn như vậy, tư tưởng con người việt sau khi mới giành được độc lập mang nặng tính chất đối phó, kỳ thị với những người nước ngoài nên họ chỉ muốn tự mình xây dựng cuộc sống phát triển kinh tế,muốn xoá bỏ người bóc lột người đảm bảo cuộc sống thanh bình.Bởi vậy mà đại hội V đã thông qua chính sách phát triển kinh tế ,tập trung quan liêu bao cấp phát triển dựa trên điều kiện sẵn có của nước mình, chỉ thừa nhận hai thành phần kinh tế và hai hình thức sở hữu. chính những nguyên nhân đấy đã làm cho nền kinh tế nước ta chậm phát triển và đẩy nền kinh tế nước ta vào tình trạng kém triển và khủng hoảng trầm trọng. Theo các chuyên gia kinh tế thế giới nhận xét rằng sau một quãng thời gian chiến tranh lâu dài nền kinh tế nước ta đã tụt lại 100 năm so với các quốc gia trên thế giới. Mà theo hiến pháp 1992 có sự thay đổi trong chính sách phát triển kinh tế, mục tiêu phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa,và thừa nhận ba hình thức sở hữu ( toàn dân, tập thể và tư nhân )phát riển kinh tế định hướng XHCN phát huy hết mọi tiềm năng vốn có của mình, nhằm xây dựng nền kinh tế tự chủ. Với nước ta xuất phát từ sự phong phú về tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực con người, mà chính sách phát triển kinh tế của nhà nước ta khuyến khích phát triển mọi thành phần kinh tế nhằm phát huy hết sức mạnh kinh tế và tiềm năng vốn có của đất nước, tạo sự ?(chưa ổn,đó mới chỉ là nguyên nhân phụ.n.nhân chính là thay đổi trong tư duy của đảng và nhà nước ta trong quá trình p.triển k tế:tuân theo quy luật khách quan)
Chính những sự hay đổi trong chính sách phát triển kinh tế của nước ta theo hiến pháp 1992 so với hiến pháp 1980 mà nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, và được đánh giá năng động dạng trong phát triển kinh tế. ghi nhận qua các kỳ đại hội, cụ thể là đại hội X đã đánh giá tình hình phát triển kinh tế xã hội nước ta, đã có rất nhiều thành tựu nổi bật.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm (2001-2005)là 7.5% năm, nền kinh tế nước ta có sự chuyển dịch mạnh mẽ về cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ theo hướng tăng tỉ trọng lao động trong công nghiệp và dịch vụ,và giảm tỉ trọng lao động trong nông nghiệp, phấn đấu đến năm 2010 giảm tỉ trọng lao động trong nông nghiệp xuống còn 50%,và phần đấu đến năm 2010 việt nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá. Bên cạnh đó chính sách phát triển kinh tế đối ngoại ngày càng được quan tâm nhiều, chủ trương chính sách hợp tác trên phương diện đa phương hoá đa dạng hoá.Nhằm mở rộng giao lưu hợp tác nước ngoài thu hút vốn đầu tư thiết bị khoa học kỹ thuật công nghệ, đẩy nhanh sự phát triển kinh tế. Đứng trước nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế thì nhà nước ta cũng luôn hoàn thiện hệ thống pháp luật, quản lí kinh tế thị trường, tạo môi trường ổn định thuận lợi trong phát triển kinh tế.
Theo hiến pháp năm 1992 đã thừa nhận sự tồn tại và phát triển của thành phần kinh tế tư nhân, chính sự hay đổi của hiến pháp 1992 đã tạo cơ hội điều kiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế theo hướng tự động chuyên môn hoá đa dạng hoá dưới sự quản lí của nhà nước bằng pháp luật, đã là nhân tố thúc đẩy cho việc phát huy hết khả năng kinh tế của nhà nước ta.
Bởi vậy mà việt nam đã từ một nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu nền kinh tế tự cung tự cấp mà hoà nhập chung với nền kinh tế thế giới sôi động như ngày nay.Bằng sự phấn đấu và sự thay đổi chính sách phát triển kinh tế, mà ngày nay các quốc gia trên thế giới không thể nhìn nhận việt nam bằng đơn vị nhỏ trong tăng tưởng kinh tế nhanh.Bởi vậy mà việt nam đã gia nhập WTO trở thành đối thủ cạnh tranh trong phát riển kinh tế của các nước trên thế giới, trên cơ sở bình đẳng cùng phát triển. Và trở thành trung tâm thu hút vốn đầu tư của đông nam Á nói riêng và châu Á nói chung.
Nhưng bên cạnh những thành tựu đó định hướng phát triển kinh tế thị trường của nước ta cũng gặp phải một số bất cập vd: như làm hàng giả, hàng kém chất lượng,buôn lậu và sự phân hoá giàu nghèo, bóc lọt sức lao động …Mặt khác phát triển nền kinh tế thị trường còn dốc nhiều sức cho mục tiêu tốc độ cao, tất yếu làm sao nhãng mục tiêu cao hơn là chiến lược tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa trong điều kiện thể chế còn nhiều khiếm khuyết, năng lực yếu, lực lượng lao độg còn kém chất lượng, việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế lên cao sẽ làm mất phương hướng quản lí nền kinh tế. Mà bên cạnh đó theo điều 15 hiến pháp 1992 thừa nhận nền kinh tế thị trường nhưng theo điều 4 lại nói nước ta là nước (nhà nc ta là nn xhcn theo tư tưởng của chủ nghĩa MaxLeNin)theo chủ nghĩa MacLenin, mà chủ nghĩa max lenin phủ nhận nền kinh tế thị trường bằng tư bản xoá bỏ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.Bởi vậy có chủ nghĩa Maxlenin thì không có kinh tế thị trường và sở hữu tư nhân.
Điều 17 cũng khẳng định ĐCSVN lãnh đạo nhà nước XHCNVN trong xây dựng nền kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa là trái ngược với quan điểm của chủ nghĩa Max.
Xuất phát từ những quan điểm đánh giá như vậy đối chiếu theo hiến pháp 1992 nhà nước ta thừa nhận sự tồn tại và phát triển của thành phần kinh tế tư nhân. Mà trên thực tế phát triển kinh tế thị trường thì kinh tế tư nhân phải đóng vai trò quan trọng nhất. Nhưng nhà nước ta lại xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thừa nhận thành phần kinh tế nhà nước (sở hữu toàn dân)và thành phần kinh tế hợp tác xã (sở hữu tập thể) đóng vai trò chủ yếu.Vậy thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế tư nhân trong chính sách phát triển kinh tế của nước ta hiện nay có đối lập với việc xấy dựng nền kinh tế theo định hướng CNXH của nước ta hay không?
Bên cạnh đó trên thực tế thì thành phần kinh tế ngoài quốc doanh vẫn chiếm tỉ trọng cao hơn rất nhiều so với thành phần kinh tế quốc doanh. Mà trong đó kinh tế tư nhân đóng vai trò quan trọng thì đương nhiên sự tồn tại của thành phần kinh tế tư nhân phải có sự bóc lột, sự phân hoá giàu nghèo.
Vậy phải chăng nó có mâu thuẫn với định hướng XHCN của nhà nước ta hay không?mà việc xây dựng nền kinh tế thị trường như vậy có làm chệch hướng XHCN không?
Sửa lai:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Điểm giống nhau trong chính sách phát triển kinh tế của hai bản hiến pháp năm 1980 và năm 1992.doc