Câu 1.Thế nào là tố tụng dân sự,luật tố tụng dân sự
ã Tố tụng dân sự là trình tự do pháp luật quy định cho việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự
ã Luật tố tụng dân sự Việt Nam là 1 ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tố tụng dân sự để bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự nhanh chóng,đúng đắn bảo vệ quyền,lợi ích hợp pháp của cá nhân ,cơ quan,tổ chức và lợi ích hợp pháp của Nhà nước
Câu2.Đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh và vai trò của Luật tố tụng dân sự
a) Đối tượng điều chỉnh
Đối tượng điều chỉnh của luật TTDS VN là các quan hệ giữa tòa án,viện kiểm sát,cơ quan thi hành án, đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự,người làm chứng, người giám định,người phiên dịch,người định giá tài sản và những người liên quan phát sinh trong ttds
66 trang |
Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 9578 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề cương ôn thi môn Luật tố tụng dân sự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cho đến khi có quyết định tái thẩm. Việc quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật được tiến hành khi đã kháng nghị. Câu 49. Phạm vi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm? Thẩm quyền, thủ tục tiến hành phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm? Quyền hạn của hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm? 1. Thủ tục giám đốc thẩm: a. Phạm vi xét xử giám đốc thẩm Việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm nhằm khắc phục, sửa chữa những sai lầm trong các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy, hội đồng giám đốc thẩm phải được xét lại toàn bộ nội dung bản án, quyết định bị kháng nghị. Tuy vậy, để tránh làm mất tính ổn định của bản án, quyết định, kéo dài việc giải quyết vụ án, Điều 296 BLTTDS quy dịnh hội đồng giám đốc thẩm xem xét lại phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị. Hội đồng giám đốc thẩm chỉ có quyền xem xét phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không bị kháng nghị hoặc không có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị, nếu phần quyết định đó xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người thứ ba không phải là đương sự trong vụ án. b. Thẩm quyền giám đốc thẩm Thẩm quyền giám đốc thẩm được xác định bởi tính chất giám đốc thẩm và căn cứ và cơ cấu hệ thống tổ chức của toà án. Theo Điều 291 BLTTDS, Toà án nhân dân tối cao, toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giám đốc thẩm các bản án, quyết định giải quyết vụ án đã có hiệu lực pháp luật của toà án bị kháng nghị. Ủy ban thẩm phán toà án nhân dân cấp tỉnh giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án nhân dân cấp huyện bị kháng nghị. Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động của toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toá án nhân dân cấp tỉnh bị kháng nghị. Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lưc pháp luật của các Toà phúc thẩm, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà Lao động của Toà án nhân dân tối cao bị kháng nghị. Trong trường hợp, có nhiều bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật về cùng một vụ án dân sự bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thuộc thẩm quyền của các cấp toà án khác nhau thì toà án cấp trên có thẩm quyền quyền giám đốc thẩm toàn bộ. c. Thủ tục tiến hành phiên toà giám đốc thẩm Theo Điều 295 BLTTDS, phiên toà giám đốc thẩm không mở công khai. Nếu có người tham gia tố tụng được toà án triệu tập vắng mặt thì phiên toà vẫn được tiến hành. Trong trường hợp kiểm sát viên vắng mặt hoặc bị thay đổi mà không có người thay thế ngay thì phải hoãn phiên toà. Sau khi chủ toạ khai mạc phiên toà, một thành viên cảu hội đồng giám đốc thẩm trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quá trình xét xử vụ án, quyết định của bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, các căn cứ, nhận định của kháng nghị và đề nghị của người kháng nghị. Trong trường hợp có người tham gia tố tụng hoặc người khác được toà án triệu thập tham gia phiên toà giám đốc thẩm, thì họ được trinh bày ý kíên của mình về quyết định kháng nghị sau khi thành viên của hội đồng xét xử trình bày tóm tắt nội dung vụ án v.v...Nếu thấy có vấn đề nào chưa rõ thì hội đồng xét xử có thể hỏi thêm họ. Sau đó, khi những người được triệu tập tham gia phiên toà trình bày xong ý kiến của mình, các thành viên của hội đồng xét xử hỏi xong thì đại diện viện kiểm sất phát biểu ý kiến của viện kiểm sát về quyết định kháng nghị. Các thành viên của hội đồng giám đốc thẩm thảo luận và phát biểu ý kiến của mình về việc giải quyết vụ án. Đại diện viện kiểm sát phát biểu ý kiến của viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án. Hội đồng giám đốc thẩm biểu quyết về việc giải quyết vụ án. Quyết định giám đốc thẩm của Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao phải được quá nửa tổng số thành viên của Uỷ ban thẩm phán hoặc hội đồng thẩm phán biểu quyết tán thành. Uỷ ban thẩm phán toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao biểu quyết theo trình tự tán thành, không tán thành với kháng nghị và ý kiến khác. Trường hợp không được quá nửa tổng số thành viên của uỷ ban thẩm phán toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao biểu quyết tán thành thì phải hoãn phiên toà. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên toà, uỷ ban thẩm phán toà án cấp tỉnh, Hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao phải tiến hành xét xử lại với sự tham gia của toàn thể các thành viên. d. Quyền hạn của hội đồng xét xử giám đốc thẩm Theo quy định tại Điều 297 BLTTDS, Hội đồng giám đốc thẩm có các quyền hạn sau: • Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật trong trường hợp bản án, quyết định đúng, việc kháng nghị không có căn cứ. • Giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của toà án cập dưới đã bị huỷ hoặc bị sửa. Nếu bản án, quyết định của toà án cấp dưới bị huỷ, bị sửa không có căn cứ thì hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của toà án cấp dưới. Chẳng hạn, khi xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, hội đồng giám đốc thẩm của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao có thể huỷ bản án, quyết định của toà án nhân dân cấp tỉnh và giữ nguyên bản án, quyết định của toà án nhân dân cấp huyện đã bị toà án nhân dân cấp tỉnh sửa hoặc bị hủy. • Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm lại trong các trường hợp sau: - Việc thu thập chứng cứ và chứng minh chưa thực hiện đầy đủ hoặc không theo đúng quy định của BLTTDS. Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình- tiết khách quan của vụ án hoặc có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật. Thành phần của hội đồng xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm không đúng- quy định của BLTTDS hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng. • Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án nếu vụ án đó thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 192 BLTTDS. Khi quyết định đình chỉ vụ án, đối với sự việc không thuộc thẩm quyền của toà án, thì toà án cần hướng dẫn đương sự yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết. 2. Thủ tục tái thẩm: a. Phạm vị xét xử tái thẩm Căn cứ vào Điều 296 BLTTDS thì hội đồng tái thẩm chỉ xem xét lại phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị. Ngoài ra, hội đồng tái thẩm chỉ có quyền xem xét phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không bị kháng nghị hoặc không liên quan tới việc xem xét nội dung kháng nghị nếu phần quyết định đó xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người thứ ba không phải là đương sự trong vụ án. b. Thẩm quyền tái thẩm Căn cứ vào Điều 310 BLTTDS, Thẩm quyền tái thẩm được xác định như các quy định về thẩm quyền của thủ tục giám đốc thẩm. Như vậy, theo Điều 291 BLTTDS, Toà án nhân dân tối cao, toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền tái thẩm các bản án, quyết định giải quyết vụ án đã có hiệu lực pháp luật của toà án bị kháng nghị. Ủy ban thẩm phán toà án nhân dân cấp tỉnh tái thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án nhân dân cấp huyện bị kháng nghị. Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động của toà án nhân dân tối cao tái thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toá án nhân dân cấp tỉnh bị kháng nghị. Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao tái thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lưc pháp luật của các Toà phúc thẩm, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà Lao động của Toà án nhân dân tối cao bị kháng nghị. Trong trường hợp, có nhiều bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật về cùng một vụ án dân sự bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm thuộc thẩm quyền của các cấp toà án khác nhau thì toà án cấp trên có thẩm quyền quyền giám đốc thẩm toàn bộ. c. Thủ tục tiến hành phiên toà tái thẩm Theo quy định tại Điều 295, Điều 310 BLTTDS, thủ tục tiến hành phiên toà tái thẩm tương tự như thủ tục tiến hành phiên toà giám đốc thẩm. Theo đó, phiên toà giám đốc thẩm không mở công khai. Nếu có người tham gia tố tụng được toà án triệu tập vắng mặt thì phiên toà vẫn được tiến hành. Trong trường hợp kiểm sát viên vắng mặt hoặc bị thay đổi mà không có người thay thế ngay thì phải hoãn phiên toà. Sau khi chủ toạ khai mạc phiên toà, một thành viên cảu hội đồng giám đốc thẩm trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quá trình xét xử vụ án, quyết định của bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, các căn cứ, nhận định của kháng nghị và đề nghị của người kháng nghị. Trong trường hợp có người tham gia tố tụng hoặc người khác được toà án triệu thập tham gia phiên toà giám đốc thẩm, thì họ được trinh bày ý kíên của mình về quyết định kháng nghị sau khi thành viên của hội đồng xét xử trình bày tóm tắt nội dung vụ án v.v...Nếu thấy có vấn đề nào chưa rõ thì hội đồng xét xử có thể hỏi thêm họ. Sau đó, khi những người được triệu tập tham gia phiên toà trình bày xong ý kiến của mình, các thành viên của hội đồng xét xử hỏi xong thì đại diện viện kiểm sất phát biểu ý kiến của viện kiểm sát về quyết định kháng nghị. Các thành viên của hội đồng giám đốc thẩm thảo luận và phát biểu ý kiến của mình về việc giải quyết vụ án. Đại diện viện kiểm sát phát biểu ý kiến của viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án. Hội đồng giám đốc thẩm biểu quyết về việc giải quyết vụ án. Quyết định giám đốc thẩm của Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao phải được quá nửa tổng số thành viên của Uỷ ban thẩm phán hoặc hội đồng thẩm phán biểu quyết tán thành. Uỷ ban thẩm phán toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao biểu quyết theo trình tự tán thành, không tán thành với kháng nghị và ý kiến khác. Trường hợp không được quá nửa tổng số thành viên của uỷ ban thẩm phán toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao biểu quyết tán thành thì phải hoãn phiên toà. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên toà, uỷ ban thẩm phán toà án cấp tỉnh, Hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao phải tiến hành xét xử lại với sự tham gia của toàn thể các thành viên. d. Quyền hạn của hội đồng xét xử tái thẩm Căn cứ vào mục đích, tính chất của tái thẩm dân sự, Điều 309 BLTTDS quy định hội đồng tái thẩm có các quyền hạn sau: • Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án bị kháng nghị nếu việc kháng nghị không có căn cứ, bản án, quyết định bị kháng nghị giải quyết đúng pháp luật. Trong trường hợp này, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án bị kháng nghị có hiệu lực thi hành. • Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xử sơ thẩm lại theo thủ tục chung khi kháng nghị có căn cứ, quyết định của toà án trong các bản án, quyết định bị kháng nghị giải quyết vụ án không phù hợp với thực tế khách quan của nó, không đúng pháp luật. Toà án xử lại vụ án phải tiến hành giải quyết vụ án như đối với vụ án mới. Quyết định, bản án của toà án xét xử lại vụ án cũng có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. • Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có các căn cứ quy định tại Điều 192 BLTTDS. Chẳng hạn, trường hợp nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền và nghĩa vụ của họ không được thừa kế v.v...Khi đó, toà án tái thẩm có quyền huỷ bản án, quyết dịnh đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị và đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự. Câu 50. Sự khác nhau cơ bản giữa thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm? Sự khác nhau cơ bản giữa thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm Nội dung Giám đốc thẩm Tái thẩm Khái niệm Giám đốc thẩm dân sự là việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án bị kháng nghị do phát hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án. Tái thẩm dân sự là việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án bị kháng nghị do mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà toà án và các đương sự đã không biết được khi toà án giải quyết vụ án. Giúp cho tòa án cấp trên thấy được và sửa chữa những sai-Ý nghĩa lầm của tòa án cấp dưới trong việc giải quyết từng vụ án cụ thể, từ đó bảo đảm bản án, quyết định của tòa án đã tuyên đúng đắn, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tổng kết, rút kinh nghiệm công tác xét xử, hướng dẫn tòa án cấp- dưới vận dụng đúng pháp luật, bảo đảm cho các tòa án cấp dưới áp dụng Giúp cho toà án sửa-đúng và thống nhất các quy định của pháp luật. chữa được những thiếu sót trong những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, cả trong trường hợp các bán án, quyết định đã được thi hành, không phụ thuộc vào thời gian bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật và được thi hành từ bao giờ. - Bảo đảm được tính pháp chế xã hội chủ nghĩa trong công tác xét xử của toà án. Ngoài ra, bảo đảm cho bản án, quyết định của toà án có căn cứ và- hợp pháp, từ dó có tác dụng bảo vệ được các quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án. Đối tương kháng nghị Những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án trước đó toà án và các đương sự không thể biết được khi giải quyết vụ án dân sự. Những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện thấy sai lầm, vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án dân sự. Căn cứ kháng nghị - Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự không thể biết được. Có cơ sở chứng minh kết luật của người giám định, lời dịch của- người phiên dịch rõ ràng không đúng sự thật hoặc có giả mạo bằng chứng. - Thẩm phán, hội thẩm nhân dân, kiểm sát viên cố tình làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố tình kết luận trái pháp luật. Bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia- đình, kinh doanh, thương mại, lao động của toà án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước mà toà án đã căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình-huỷ. tiết khách quan của vụ án. - Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. - Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng luật. Thời hạn kháng nghị, thay đổi và bổ sung kháng nghị tái thẩm Điều 308 BLTTDS quy định thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là một năm, kể từ ngày phát hiện được tình tiết là căn cứ cho việc kháng nghi. Người đã kháng nghị tái thẩm có quyền thay đổi, bỏ sung quyết định kháng nghị nếu chưa hết thời gian hạn kháng nghị quy định tại Điều 308 BLTTDS hoặc có quyền rút một phần hoặc toàn bộ quyết định kháng nghị trước phiên toà hoặc tại phiên toà hoặc tại phiên toà tái thẩm. (Điều 310, Điều 289 BLTTDS) Điều 288 BLTTDS quy định việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm chỉ được tiến hành trong thời hạn ba năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Người đã kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm có quyền thay đổi, bổ sung quyết định kháng nghị, nếu chưa hết thời hạn kháng nghị theo quy định tại Điều 288 BLTTDS hoặc có quyền rút một phần hoặc toàn bộ quyết định kháng nghị trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà giám đốc thẩm (Điều 289 BLTTDS). Quyền hạn của hội đồng xét xử • Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án bị kháng nghị nếu việc kháng nghị không có căn cứ, bản án, quyết định bị kháng nghị giải quyết đúng pháp luật. • Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xử sơ thẩm lại theo thủ tục chung khi kháng nghị có căn cứ, quyết định của toà án trong các bản án, quyết định bị kháng nghị giải quyết vụ án không phù hợp với thực tế khách quan của nó, không đúng pháp luật. Toà án xử lại vụ án phải tiến hành giải quyết vụ án như đối với vụ án mới. Quyết định, bản án của toà án xét xử lại vụ án cũng có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. • Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có các căn cứ quy định tại Điều 192 BLTTDS. • Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật trong trường hợp bản án, quyết định đúng, việc kháng nghị không có căn cứ. • Giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của toà án cập dưới đã bị huỷ hoặc bị sửa. • Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm lại. • Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án nếu vụ án đó thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 192 BLTTDS. Khi quyết định đình chỉ vụ án, đối với sự việc không thuộc thẩm quyền của toà án, thì toà án cần hướng dẫn đương sự yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Câu 51. Những điểm mới của chế định xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật trong BLTTDS so với các quy định của các văn bản pháp luật trước đây và có điểm nào chưa hợp lý cần sửa đổi, bổ sung? Mục đích của tố tụng dân sự là nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong vụ việc dân sự. Do vậy, để có thể bảo vệ một cách tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đảm bảo việc xét xử của toà án được đúng đắn thì pháp luật tố tụng dân sự cần phải xây dựng được một cơ chế tố tụng thích hợp. 1. Những điểm mới của chế định giám đốc thẩm, tái thẩm - Về tính chất của thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm Trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 (PLTTGQCVADS), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 (PLTTGQCVAKT), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996 (PLTTGQCTCLĐ) được ban hành trước đây không có những quy định mang tính định nghĩa về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Tuy vậy, các quy định mang tính định nghĩa này của thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đã được ghi nhận tại các điều 282, 304 BLTTDS. Quy định tại các điều 282, 304 BLTTDS đã thể hiện được tính chất cơ bản của hai loại thủ tục nói trên. Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đều là thủ tục xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật trên cơ sở kháng nghị của những người có thẩm quyền. Điểm khác biệt cơ bản giữa hai thủ tục này là việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dựa trên những căn cứ kháng nghị khác nhau. Từ điểm khác biệt cơ bản này, dẫn tới sự khác nhau trong các quy định về thời hạn kháng nghị và quyền hạn của hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. - Về phạm vi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm Theo khoản 1 Điều 76 PLTTGQCVADS thì "Hội đồng giám đốc thẩm có thể xem xét toàn bộ vụ án mà không chỉ hạn chế trong nội dung của kháng nghị". Quy định này cũng được áp dụng cho thủ tục tái thẩm các vụ án dân sự. Trong khi đó khoản 1 Điều 76 PLTTGQCTCLĐ quy định "Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ có thể xem xét nội dung của vụ án liên quan đến phần quyết định bị kháng nghị". Vấn đề này không được quy định trong PLTTGQCVAKT. Do vậy, trong thực tiễn việc vận dụng các quy định về phạm vi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các tranh chấp về dân sự, hôn nhân gia đình; kinh doanh, thương mại; lao động là không thống nhất. BLTTDS hiện nay đã khắc phục được những bất cập của các pháp lệnh trước đó và đã có một quy định thống nhất về phạm vi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm đối với tất cả các tranh chấp về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Theo Điều 296 và 310 BLTTDS thì hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm "chỉ xem xét lại phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị". Ngoài ra, hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm có quyền "xem xét phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không bị kháng nghị hoặc không có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị, nếu phần quyết định đó xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người thứ ba không phải là đương sự trong vụ án". - Về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm Điều 71 PLTTGQCVADS, đã quy định bốn căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, đó là: o Việc điều tra không đầy đủ; o Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; o Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; o Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật. Điều 75 PLTTGQCVAKT và Điều 73 PLTTGQCTCLĐ chỉ quy định ba căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, đó là: o Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; o Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; o Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật. Kế thừa các quy định này, BLTTDS quy định việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm dựa trên ba căn cứ sau đây: o Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; o Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; o Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật. Việc BLTTDS quy định việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm dựa trên ba căn cứ nêu trên mà không quy định dựa trên căn cứ "Việc điều tra không đầy đủ" là hoàn toàn hợp lý. Bởi vì "Việc điều tra không đầy đủ" chỉ là một trong những nguyên nhân dẫn tới "Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án". Thực chất đây là trường hợp toà án trong quá trình giải quyết vụ án đã có những sai lầm khi đánh giá về các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự. Còn căn cứ "Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng" và "Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật" thực chất là trường hợp khi toà án tiến hành giải quyết vụ việc đã có những sai lầm nghiêm trọng trong việc vận dụng pháp luật về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và tố tụng dân sự. - Về thời hạn kháng nghị BLTTDS cũng đã có những quy định mang tính thống nhất về thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các bản án, quyết định về dân sự, kinh doanh, thương mại và lao động. Trước khi ban hành BLTTDS, thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm được pháp luật quy định đối với các bản án, quyết định này là khác nhau. Theo PLTTGQCVADS, thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm là 3 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của toà án có hiệu lực pháp luật; thời hạn kháng nghị tái thẩm là 1 năm, kể từ ngày phát hiện được những tình tiết mới là căn cứ để kháng nghị tái thẩm. Đối với việc kháng nghị không gây thiệt hại cho bất cứ đương sự nào thì không bị hạn chế về thời gian. Theo các điều 77, 83 PLTTGQCVAKT thì thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm là 9 tháng, thời hạn kháng nghị tái thẩm là 1 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của toà án có hiệu lực pháp luật. Theo Điều 75 PLTTGQCTCLĐ thì "Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm là 6 tháng, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật; nếu việc kháng nghị có lợi cho người lao động thì thời hạn đó là một năm". Như vậy, theo PLTTGQCVAKT và PLTTGQCTCLĐ thì thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đều được tính từ ngày bản án, quyết định của toà án có hiệu lực pháp luật.Trong khi đó, PLTTGQCVADS có phân biệt mốc tính thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm và tái thẩm. BLTTDS, đã khắc phục những hạn chế của các pháp lệnh nêu trên đồng thời quy định một thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm chung, thống nhất áp dụng cho tất cả các tranh chấp về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Theo Điều 288 và Điều 308 BLTTDS thì thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm là ba năm, kể từ ngày bản án, quyết định của toà án có hiệu lực pháp luật; thời hạn kháng nghị tái thẩm là một năm, kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. - Việc thay đổi, bổ sung, rút quyết định kháng nghị Các văn bản pháp luật về thủ tục được ban hành trước đó không có quy định về việc thay đổi, bổ sung, rút quyết định kháng nghị sau khi người có thẩm quyền đã tiến hành kháng nghị bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Khắc phục những bất cập này, lần đầu tiên các quy định về việc thay đổi, bổ sung, rút quyết định kháng nghị đã được ghi nhận tại Điều 289 và Điều 310 BLTTDS. Theo các quy định của BLTTDS thì người đã kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm có quyền thay đổi, bổ sung quyết định kháng nghị, nếu chưa hết thời hạn kháng nghị; có quyền rút một phần hoặc toàn bộ quyết định kháng nghị trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm. Các quy định này là một điểm mới so với các quy định tại các văn bản pháp luật trước đó. Qua các vấn đề nêu ở trên có thể thấy rằng các quy định về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong BLTTDS đã có nhiều sửa đổi, bổ sung và tiến bộ so với các văn bản pháp luật trước đó. Tuy vậy, việc vận dụng các quy định này trong thực tiễn cũng đặt ra