bài giảng 1900 - 1930
Đề cương bài giảng môn
Văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1932
Dành cho sinh viên chuyên ngành văn học và các lớp ngữ văn SP
Thời gian giảng dạy 30 tiết
Tài liệu tham khảo
1. Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng, Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900
– 1932.
2. Chương Thâu ( sưu tầm và biên soạn ), Văn thơ Đông Kinh Nghĩa Thục
3. Trần Đình Hượu, Nho giáo và văn học Việt Nam Trung cận đại
4. Trần Ngọc Vương, Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung
5. Lê Văn Lân ( chủ biên ), Quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam 1900 –
1945
6. Phạm Xuân Thạch, các bài viết trên Tạp chí Văn học và Tạp chí Hội nhà văn
tháng 6 năm 2002
7. Chương Thâu ( sưu tầm ) Phan Bội Châu toàn tập ( những tập liên quan đến
phần tác phẩm được trích giảng )
8. Hoàng Ngọc Phách, Tố Tâm
10. Nguyễn Thái Hoà, Những vấn đề thi pháp của truyện
11. Trần Đình Sử, Những thế giới nghệ thuật thơ
12. Một số tác phẩm của Hồ Biểu Chánh liên quan đến chương trình học tập
Phân bố chương trình học tập (Tổng số : 30 tiết )
Phần I . Khái quát về lịch sử và văn học Việt Nam giai đoạn từ đầu thế kỷ XX
đến 1932 ( 4 tiết )
Phần II. Văn chương yêu nước do nhà nho chí sĩ sáng tác trong ba thập niên
đầu thế kỷ XX
Chương 1. Khái quát – nhận diện – giá trị văn học sử ( 4 tiết )
Chương 2. Phan Bội Châu ( 6 tiết )
Phần III. Văn học mới ở đô thị
Chương 1. Khái quát – nhận diện – giá trị văn học sử ( 4 tiết )
Chương 2. Tiểu thuyết dài bằng chữ quốc ngữ trong ba mươi năm đầu thế kỷ.
Hoàng Ngọc Phách và Hồ Biểu Chánh ( 6 tiết )
Chương 3. Tản Đà - tác gia của hai thời đại ( 6 tiết )
Ghi chú : phần thực hành hoặc thảo luận sẽ được xen kẽ trong các chương
của chương trình học tập
34 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 3500 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề cương bài giảng môn Văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1932, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bài giảng 1900 - 1930
Đề cương bài giảng môn
Văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1932
Dành cho sinh viên chuyên ngành văn học và các lớp ngữ văn SP
Thời gian giảng dạy 30 tiết
Tài liệu tham khảo
1. Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng, Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900
– 1932.
2. Chương Thâu ( sưu tầm và biên soạn ), Văn thơ Đông Kinh Nghĩa Thục
3. Trần Đình Hượu, Nho giáo và văn học Việt Nam Trung cận đại
4. Trần Ngọc Vương, Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung
5. Lê Văn Lân ( chủ biên ), Quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam 1900 –
1945
6. Phạm Xuân Thạch, các bài viết trên Tạp chí Văn học và Tạp chí Hội nhà văn
tháng 6 năm 2002
7. Chương Thâu ( sưu tầm ) Phan Bội Châu toàn tập ( những tập liên quan đến
phần tác phẩm được trích giảng )
8. Hoàng Ngọc Phách, Tố Tâm
10. Nguyễn Thái Hoà, Những vấn đề thi pháp của truyện
11. Trần Đình Sử, Những thế giới nghệ thuật thơ
12. Một số tác phẩm của Hồ Biểu Chánh liên quan đến chương trình học tập
Phân bố chương trình học tập (Tổng số : 30 tiết )
Phần I . Khái quát về lịch sử và văn học Việt Nam giai đoạn từ đầu thế kỷ XX
đến 1932 ( 4 tiết )
Phần II. Văn chương yêu nước do nhà nho chí sĩ sáng tác trong ba thập niên
đầu thế kỷ XX
Chương 1. Khái quát – nhận diện – giá trị văn học sử ( 4 tiết )
Chương 2. Phan Bội Châu ( 6 tiết )
Phần III. Văn học mới ở đô thị
Chương 1. Khái quát – nhận diện – giá trị văn học sử ( 4 tiết )
Chương 2. Tiểu thuyết dài bằng chữ quốc ngữ trong ba mươi năm đầu thế kỷ.
Hoàng Ngọc Phách và Hồ Biểu Chánh ( 6 tiết )
Chương 3. Tản Đà - tác gia của hai thời đại ( 6 tiết )
Ghi chú : phần thực hành hoặc thảo luận sẽ được xen kẽ trong các chương
của chương trình học tập
Phần I. Khái quát về lịch sử và văn học Việt Nam
từ đầu thế kỷ XX đến 1932
I. Khái quát về lịch sử, xã hội và văn hoá Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến
1932
1. Những khuynh hướng vận động chính của lịch sử Việt Nam trong ba thập
niên đầu thế kỷ XX
- Trong lịch sử văn hoá Việt Nam có hai mốc quan trọng đánh dấu sự thay đổi
của văn hoá dân tộc : mốc 179 trước Công Nguyên khởi đầu thời Bắc thuộc và mốc
1858 bắt đầu thời kỳ Pháp thuộc. Đây là những mốc lịch sử gắn liền với những sự
thay đổi lớn của văn hoá Việt Nam. Tuy vậy, cần ghi nhớ một qui luật là sự vận động
của văn hoá không phải bao giờ cũng trùng khít một cách cơ học với những vận động
của lịch sử, chính trị
- Những thay đổi lớn trong lịch sử và văn hoá Việt Nam chỉ thực sự diễn ra vào
đầu thế kỷ XX. Những thay đổi đó được thể hiện qua việc trong xã hội, nơi những trí
thức xuất sắc, là lương tâm và lương tri của thời đại, bắt đầu định hình một cách rõ nét
ý thức về hai vấn đề lớn của thời đại : tồn vong dân tộc và hiện đại hoá ( duy tân - đổi
mới ) và điều quan trọng hơn nữa, là nhận thức về tính quy định lẫn nhau của hai vấn
đề trên.