những vấn đề đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền cần phải có những nghiên cứu và hướng dẫn bổ sung cho phù hợp. 2. Những vấn đề đặt ra cho các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm chưa hợp lý cần sửa đổi, bổ sung - Về tính chất của thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm Hiện nay, Điều 282 BLTTDS chỉ đề cập tới thủ tục giám đốc thẩm với tính chất là thủ tục "xét lại bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án". Quy định tại Điều 282 BLTTDS không đề cập tới thủ tục giám đốc thẩm với tính chất là thủ tục xét lại bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện sai lầm của toà án khi nhận định về những tình tiết, sự kiện của vụ việc. Chúng tôi cho rằng bản chất của thủ tục giám đốc thẩm là việc xét xử lại vụ việc mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án bị kháng nghị do phát hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật trong việc giải quyết. Những sai lầm, thiếu sót của toà án khi giải quyết vụ việc có thể ở hai dạng cơ bản là sai lầm về các tình tiết, sự kiện của vụ việc hoặc sai lầm nghiêm trọng khi áp dụng pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và pháp luật tố tụng dân sự. Do vậy, quy định về tính chất của thủ tục giám đốc thẩm như Điều 282 BLTTDS là chưa đầy đủ và không lột tả được hết bản chất của thủ tục giám đốc thẩm. Mặt khác, quy định này cũng không thể hiện đầy đủ các căn cứ kháng nghị theo Điều 283 BLTTDS. Theo chúng tôi, Điều 282 BLTTDS về tính chất của thủ tục giám đốc thẩm cần được sửa đổi như sau:" Giám đốc thẩm là việc xét lại bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có sai lầm của toà án khi nhận định về những tình tiết, sự kiện của vụ án hoặc có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án". - Về phạm vi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm Các quy định về phạm vi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm trong BLTTDS là chưa thật sự hợp lý, cần phải mở rộng phạm vi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm đối với toàn bộ bản án, quyết định như đã từng quy định trong PLTTGQCVADS trước đây. Quy định của BLTTDS hiện nay về phạm vi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm có thể dẫn tới những bất cập trong việc áp dụng. Cụ thể là đối với trường hợp những người có thẩm quyền chỉ tiến hành kháng nghị đối với một phần bản án, quyết định thì một vụ án có thể bị kháng nghị và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm nhiều lần gây kéo dài thời gian giải quyết vụ án. - Về thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm Theo khoản 4 Điều 291 BLTTDS thì những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật về cùng một vụ án dân sự thuộc thẩm quyền của các cấp toà án khác nhau được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 291 thì toà án có thẩm quyền cấp trên giám đốc thẩm toàn bộ vụ án. Theo chúng tôi, quy định tại khoản 4 Điều 291 BLTTDS về thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm là không rõ ràng có thể dẫn tới những cách hiểu và vận dụng khác nhau. Theo cách quy định này có thể dẫn tới cách hiểu là toà án có thẩm quyền cấp trên có thể giám đốc thẩm toàn bộ vụ án mà không bị giới hạn bởi nội dung kháng nghị theo quy định về phạm vi xét xử tại Điều 296 BLTTDS. Do vậy, cần phải có những giải thích, hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. - Về căn cứ kháng nghị Một vấn đề đặt ra trong thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTDS về thủ tục giám đốc thẩm là trường hợp nào được coi "Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng" là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Điều 283 BLTTDS không quy định cụ thể về vấn đề này. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào Điều 299 BLTTDS có thể coi việc vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi : o Việc thu thập chứng cứ và chứng minh chưa thực hiện đầy đủ hoặc không theo đúng quy định tại Chương VII của BLTTDS; o Thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm không đúng quy định của BLTTDS hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng. Vấn đề là ở chỗ cần phải hiểu "có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng" là như thế nào? Theo chúng tôi, những vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng có thể được hiểu là toà án khi tiến hành giải quyết vụ việc đã vi phạm các nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự như nguyên tắc hoà giải, nguyên tắc xét xử công khai, nguyên tắc độc lập xét xử, nguyên tắc về tiếng nói chữ viết trong tố tụng dân sự...hoặc vi phạm các quyền tố tụng cơ bản của đương sự như quyền tham gia phiên toà; xác định sai thẩm quyền của toà án, xác định sai tư cách đương sự.v.v. Vì vậy, các cơ quan có thẩm quyền cần phải hướng dẫn cụ thể về vấn đề này để tránh cách hiểu và vận dụng khác nhau trong thực tiễn. Theo Điều 304 của BLTTDS thì tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà toà án, các đương sự không biết được khi toà án ra bản án, quyết định đó. Tuy nhiên, việc sử dụng thuật ngữ "có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà toà án, các đương sự không biết được khi toà án ra bản án, quyết định đó" là chưa chính xác và mâu thuẫn với quy định về căn cứ kháng nghị theo khoản 1 Điều 305 BLTTDS. Bởi vì, theo khoản 1 Điều 305 BLTTDS thì bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi "Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án". Xét về thuật ngữ thì việc "các đương sự không biết được" và việc "đương sự đã không thể biết được" là hoàn toàn khác nhau. Mặt khác, việc sử dụng thuật ngữ "đương sự đã không thể biết được" cũng không thật sự rõ ràng. Từ đó, có thể dẫn tới cách hiểu tình tiết mới được phát hiện phải là tình tiết mà nhiều đương sự không thể biết, thậm chí là toàn bộ các đương sự trong vụ việc không thể biết mới được coi là căn cứ để kháng nghị tái thẩm. Còn trường hợp tình tiết mới được phát hiện mà chỉ có một đương sự không thể biết thì không coi là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Cách hiểu này có thể dẫn tới việc những người có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm sẽ không tiến hành kháng nghị khi phát hiện những tình tiết mới của vụ việc mà chỉ có một đương sự trong vụ việc không biết được những tình tiết này. Chẳng hạn, nhiều người thừa kế trong vụ án chia thừa kế biết là có một bản di chúc nhưng cố tình giấu đi để yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật, gây