- Hai vấn đề lớn của lịch sử dân tộc đã quyết định hai thực tế diễn ra song song
trong lịch sử dân tộc : hiện đại hoá và đấu tranh giải phóng dân tộc.
- Thực tế đặc thù đó của lịch sử đã tác động tới văn học làm hình thành nên
những khu vực phát triển văn học khác nhau ( công khai, dưới sự lãnh đạo của thực
dân và bí mật, trong các phong trào yêu nước ) và quan trọng hơn là sự phát triển
không đồng đều của văn học trong những khu vực đó.
2. Những biến đổi của hình thái kinh tế xã hội và tính quy định đối với thực
tế văn học
- Đầu thế kỷ XX, cùng với việc chế độ thuộc địa của thực dân Pháp từng bước
đi vào ổn định, ở Việt Nam đã diễn ra một quá trình vận động về hình thái kinh tế từ
một nền kinh tế nông nghiệp, tự nhiên, tự cấp tự túc sang một “phiên bản bằng máy
xấu và giấy xấu” của kinh tế thị trường tự do.
- Cùng với sự thay đổi về hình thái kinh tế xã hội là sự phân hoá về mặt giai
cấp với những tầng lớp người chưa từng có trong lịch sử. Đáng chú ý là sự xuất hiện
của những người trung lưu hành nghề tự do ở các đô thị.
- Những thay đổi đó kéo theo những biến động to lớn của xã hội với sự xáo
trộn của nông thôn và sự hình thành những đô thị hiện đại.
- Những biến đổi nói trên tác động một cách sâu sắc đến sự vận động của văn
học : một thực tế mới dành cho sự sáng tạo của nhà văn, một môi trường sống mới của
người nghệ sĩ, phương thức sống mới hình thành nên những trạng huống tâm lý mới
mẻ và những nhu cầu thưởng thức nghệ thuật hiện đại.
3. Những thay đổi về ý thức hệ
- Cần lưu ý là sự tan vỡ, “mất giá”, “giải thiêng” của những hệ tư tưởng, tôn
giáo, triết học từng thống ngự trong đời sống xã hội Việt Nam suốt thời Trung đại và
sự du nhập những hệ tư tưởng có xuất xứ từ phương Tây.
4. Một số thành tố văn hoá tác động trực tiếp đến sự vận động của văn học
- Cần chú ý đến một số hiện tượng, quá trình, thành tố văn hoá có sự chi phối
lớn đến sự phát triển của văn học : giao lưu văn hoá với phương Tây, chữ Quốc ngữ,
báo chí và nhà xuất bản hiện đại... ( Sẽ được trình bày chi tiết trong phần về văn học
mới ở đô thị )
II. Những đặc điểm chính của văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến
1932
1. Bước chuyển từ một nền văn học Đông á sang một nền văn học theo mô
hình châu Âu. Nói cách khác, quá trình hoà nhập của văn học dân tộc từ một nền
văn học mang tính khu vực vào môi trường văn học thế giới
- Nền văn học Trung đại Việt Nam là một nền văn học mang tính khu vực sâu
sắc. Đó là kết quả của một quá trình phát tán những ảnh hưởng của nền văn hoá - văn
học ở trung tâm ( Trung Quốc ) ra những khu vực ngoại biên và kết hợp những yếu tố
đó với cơ tầng văn hoá bản địa ( Việt Nam, rộng hơn, Đông Nam á ). Điều đó được
thể hiện trên một số phương diện tiêu biểu : ngôn ngữ văn học; sự thống ngự của
những hệ tư tưởng, triết học có nguồn gốc Trung Quốc đến đời sống văn học; thể loại;
đề tài; hình tượng nhân vật trung tâm.
- Bước sang thế kỷ XX, bắt đầu diễn ra quá trình nền văn học Việt Nam hoà
nhập vào môi trường văn học thế giới, văn học truyền thống bị phân rã và diễn ra quá
trình tái cấu trúc nền văn học theo mô hình văn học Châu Âu.
- Trong phần này, sinh viên cần nhớ lại những đặc điểm mang tính loại hình
của văn học Trung đại đã được học trong những học phần trước.
2. Bước chuyển từ một nền văn học mang tính tinh hoa sang một nền văn
học mang tính đại chúng.
- Tồn tại song song trong lòng văn học Trung đại hai nền văn học thuộc hai thế
giới khác nhau : văn học dân gian và văn học bác học. Mặc dù ngay từ những giai
đoạn sớm của văn học Trung đại, đã có sự thẩm thấu và tác động lẫn nhau giữa văn
học dân gian và văn học bác học ( theo cả hai chiều ) nhưng, sự phân biệt giữa hai nền
văn học này là mang tính tuyệt đối.
- Sự phân hoá văn học dân gian – văn học bác học là sự phân hóa tồn tại trong
mọi thời đại của lịch sử, có điều, bước sang thời cận hiện đại, có sự mở rộng phạm vi
tồn tại của văn học bác học, nói cách khác, đó là một nền văn học viết dành cho mọi
tầng lớp công chúng – một nền văn học có tính đại chúng.