bất lợi cho người thừa kế được định đoạt di sản theo di chúc, trong khi đó bản thân người này cũng không biết được là người có di sản đã có di chúc định đoạt tài sản cho mình. Nếu coi đây là trường hợp "Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án" để kháng nghị giám đốc thẩm thì có thể gây bất lợi cho đương sự ngay tình "không thể biết" được các tình tiết đó vì lý do đã hết thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm. Bởi lẽ, thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm được quy định là ba năm nhưng lại được tính từ ngày bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Do vậy, cần phải có những hướng dẫn về vấn đề này theo hướng coi là căn cứ để kháng nghị tái thẩm khi "Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà một trong các đương sự hoặc các đương sự trong vụ việc dân sự đã không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc". - Về việc phát hiện căn cứ kháng nghị và thời hạn kháng nghị Hiện nay, các quy định tại Điều 284 và Điều 306 BLTTDS chỉ dừng lại ở chỗ ghi nhận quyền phát hiện và thông báo những vi phạm pháp luật, những tình tiết mới của vụ việc của đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cũng như nghĩa vụ của viện kiểm sát, toà án trong việc phát hiện và thông báo cho những người có thẩm quyền kháng nghị các căn cứ kháng nghị, không có những quy định về một cơ chế để xử lý, giải quyết những thông báo nhận được. Thiết nghĩ, quyền phát hiện và thông báo những vi phạm pháp luật, những tình tiết mới của vụ việc chỉ thực sự có ý nghĩa nếu quy định một cơ chế rõ ràng, cụ thể cũng như một thời hạn nhất định để những người có thẩm quyền xử lý những thông tin thu nhận được. Mặt khác, bản thân những người có thẩm quyền kháng nghị cũng không thể tự mình xử lý được toàn bộ những đơn từ khiếu nại, tố cáo. Do vậy, cần phải có quy định cụ thể về bộ máy giúp việc, cơ chế hoạt động, trách nhiệm của các thẩm tra viên khi thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Ngoài ra, BLTTDS không có những quy định về thời gian không tính vào thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm do có những trở ngại khách quan mà người có thẩm quyền kháng nghị không thể tiến hành kháng nghị hoặc trường hợp có căn cứ rõ ràng để kháng nghị tái thẩm mà những người có thẩm quyền vẫn không kháng nghị mặc dù biết rõ các căn cứ này. Do vậy, nếu không có những hướng dẫn bổ sung về thời gian không tính vào thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ dẫn đến những bất cập trong việc áp dụng, không đảm bảo được sự công bằng và quyền lợi hợp pháp của các đương sự. Theo quy định của BLTTDS thì thời hạn kháng nghị tái thẩm là một năm, kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Như vậy, việc kháng nghị hay không kháng nghị theo thủ tục tái thẩm hiện nay là phụ thuộc vào việc người có thẩm quyền kháng nghị biết hay không biết các căn cứ để kháng nghị tái thẩm. Và việc người có thẩm quyền kháng nghị biết hay không biết các căn cứ để kháng nghị tái thẩm chủ yếu lại phụ thuộc vào việc thẩm tra viên có đề xuất việc kháng nghị hay không. Do vậy, cần phải xây dựng một cơ chế phối hợp giữa các thẩm tra viên và người có thẩm quyền kháng nghị cũng như trách nhiệm của họ đối với việc không kháng nghị các bản án, quyết định của toà án mặc dù rõ ràng có căn cứ để tiến hành kháng nghị. Quy định này cùng với các quy định về thời gian không tính vào thời hạn kháng nghị sẽ góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự, đảm bảo công bằng xã hội. - Việc thay đổi, bổ sung, rút quyết định kháng nghị BLTTDS hiện nay không có những quy định về thủ tục giải quyết trong trường hợp người đã kháng nghị rút toàn bộ kháng nghị trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm. Vậy khi vận dụng trong thực tiễn, đối với những trường hợp này, toà án cấp giám đốc thẩm, tái thẩm có phải ra quyết định đình chỉ xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm hay không? Đặc biệt, trong trường hợp xét thấy bản án, quyết định có xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người thứ ba không phải là đương sự trong vụ án mà người có thẩm quyền kháng nghị đã rút toàn bộ kháng nghị thì toà án cấp giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ phải giải quyết như thế nào cũng không được đề cập. Do vậy, các cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu bổ sung các quy định về thủ tục giải quyết trong trường hợp người đã kháng nghị rút toàn bộ kháng nghị trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm. - Về vấn đề giám đốc thẩm, tái thẩm đối với việc dân sự Trước kia, theo Nghị quyết số 03/ HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành PLTTGQCVADS thì đối với các việc về yêu cầu tuyên bố một người là mất tích hoặc đã chết mà người bị xác định là đã mất tích hoặc đã chết đó lại quay trở về thì vụ việc sẽ được xét lại theo thủ tục tái thẩm. Hiện nay, theo quy định của BLTTDS thì yêu cầu huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết lại thuộc thẩm quyền của toà án cấp sơ thẩm. Ngoài ra, toà án cấp sơ thẩm cũng có thẩm quyền giải quyết đối với các yêu cầu huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc mất năng lực hành vi dân sự. Do vậy, có thể suy luận việc xem xét lại theo thủ tục tái thẩm đối với các loại việc này không được đặt ra. Tuy nhiên, đối với các việc dân sự khác mà quyết định về việc dân sự đã có hiệu pháp luật mà có sai lầm, vi phạm pháp luật hoặc phát hiện có tình tiết mới thì có được kháng nghị để xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm hay không ? Theo quy định tại Điều 311 BLTTDS về nguyên tắc giải quyết việc dân sự thì khi giải quyết việc dân sự, toà án áp dụng những quy định của Chương XX, đồng thời áp dụng những quy định khác của BLTTDS không trái với những quy định của Chương này để giải quyết những việc dân sự. Như vậy, các quy định tại Điều 311 BLTTDS cũng không thể hiện rõ ràng về việc có áp dụng thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các việc dân sự hay không và nếu có áp dụng thì sẽ được áp dụng đối với các loại việc dân sự nào? Thiết nghĩ, các quyết định về việc dân sự mặc dù đã có hiệu lực pháp luật vẫn có thể có sai lầm, vi phạm pháp luật hoặc phát hiện có tình tiết mới làm thay đổi về cơ bản nội dung vụ việc. Do vậy, cũng cần phải có những hướng dẫn cụ thể về thủ tục xét lại các quyết định giải quyết việc dân sự đã có hiệu lực pháp luật. - Về những người tham gia phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm Theo Điều 292 và Điều 310 BLTTDS thì phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm phải có sự tham gia của viện kiểm sát cùng cấp. Khi xét thấy cần thiết, toà án triệu tập những người tham gia tố tụng và những người khác có liên quan đến việc kháng nghị tham gia phiên toà. Hiện nay, theo Điều 64 BLTTDS thì "Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được tham gia phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm nếu Toà án xét thấy cần thiết". Như vậy, việc "xét thấy cần thiết" có phải triệu tập đương sự, người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của toà án. Theo chúng tôi, để tạo điều kiện cho đương sự có thể bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của mình, đảm bảo sự công khai, minh bạch trong việc giải quyết vụ việc theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì pháp luật nên quy định toà án sẽ triệu tập các đương sự có liên quan tới vụ việc và người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các đương sự đó tham gia phiên toà, trường hợp đã được triệu tập mà vắng mặt thì toà án vẫn tiến hành giải quyết vụ việc. Trên đây là một số ý kiến rút ra từ việc nghiên cứu chế định thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong BLTTDS. Rất mong được các cơ quan có thẩm quyền lưu tâm tham khảo trong việc hướng dẫn áp dụng BLTTDS Câu 52. Thủ tục giải quyết việc dân sự? Những điểm khác nhau cơ bản giữa thủ tục giải quyết việc dân sự với thủ tục giải quyết vụ án dân sự? 1. Thủ tục giải quyết việc dân sự a. Khái niệm thủ tục giải quyết việc dân sự Thủ tục giải quyết việc dân sự là thủ tục giải quyết các yêu cầu toà án công nhận quyền dân sụ, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động, công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Việc giải quyết việc dân sự được tiến hành theo những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự và các quy định khác của BLTTDS và không trái với quy định của Chương XX BLTTDS. Do trong việc dân sự, các bên không có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ nên pháp luật quy định thủ tục giải quyết việc dân sự có những điểm khác so với thủ tục giải quyết vụ án dân sự như thời hạn giải quyết việc dân sự thường ngắn hơn, thành phần giải quyết việc dân sự không có hội thẩm nhân dân tham gia, các phiên họp giải quyết việc dân sự bắt buộc phải có sự tham gia của đại diện viện kiểm sát cùng cấp v.v... b. Thành phần giải quyết việc dân sự Thành phần giải quyết việc dân sự được pháp luật quy định có thể do một hoặc ba thẩm phán tiến hành. Đối với các việc dân sự, đương sự yêu cầu toà án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý, các tình tiết, sự kiện của việc dân sự đã được xác định thông qua lời thừa nhận, thống nhất của các đương sự hoặc đương sự không phản đối chứng cứ, yêu cầu đương sự khác đưa ra thì việc giải quyết đơn giản. Về cơ bản, toà án chỉ áp dụng pháp luật để công nhận hay không công nhận các yêu cầu mà các bên đưa ra. Vì vậy, Khoản 2 Điều 55 quy định những việc dân sự này do một thẩm phán tiến hành. Đối với việc giải quyết yêu cầu huỷ quyết định của trọng tài thương mại phức tạp hơn so với các loại việc dân sự khác. Trong việc giải quyết loại việc này tuy toà án không phải giải quyết về mặt nội dung các yêu cầu dân sự nhưng phải xem xét để công nhân hoặc huỷ quyết định của một cơ quan tài phán khác về việc giải quyết tranh chấp thương mại. Do đó, theo Khoản 1, Khoản 3 Điều 55 và Điều 53 PLTTTM quy định việc giải quyết loại việc này do một hội đồng gồm ba thẩm phán tiến hành. c. Những người tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự Việc giải quyết việc dân sự được tiến hành công khai theo nguyên tắc trực tiếp, liên tục và bằng lời nói. Tất cả những người có liên quan phải được triệu tập tham gia phiên họp. Theo Điều 313 BLTTDS, phiên họp được tiến hành với sự có mặt của các đương sự, người đại diện của đương sự, kiểm sát viên viện kiểm sát cùng cấp. Trong trường hợp cần xem xét, đánh giá lời khai của người làm chứng hoặc kết luận của người giám định tại phiên họp, thẩm phán sẽ quyết định triệu tập người làm chứng, người giám định. Toà án sẽ quyết định hoãn phiên họp trong những trường hợp sau: • Vắng mặt kiểm sát viên viện kiểm sát cùng cấp. • Người có đơn yêu cầu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng. • Vắng mặt người làm chứng, người giám định, người phiên dịch nếu sự tham gia tố tụng của họ là cần thiết. • Thẩm phán, kiểm sát viên, thư ký toà án, người giám dịnh, người phiên dịch bị thay đổi mà không có người thay thế ngay. Đối với các trường hợp người có liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ vắng mặt khi được triệu tập hợp lệ lần thứ nhấu, tuỷ trường hợp mà toà án sẽ quyết định hoãn hoặc vẫn tiến hành phiên họp. Nếu họ đã có lời khai tại toà án, các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ tương đối đầy đủ thì phiên họp vẫn có thể tiến hành. Phiên họp giải quyết việc dân sự vẫn được tiến hành nếu người có liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ vắng mặt khi được triệu tập hợp lệ lần thứ hai, người có yêu cầu có đơn yêu cầu xử vắng mặt họ, vắng mặt người làm chứng, người giám định nếu sự tham gia tố tụng của họ tại phiên toà là không cần thiết. Nếu người có đơn yêu cầu được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vằng mặt thì thẩm phán sẽ ra quyết định đình chỉ việc giải quyết việc dân sự. d. Thủ tục giải quyết việc dân sự • Yêu cầu và thụ lý đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự Việc dân sự phát sinh do các cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện quyền yêu cầu của mình bằng việc nộp đơn trực tiếp tại toà án có thẩm quyền hoặc gửi qua đường bưu điện. Nội dung đơn yêu cầu phải được ghi đầy đủ, rõ ràng những vấn đề cơ bản quy định tại khoản 2 Điều 312 BLTTDS. Để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, kèm theo đơn yêu cầu, tùy theo từng lọai việc cụ thể, người yêu cầu phải cùng cấp các chứng cứ, tài liệu cần thiết. • Chuẩn bị giải quyết việc dân sự Sau khi ra quyết định thụ lý đơn yêu cầu, chánh án toà án phân công thẩm phán hoặc hội đồng phụ trách việc giải quyết đơn yêu cầu. Thẩm phán phụ trách việc giải quyết đơn yêu cầu hoặc một thẩm phán trong hội đồng sẽ tiến hành các công việc như thông báo việc thụ lý, nghiên cứu đơn yêu cầu và các chứng cứ, tài liệu do đương sự gửi kèm theo, yêu cầu các đương sự giao nộp bổ sung tài tiệu, chứng cứ, thu thập chứng cứ theo yêu cầu các đương sự v.v... Khi đã chuẩn bị đủ điều kiện cần thiết thì toà án ra quyết định giải quyết việc dân sự với đầy đủ các nội dung quy định tại Điều 315 BLTTDS để đưa việc dân sự ra phiên họp giải quyết. Toà án phải gửi ngay quyết định này cho người có yêu cầu, người có liên quan. Quyết định này và hồ sơ việc dân sự cũng phải được gửi cho viện kiểm sát cùng cấp để nghiên cứu tham gia phiên họp trong thời hạn tối đa là bảy ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ. Ngoài ra, trong quá trình chuẩn bị giải quyết việc dân sự, tuỳ từng trường hợp khi có các căn cứ do pháp luật quy định thẩm phán sẽ ra các quyết định khác nhau như tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết việc dân sự, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời v.v... • Phiên họp giải quyết việc dân sự Phiên họp giải quyết việc dân sự được tiến hành theo quy định tại Điều 314 BLTTDS với trình tự phiên họp như sau: Trước khi phiên họp được tiến hành, thư ký toà án tiến hành báo- cáo với thẩm phán hoặc hội đồng xét xử về sự vắng mặt, có mặt của những người tham gia phiên họp. Khi bắt đầu phiên họp, thẩm phán chủ toạ phiên họp tuyên bố khai- mạc phiên họp và đọc quyết định mở phiên toà giải quyết việc dân sự, kiểm tra căn cước của những người được triệu tập tham gia phiên họp. Nếu có người vắng mặt, thẩm phán hoặc hội đồng xét xử sẽ quyết định hoãn phiên họp hoặc vẫn tiến hành phiên họp hoặc đình chỉ giải quyết việc dân sự. Sau đó, thẩm phán chủ toạ phiên toà sẽ phổ biến quyền và nghĩa vụ cho những người tham gia tố tụng, giới thiệu họ, tên những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch và hỏi các đương sự hoặc người đại diện của họ xem có ai yêu cầu thay đổi những người đó hay không. Nếu có yêu cầu thay đổi thì hội đồng xét xử hoặc thẩm phán sẽ xem xét quyết định giải quyết yêu cầu thay đổi. Khi xét nội dung của việc dân sự, thẩm phán chủ toạ phiên họp sẽ- hỏi người có yêu cầu xem họ có rút yêu cầu hay không. Nếu có, thẩm phán sẽ ra quyết định đình chỉ việc giải quyết việc dân sự. Nếu không, thẩm phán phải xác định đầy đủ các chi tiết của việc dân sự bằng cách nghe người yêu cầu hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày về những vấn đề yêu cầu toà án giải quyết, lý do, mục đích mà những căn cứ, lý lẽ, lập luận để chứng minh cho yêu cầu của họ là đúng đắn, hợp pháp. Tiếp đến, người có liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của- họ trình bày ý kiến của mình về những vấn đề có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của họ trong việc giải quyết việc dân sự. Người làm chứng trình bày ý kiến của mình về những vấn đề mà họ biết. Người giám định trình bày kết luận giám định, giải thích những vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn. Sau khi họ tình bày xong yêu cầu, ý kiến của mình, nếu thấy có vấn đề chưa rõ hoặc có mâu thuẫn thì thẩm phán hoặc hội đồng xét xử có quyền hỏi thêm. Nếu có ngưòi tham gia tố tụng vắng mặt thì thẩm phán hoặc hội đồng xét xử cho công bố lời khai của họ. Các tài liệu, chứng cứ của việc dân sự được đưa ra xem xét công khai tại phiên họp. Sau đó, kiểm sát viên trình bày quan điểm của viện kiểm sát về việc giải quyết việc dân sự. Cuối cùng, trên cơ sở lời trình bày của những người tham gia- phiên họp, các chứng cứ, tài liệu được xem xét tại phiên họp và quy định của pháp luật, thẩm phán ra quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu của đương sự. Nếu việc giải quyết việc dân sự do ba thẩm phản tiến hành thì họ phải thảo luận, biểu quyết giải quyết việc dân sự theo đa số. • Quyết định giải quyết việc dân sự Quyết định giải quyết việc dân sự là văn bản pháp lý kết thúc quá trình chuẩn bị, xem xét giải quyết một việc dân sự. Trong đó, toà án xác định rõ có hay không sự tồn tại của một sự kiện pháp lý là căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các đương sự, công nhận hay không công nhận quyền dân sự của người có yêu cầu. Nội dung quyết định giải quyết việc dân sự phải ghi đầy đủ các vấn đề theo quy định tại Điều 315 BLTTDS. e. Thủ tục phúc thẩm quyết định giải quyết việc dân sự Theo Điều 316 BLTTDS, khi không đồng ý với quyết định giải quyết việc dân sự của toà án, người có yêu cầu, người có liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo, viện kiểm sát cùng cấp, viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm dân sự đối với quyết định giải quyết việc dân sự đó. Tuy nhiên, đối với quyết định giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, yêu cầu công nhận sự thoả thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sua khi lý hôn thì sau khi toà án ra quyết định là có hiệu lực pháp luật ngay nên đương sự được kháng cáo, viện kiểm sát không được kháng nghị yêu cầu phúc thẩm. Thủ tục phúc thẩm quyết định giải quyết việc dân sự bị kháng cáo, kháng nghị được thực hiện như thủ tục phúc thẩm quyết định giải quyết vụ án dân sự bị kháng cáo, kháng nghị. 2. Những điểm khác nhau cơ bản giữa thủ tục giải quyết việc dân sự với thủ tục giải quyết vụ án dân sự Nội dung Thủ tục giải quyết việc dân sự Thủ tục giải quyết vụ án dân sự Đối tượng Các yêu cầu toà án công nhận quyền dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động, công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động. Các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động Thành phần giải quyết vụ việc dân sự Không có hội thẩm nhân dân tham gia. Theo Điều 52 BLTTDS, Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự gồm một thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Trường hợp đặc biệt có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân. Sự tham gia của đại diện viện kiểm sát cùng cấp Sự tham gia của đại diện viện kiểm sát cùng cấp là bắt buộc. Nếu vắng mặt thì phiên họp giải quyết việc dân sự sẽ bị hoãn. Sự tham gia của đại diện viện kiểm sát cùng cấp là không bắt buộc. Thời hạn tố tụng Thời hiệu yêu cầu để Toà án giải quyết việc dân sự ngắn hơn, là một năm kể từ ngày phát sinh quyền yêu cầu. (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác) Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự dài hơn, là hai năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm. (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác) Thủ tục giải quyết Đơn giản hơn Phức tạp hơn: tranh luận tại toà v.v...
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề cương ôn thi môn Luật tố tụng dân sự.doc