- Một hiện tượng diễn ra song song với quá trình đó là văn học bắt đầu phá vỡ
quy mô tồn tại vùng và trở thành một hiện tượng có tính toàn quốc.
3. Hai khuynh hướng vận động song song diễn ra trong lòng văn học dân tộc
: Sự đổi mới thất bại của văn học truyền thống và sự lớn mạnh từng bước của văn
học hiện đại.
Trong ba thập niên đầu thế kỷ XX, diễn ra song song hai sự vận động trong
lòng văn học dân tộc :
- Văn học truyền thống nỗ lực cách tân nhưng thất bại và đi dần đến chung cục
vào khoảng 1925 ( thời điểm Phan Bội Châu bị bắt ). Những nỗ lực đó thể hiện qua
sáng tác của những nhà Nho chí sĩ và những cố gắng hoà nhập vào môi trường văn
học đô thị của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu.
- Văn học mới từng bước được hình thành, ban đầu là ở Nam Kỳ, và dần dần
chiếm lĩnh đời sống văn học. Sự lớn mạnh của văn học mới được đánh dấu bằng sự
xuất hiện của những thể loại văn học hiện đại : Kịch – 1922, tiểu thuyết – 1925,
truyện ngắn – 1919 – 1920.
Phần II. Văn chương yêu nước do nhà Nho chí sĩ sáng tác
trong ba thập niên đầu thế kỷ XX.
Khái quát – nhận diện - giá trị văn học sử
1.1. Nhận diện văn chương yêu ngước do nhà cho chí sĩ sáng tác
Có thể nhận diện bản chất những sáng tác thuộc bộ phận văn học này thông qua
biểu đồ như sau
Một số phương diện cần lưu ý qua biểu đồ nói trên :
- Những yếu tố quyết định đối với sự thay đổi của văn hoá và văn học Việt
Nam trong những năm đầu thế kỷ XX là sự thay đổi của tình hình chính trị ở Việt
Nam, quá trình mở cửa với thế giới đem đến cho trí thức những hình mẫu mới của sự
nghiệp cứu nước ( Trung Quốc và Nhật Bản ) và đặc biệt sự bế tắc của những phương
thức ứng xử truyền thống ( mà Nguyễn Thượng Hiền và Phan Bội Châu là những hình
mẫu điển hình ). Chính những sự thay đổi đó đã góp tác động đến những trí thức Nho
học trẻ, khiến họ nhận thức một cách rõ rệt việc phải tìm một con đường cứu nước
khác ( Duy Tân )
- Chủ thể của bộ phận văn học đang được tìm hiểu là những Nhà Nho – những
chí sĩ yêu nước. Nguồn gốc xuất thân, đặc biệt trên bình diện học vấn có tác động rất
lớn đến sự nghiệp sáng tác của họ.
- Qua sơ đồ trên, có thể thấy rõ đối với những nhà Nho yêu nước này, văn
chương không phải là một mục đích tự thân mà chỉ là một công cụ phục vụ cho sự
nghiệp chính trị. Chính vì vậy, biên độ đổi mới văn chương bị quy định bởi sự nghiệp
hoạt động chính trị của các tác giả.
1.2. Diện mạo văn học qua các giai đoạn phát triển
- Là một nỗ lực cách tân của văn học truyền thống để thích ứng với hoàn cảnh
lịch sử mới, đáp ứng những yêu cầu mới của văn hoá và cách mạng giải phóng dân tộc
trong thế kỷ XX. Đó là những nỗ lực thất bại nhưng đặt tiền đề cho sự phát triển của
văn học Việt Nam trong những giai đoạn kế tiếp.
- Không có bất cứ tác giả nào thuộc dòng văn học này coi sáng tạo văn học là
mục đích tự thân của cả cuộc đời. Những đổi mới của dòng văn học này sở dĩ có
được là do những yêu cầu mới của phong trào yêu nước ở Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Từ đó dẫn đến tình trạng : chừng nào văn học còn gắn với những hoạt động chính trị,
yêu nước, chững đó, những nỗ lực cách tân văn học còn diễn ra một cách mãnh liệt
những chừng nào văn chương bị cách ly khỏi phong trào yêu nước đo thì chừng đó
sáng tác của các nhà nho chí sĩ lại vận động trở vè với những khuôn mẫu sáng tạo
truyền thống.
- Ba giai đoạn phát triển chính :
Từ đầu thế kỷ đến 1905
Từ 1905 đến 1908
Từ 1908 đến 1925
1.2.1. Giai đoạn khởi đầu từ đầu thế kỷ đến 1905
- Cần phải nhấn mạnh là những mầm mống của văn chương nhà nho kiểu mới
đã được nhen nhóm trong nền văn hoá Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX, trong những
điều trần của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, những trí thức nho học nhưng
bước đầu đã bắt đầu tiếp xúc với văn hoá phương Tây.
- Trước năm 1905, xuất hiện trong đời sống văn học những sự kiện báo hiệu
trực tiếp cho một trào lưu văn học mới : Phú Lương Ngọc danh sơn, thơ Chí thành
thông thánh, Lưu cầu huyết lệ tâm thư, Bài Lưu biệt khi xuất dương, hành vi đốt thi
văn tập của Nguyễn Thượng Hiền.
- Những tác phẩm nói trên đã báo hiệu những chủ đề sau này sẽ trở thành nội
dung chính của văn chương yêu nước và các phong trào duy tân : đoạn tuyệt với văn
hoá truyền thống, kêu gọi tự phủ định, tự phê phán, những khẩu hiệu duy tân.
1.2.2. Giai đoạn văn chương yêu nước do nhà Nho chí sĩ sáng tác phát triển đến
đỉnh điểm 1905 – 1908
- Đây là thời kỳ các phong trào yêu nước Duy tân do nhà Nho chí sĩ lãnh đạo
phát triển một cách sôi nổi. ở trong nước, các phong trào này được thể hiện dưới hình
thức trường học kiểu mới ( điển hình là trường Đông Kinh nghĩa thục ), ở nước
ngoài là phong trào Đông Du của Phan Bội Châu.
1.2.2.1. Diện mạo thể loại :
- Đây là giai đoạn mà tính chất Trung đại vẫn còn biểu hiện rất rõ trong văn
chương, đặc biệt là từ cái nhìn thể loại và ngôn ngữ . Văn học được sáng tác cả bằng
chữ Hán và chữ Quốc ngữ, bằng những thể loại đã trở thành điển phạm trong văn
chương truyền thống.
- Những thể loại chính được sử dụng bao gồm : văn chính luận, thơ chữ Hán,
diễn ca lục bát, ngâm khúc, hát nói, vè, liệt truyện. Để thích ứng với một thời đại mới
và chuyên chở những nội dung tư tưởng và thẩm mỹ mới, tất cả những thể loại này
đều có sự biến dạng.
1.2.2.2. Nội dung tư tưởng :
- Một cái nhìn mang tính phê phán nghiêm khắc đối với thực trạng đất nước.
Cảm quan hiện thực và tinh phần phê phán không phải là yếu tố mới trong văn
chương, đặc biệt là văn chương nhà Nho. Chỉ có điều đến giai đoạn này cơ sở lý luận
của sự phê phán đã thay đổi : tinh thần thực dụng và tinh thần tự do – dân chủ.
- Sự phủ định quyết liệt đối với văn chương – học vấn truyền thống và đại diện
của nó – người hủ nho.
- Con đường cứu nước kiểu mới – yêu nước gắn liền với duy tân. Con đường
cứu nước đó được xây dựng trên một tinh thần yêu nước, một cách hình dung mới về
đất nước và nhân dân – người quốc dân.
1.2.2.3. Những hình tượng nhân vật trung tâm :
- Hình tượng người anh hùng cứu quốc kiểu mới – người quốc dân
- Hình tượng người hủ nho
1.2.3. Văn chương yêu nước do nhà Nho chí sĩ sáng tác trong giai đoạn 1908 –
1925 ( thời điểm Phan Chu Trinh qua đời và Phan Bội Châu bị bắt )
- Đây là thời điểm các phong trào yêu nước do nhà Nho chí sĩ lãnh đạo đi vào
thoái trào ở trong nước. Nhiều yếu nhân của phong trào bị tù đầy, hành quyết. Một số
nhà yêu nước hoạt động ở nước ngoài tiếp tục tìm kiếm những con đường cứu nước (
điển hình là Phan Bội Châu ) nhưng đều thất bại.
- Văn chương yêu nước do nhà Nho sáng tác trong giai đoạn này phân hoá
thành hai bộ phận : văn chương của các nhà chí sĩ trong tù và văn chương ở hải ngoại
( sẽ được trình bày kỹ trong chương Phan Bội Châu )
- Nội dung chủ yếu của văn chương yêu nước trong giai đoạn này là những tâm
sự của nhà cách mạng trong tù ngục và những ký ức về những người đồng chí anh
hùng.
- Hình tượng nhân vật trung tâm là người anh hùng yêu nước, đặc biệt, người
anh hùng mạt lộ.
1.3. ý nghĩa văn học sử
Văn chương yêu nước do nhà Nho chí sĩ sáng tác thể hiện một bước chuyển
tiếp của văn học dân tộc trong giai đoạn giao thời. Tính chất chuyển tiếp đó thể hiện
trên tất cả mọi phương diện : quan niệm về văn học, hệ thống thể loại, chủ đề, đề tài,
hình tượng nhân vật trung tâm..
- Về quan niệm văn học, đây là thời đại mà những tín điều văn chương được
xác lập qua trong suốt thời Trung đại bị tấn công một cách quyết liệt nhất. Tuy nhiên,
điểm dừng của tất cả các tác giả này là không xác lập được một cách hình dung mới
về văn học. Chính vì vậy, tuyệt đại bộ phận các tác giả đều quay trở về với những tín
điều văn chương truyền thống.
- Đây là thời đại diễn ra cuộc tổng duyệt những thể loại văn học truyền thống.
Con đường sáng tạo của các nhà chí sĩ là lựa chọn, sử dụng lại và cải tiến những thể
loại văn chương truyền thống. Họ bất lực trong việc tiếp cận với những thể loại đặc
trưng của văn chương hình tượng hiện đại ( tự sự nghệ thuật, kịch bản sân khấu... )
- Bộ phận văn chương yêu nước do các nhà Nho chí sĩ sáng tác đầu thế kỷ đã
góp phần vào sự ra đời của một số hình tượng nhân vật sẽ trở thành “nhân vật của thời
đại” trong những giai đoạn văn học kế tiếp : người dân nô lệ, người anh hùng cứu
quốc, người quốc dân. Dẫu vậy do sự hạn chế trong quan niệm văn học, tư duy văn
học và trong khả năng làm chủ những thể loại văn học hiện đại nên những hình tượng
nghệ thuật đó chưa thực sự trở thành những hình tượng nghệ thuật hiện đại, đặc biệt là
về phương thức thể hiện.
Phan Bội Châu
( 1867 – 1940 )
I. Đôi nét về cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của Phan Bội Châu
Cuộc đời Phan Bội Châu phản ánh rõ nét con đường đi của những nhà trí thức
Nho học trước ngưỡng cửa của thời hiện đại : lịch sử đặt lên vai họ gánh nặng của sự
nghiệp “bảo quốc tồn chủng”, buộc họ phải trở thành những ngưòi đảm đương công
cuộc đổi mới dân tộc; trước yêu cầu lịch sử đó, họ đã nỗ lực tự phủ định mình, tự đổi
mới nhưng những giới hạn của thời đại cũng như của chính bản thân họ đã khiến công
cuộc đổi mới ấy thất bại và cuối cùng là quay trở về với cái cũ. Có thể chia cuộc đời
và sự nghiệp thơ văn của Phan Bội Châu thành 3 giai đoạn chính : từ thiếu thời đến
năm 38 tuổi ( 1867 đến 1905 ); những năm tháng hoạt động chính trị ở nước ngoài (
1905 đến 1925 ) và những năm cuối đời sống cuộc đời của người tù bị giam lỏng ở
Huế ( 1925 đến 1940 ).
1. Từ thiếu thời cho đến năm 38 tuổi :
Quãng đời này của Phan Bội Châu chủ yếu diễn ra ở quê nhà. Có một số yếu tố
đáng chú ý như sau :
- Sớm bộc lộ thiên hướng là người thủ lĩnh, người chủ trì đại sự ( lập thí sinh
quân, viết hịch Bình Tây thu Bắc từ năm 18 tuổi )
- Đây là giai đoạn Phan Bội Châu theo đuổi những phương thức hành xử truyền
thống : ẩn nhẫn chờ thời, đọc binh thư, tìm minh chủ mưu đại sự, gây dựng uy tín
bằng khoa cử.
- Đây cũng là giai đoạn Phan Bội Châu bộc lộ tài năng xuất sắc trong những thể
loại văn chương truyền thống.
- Bộ phận sáng tác đáng chú ý của ông trong giai đoạn này là phú.
2. Những năm tháng hoạt động ở nước ngoài ( 1905 – 1925 )
- Đây là giai đoạn Phan Bội Châu thực hành những lý tưởng của mình. Ông
liên tục là chủ xướng của nhiều tổ chức cách mạng với những chủ trương khác nhau :
Duy Tân hội ( 1904 – 1910 ), Việt Nam quang phục hội ( 1915 đến khoảng 1920 )
sau năm 20, thậm chí, ông bắt đầu bắt liên lạc với những người cộng sản và dự định tổ
chức lại phong trào yêu nước Việt Nam ( dự định chưa kịp thành hiện thực thì ông bị
bắt ). Trong giai đoạn này, con người Nho giáo lý tưởng trong ông từng bước tan vỡ,
ông làm quen với đời sống chính trị hiện đại.
- Giai đoạn hoạt động ở nước ngoài là giai đoạn cách tân mạnh mẽ nhất của văn
chương Phan Bội Châu. Hoàn cảnh bắt ông phải trải sức qua nhiều thể văn chương
khác nhau để phục vụ nhiều mục đích khác nhau ( viết các cương lĩnh, tuyên ngôn
chính trị, viết sử, viết văn tuyên truyền, cổ động, thậm chí viết văn để mưu sinh ), tư
tưởng chính trị của ông có nhiều đổi mới, chính vì vậy đây là giai đoạn cách tân mạnh
mẽ nhất của văn chương Phan Bội Châu.
3. Những năm cuối đời :
- Đây là giai đoạn mặc dù Phan Bội Châu vẫn là một uy tín chính trị được
nhiều người ngưỡng vọng nhưng, không thể phủ nhận, ông bị cách ly khỏi thời cuộc.
Từ khi bị cách ly khỏi các phong trào chính trị, ông quay trở lại với con người cũ của
mình, với những thể văn chương từng làm nên uy tín của ông trong học giới ( phú,
thơ chữ Hán ) hoặc những thể văn mà khi còn là con người chính trị, ông chưa có điều
kiện theo đuổi ( khảo cứu học thuật). Bao trùm lên cuộc đời và thơ văn của ông trong
giai đoạn này là một tâm trạng chán nản, cô độc, thất vọng và niềm nuối tiếc quá khứ.
II. Những thăng trầm trong cuộc đời sáng tác của Phan Bội Châu:
1. Từ thiếu thời đến năm 38 tuổi. Người hào kiệt tự nhiệm và cái hùng
tráng kịch liệt trong văn chương Phan Bội Châu.
- Giai đoạn đầu trong cuộc đời của Phan Bội Châu là quãng thời gian ông vận
động trong quỹ đạo của những kiểu nhân cách truyền thống. Từ những sự kiện trong
tiểu sử, có thể khẳng định PBC là sự kéo dài của người anh hùng thời loạn, người hào
kiệt tự nhiệm, một kiểu nhân cách đi ra ngoài những chuẩn mực đạo đức của Nho
giáo, xuất hiện ở Việt Nam trong giai đoạn khủng hoảng của chế độ phong kiến ( thế
kỷ XVI – XVII ).
- Trước năm 1905, thể văn chương thể hiện rõ nhất tài năng và cá tính sáng tạo
của Phan Bội Châu là phú. Phú là một thể văn có tính trung gian giữa thơ và văn xuôi,
nòng cốt của phú thường là một cuộc đối thoại, qua đó, nhân vật mô tả, trình bày, ca
ngợi một sự vật, một hiện tượng, một thái độ sống ...Sắc thái chủ đạo của phú là mô tả
và ca ngợi ( phú giả phô dã ). Phóng đại là đặc trưng của phú. Phú là một trong những
thể loại đặc trưng của nền văn học ký ngụ.
Trước năm 1905, phú Phan Bội Châu có hai chủ đề chính : viết về những nhân
vật lịch sử phi thường ( Phạm Lãi, Trương Lương, Tư Mã Quang,... với những bài
xuất sắc nhất của nghệ thuật phú như Nang trung truỳ, Hồ thượng khoá lư, Cộng biển
chu du ngũ hồ...) và ca tụng đạo đức Nho giáo. Những nhân vật này sẽ là sự báo
trước của kiểu nhân vật anh hùng cứu quốc trong những giai đoạn tiếp theo.
- Sắc thái thẩm mỹ nổi bật trong sáng tác của Phan Bội Châu trước năm 1905 là
mầu sắc anh hùng ca, cái quyết liệt thậm chí đến mức bạo liệt, cái kỳ vĩ của những
hình tượng nghệ thuật.
2. Văn thơ Phan Bội Châu trong giai đoạn hoạt động cách mạng ở nước
ngoài :
2.1. Nội dung chính của thơ văn Phan Bội Châu trong giai đoạn này là tinh thần
đoàn kết, là tiếng nói hiệu triệu toàn dân tộc chống Pháp.
- Mang một trong những dấu hiệu đặc trưng của phong cách nghệ thuật là
hướng đến cái kịch liệt, cái tận độ của cảm xúc. PBC đã ứng dụng điều này để miêu tả
những khổ nhục của người dân mất nước dưới chế độ thực dân
- Song song với sự tố cáo đầy đau đớn là lời kêu gọi đầy thống thiết hướng đến
quốc dân đồng bào nhằm khơi dậy, thức tỉnh trách nghiệm đối với dân tộc của tất cả
mọi hạng người trong xã hội.
- Điều đáng lưu ý là Phan Bội Châu dành một vị trí đặc biệt quan trọng cho
người trí thức – nhà Nho.
2.2. Những cách tân nghệ thuật của Phan Bội Châu – người viết tự sự nghệ
thuật.
Trong giai đoạn này Phan Bội Châu đã thử sức qua một loạt các thể loại : thơ
ca, văn chính luận, sân khấu, các thể tự sự nghệ thuật. Mỗi thể loại ông đều có những
cách tân riêng, tuy nhiên, bài giảng chú ý tập trung vào những cách tân trong tự sự
nghệ thuật của Phan Bội Châu với hai bộ phận chính là các liệt truyện và tiểu thuyết
Trùng quang tâm sử.
- Liệt truyện là một thể loại được sử dụng trong văn chép sử dùng để ghi chép
tiểu sử những nhân vật lịch sử. ở thể loại này, thông thường người ta nói những nét
chính trong cuộc đời nhân vật, loại bỏ những chi tiết và mọi sự miêu tả. ở đó, tác giả
tuyệt đối giữ một thái độ khách quan, chỉ đan xen trong cấu trúc những nhận xét có
tính công thức.
- PBC đã gia công liệt truyện bằng cách : 1. Gia tăng những trữ tình ngoại đề,
những xúc cảm cá nhân, những đoạn luận thuyết. 2. Gia công những kỹ thuật trần
thuật đặc thù của tự sự nghệ thuật để tăng tính gợi cảm. Sự xuất hiện những yếu tố
nghệ thuật nói trên chứng tỏ đối với Phan Bội Châu, liệt truyện đã vận động từ một
thể văn thuần túy mang tính khảo cứu, học thuật (với yêu cầu về tính khách quan của
người viết) thành một thể loại có tính nghệ thuật in dấu ấn cái chủ quan của người
nghệ sĩ (tất nhiên, với Phan Bội Châu, ngay trong những liệt truyện chuẩn mực nhất,
yếu tỗ chủ quan vẫn được biểu hiện khá rõ nét).
- Tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử của Phan Bội Châu lại đánh dấu một con
đường sáng tạo khác : ông mượn chuyện lịch sử để chuyển tải những tư tưởng về cách
mạng, về kháng chiến giải phóng dân tộc, về những hình mẫu lý tưởng trong sự
nghiệp cứu nước. Có thể coi đây là một thái độ phi truyền thống đối với lịch sử.
- Nhân vật trung tâm trong những tác phẩm đó là những người anh hùng cứu
quốc – một sự tiếp nối của cái hùng tráng kịch liệt trước cách mạng. Yếu tố đáng lưu
ý trong hình tượng người anh hùng của PBC là yếu tố người anh hùng nhân dân,
những người anh hùng bình dị bắt đầu xuất hiện. Đó là yếu tố báo hiệu văn chương
yêu nước hiện đại.
3. Văn thơ Phan Bội Châu trong thời gian bị giam lỏng ở Huế.
Trong giai đoạn ở Huế, một mặt Phan Bội Châu tiếp tục (đương nhiên) dưới
một hình thức khéo léo (vịnh cảnh, vịnh vật, ký ngụ, phúng dụ) những chủ đề đã trở
thành truyền thống trong văn thơ và cuộc đời hoạt động cách mạng của ông (nỗi khổ
nhục của người dân mất nước, kêu gọi đoàn kết, có trách nghiệm với đất nước...). Tuy
nhiên, mặt khác, trong ông, xuất hiện một cảm giác chưa từng có trước đây, cảm giác
cô độc, thất bại của người hào kiệt tự nhiệm.
- Cảm giác cô độc thất bại được biểu hiện dưới mấy phương diện :
+ Cảm giác cô độc trước sự hờ hững của quốc dân.
+ Nỗi buồn chứng kiến bạn bè lần lượt qua đời. Trong thơ văn liên quan đề tài
này, ngoài những lời ngợi ca những người đồng chí anh hùng, còn tràn ngập một cảm
giác chua xót, chua xót vì bất lực, vì nhìn thấy tiền đồ dân tộc đen tối, có cả một cuộc
tự vấn về ý nghĩa cuối cùng của cuộc đời mình
+ Trốn tránh cuộc đời trong thú thơ rượu, điều chưa từng có trong văn thơ Phan
Bội Châu trước đây
- Những xúc cảm trên chính là sự báo hiệu sự “lại giống” của người hào kiệt tự
nhiệm một thời, sự lại giống biểu thị rõ nét trong câu đối tuyệt mệnh của ông.
“Trời sao vậy? Chúa sao vậy? Chết âu cũng là không, chạnh tiếc trong lòng vùi
Khổng Mạnh
Nước như thế ! Dân như thế! Đời còn gì đáng tiếc ? Thôi ra ngoài cuộc học Hy
Hoàng”
Trước khi mất, Phan Bội Châu để lại thư tuyệt mệnh : “Bội Châu từ xưa đến
nay, đối với đồng bào đã không chút gì là công, mà lại tội ác quá nặng. Bây giờ tôi
chết, thiệt là một tên dân trốn nợ và vỗ nợ, đồng bào có thứ lwongj cho tôi thì xác tôi
tuy chết mà tinh thần tôi vẫn cảm ơn đồng bào luôn luôn. “Người khi đến gần chết, lời
nói hẳn lành”. Nay tôi đã đến lúc “gần chết” đó, xin có mấy lời gan phổi tỏ lời hy
vọng cuối cùng với đồng bào : Đồng bào Việt Nam ta có trên hai mươi triệu, bấy
nhiêu đầu óc, bấy nhiêu tai mắt, bấy nhiêu chân tay, nếu không biết thân yêu nhau,
đồng lòng hợp sức làm cái bổn phận quốc dân đối với tổ quốc... Không thế, trên mặt
địa cầu sau nầy sẽ không có hình bóng dân tộc Việt Nam nữa, thì Bội Châu này dầu
có trốn nợ, vỗ nợ cũng may mà được chết trước anh em, tôi lấy làm một điều hạnh
phúc”
Phần II. Văn học mới ở đô thị
Sự phát triển của văn học mới ở đô thị
I. Những tiền đề của văn học mới ở đô thị
1. Những tiền đề nội tại của văn học
- Từ trong lòng văn học Trung đại, trong các thế kỷ XVII, XVIII và XIX đã
manh nha sự hình thành của một mô hình văn học mới : văn học mang tính nghệ
thuật và những thể loại đặc trưng dân tộc lên ngôi, những tài năng lớn của văn học
trong giai đoạn này đã có ý thức dành tài năng và tâm huyết cho văn học mang tính
nghệ thuật.
- Tuy vậy, những thay đổi đó vẫn mang tính nửa vời, chưa trở thành một cuộc
cách mạng thay đổi toàn bộ diện mạo nền văn học. Tính nửa vời thể hiện trên một số
phương diện :
+ văn học mang tính nghệ thuật vẫn giữ một địa vị thấp kém so với văn học
quan phương
+ Xuất hiện những mầm mống của những thể loại mới nhưng chưa có những
thể loại đủ sức tạo thành nòng cốt cho một mô hình văn học mới
+ Tình trạng truyện thơ và truyện đan xen thơ.
2. Những yếu tố tác động mang tính thời đại :
2.1. Chữ quốc ngữ từ một sản phẩm của cộng đồng thiên chúa giáo, bị tẩy chay
suốt nhiều thế kỷ đầu thế kỷ XX đã trở thành phương án duy nhất phiên âm tiếng Việt
và được đông đảo người Việt chấp nhận
2.2. Báo chí, từ chỗ là một sản phẩm phục vụ nền hành chính Việt Nam đã
thâm nhập và trở thành một thành tố của văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ XX. Trong 30
năm đầu thế kỷ XX, báo chí đã giữ vai trò là chiếc nôi, là bà đỡ của văn học hiện đại.
2.3. Giao lưu văn hóa với phương Tây
2.4. Đời sống ở đô thị
II. Những đặc điểm của văn học mới ở đô thị
1. Văn học mới bằng chữ quốc ngữ khởi động từ sớm tại miền Nam nhưng đạt
được những giá trị đỉnh cao và đạt tới độ thành thục trong văn chương miền Bắc. Cần
phân định rõ hai quá trình của văn học mới : chuyển từ sáng tác bằng chữ Hán và chữ
Nôm sang sáng tác bằng chữ quốc ngữ và sáng tạo những giá trị mới trên nền thứ
ngôn ngữ đó. Văn chương miền Nam chủ yếu dừng lại ở bước thứ nhất, là một phòng
chờ của văn học hiện đại.
2. Nền văn học phát triển trên cơ sở hai tiền đề chi phối lẫn nhau : truyền thống
văn học dân tộc và văn học phương Tây.
3. Văn học hiện đại vận động theo con đường từ dịch thuật (giới thiệu văn học
nước ngoài) qua mô phỏng đến sáng tạo thuần Việt.
4. Quá trình hiện đại hóa văn học diễn ra sớm ở những bộ phận không bị sức ép
của truyền thống.
5. Đây là một giai đoạn có tính phòng chờ của văn học hiện đại. Có hai tiền đề
quan trọng thể hiện tính chất tiền đề của giai đoạn văn học này đối với những giai
đoạn kế tiếp :
- Đây là giai đoạn hình thành nên những thể loại làm nòng cốt cho văn học
những giai đoạn tiếp theo
- Đây là giai đoạn bắt đầu biểu lộ những khuynh hướng sáng tác sẽ phân hóa
sâu sắc trong những giai đoạn kế tiếp : mô tả hiện thực xã hội và khám phá thế giới
tâm lý của con người.
III. Tiểu thuyết Tố Tâm :
1. Tiểu sử Hoàng Ngọc Phách:
- Bút danh Song An, sinh ngày 20-8-1896, quê ở Đức Phong, xã Đông Thái,
huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
- Tốt nghiệp trường Cao đẳng sư phạm Đông Dương (Hà Nội), dạy học nhiều
nơi, viết văn. Ông nổi tiếng ngay khi cho xuất bản tác phẩm đầu tiên là tiểu thuyết Tố
Tâm. Trước cách mạng tháng Tám, ông làm Hội trưởng Hội truyền bá quốc ngữ Bắc
Ninh và tham gia phong trào Việt Minh ở đây. Sau cách mạng, ông từng giữ chức vụ
Giám đốc Học khu Bắc Ninh, Giám đốc giáo dục khu XII, Giám đốc trường Cao
đẳng Sư phạm trung ương và sau đó công tác tại ban thu thư Bộ Giáo dục, viết nhiều
sách nghiên cứu văn học
- Mất năm 1973 tại Hà Nội.
- Tác phẩm chính : Tố Tâm (tiểu thuyết – 1925) Thời thế với văn chương (tiểu
luận, phê bình, văn thơ - 1941), Thơ văn Nguyễn Khuyến (1957)...
2. Cấu trúc tiểu thuyết Tố Tâm :
3. Sự thể hiện của tính giao thời trong tiểu thuyết Tố Tâm
3.1. Sự thể hiện của quán tính truyền thống trong tiểu thuyết
- Câu văn biền ngẫu và vốn từ Hán Việt
- Hình tượng nhân vật mang dáng dấp của nhân vật tài tử – giai nhân của văn
học Trung đại.
3.2. ý nghĩa cách tân của tiểu thuyết Tố Tâm
- Tố Tâm khai sinh ra một thể loại đặc trưng của văn học hiện đại : tiểu thuyết
hiện đại kể từ ngôi thứ nhất.
- Tố Tâm khai sinh ra một kiểu nhân vật đặc trưng của văn học hiện đại : con
người cá nhân bé nhỏ trong thế giới hiện đại
- Tố Tâm phản ánh một quan niệm mới về con người và một định hướng nghệ
thuật mới : phát hiện ra thế giới tinh thần bí ẩn của con người và dùng văn chương
khám phá thế giới bí ẩn đó.
- Tố Tâm phản ánh một cách thức tiếp cận hiện thực mới : tái hiện chân thực
cái thực tại thường nhật của đời sống đương thời.
IV. Hồ Biểu Chánh và sự phát triển của tiểu thuyết Nam Kỳ
1. Tiểu sử và sự nghiệp sáng tác thơ văn
- Hồ Biểu Chánh, tên thật là Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh, hiệu thứ Tiên, sinh
năm 1884 tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công, nay thuộc Tiền Giang. Khi viết văn, lấy
tên tự ghép với họ là Hồ Biểu Chánh. Xuất thân làm kí lục, thông ngôn, thăng dần đến
Đốc phủ sứ, từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi, vốn có tiếng thanh
liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Về sau, có giai đoạn làm Đổng lý văn phòng
cho Thủ tưởng Nguyễn Văn Thinh của chính phủ Nam Kì tự trị (chính phủ phản động
thân Pháp) nhưng sau đó bỏ chính trị viết văn đến cuối đời (1958).
- Hồ Biểu Chánh bắt đầu viết văn vào năm 1907 với một tập sách dịch văn học
Trung Quốc (Kim cổ kỳ quan, Tình sử...) và một truyện thơ : U tình lục. Sau đó, được
tiếp xúc với truyện của Nguyễn Trọng Quản, Trần Chánh Chiếu (Hoàng Tố Oanh
hàm oan), Trương Duy Toản (Phan Yên ngoại sử), bắt đầu nuôi dự định tìm con
đường sáng tác khác. Từ năm 1909 đến 1922, tạm ngừng sáng tác, bắt đầu viết tiểu
thuyết lại vào năm 1922 với các tiểu thuyết mô phỏng phương Tây (Chúa tàu Kim
quy, Cay đắng mùi đời, ..) và sau đó là các tiểu thuyết thuần Việt. Từ đó đến những
năm cuối đời sáng tác đủ mọi thể loại cả tiểu thuyết (trên 70 tác phẩm), thơ ca và khảo
cứu nhưng được mến mộ với thể tiểu thuyết.
2. Những vấn đề văn học sử đặt ra từ tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh
2.1. Hồ Biểu Chánh, nhà văn của vùng đất Nam Bộ trong giai đoạn đầu
hiện đại hóa
- Hồ Biểu Chánh là đại diện cho một khuynh hướng vốn được khởi phát từ văn
học Nam Kỳ và sau đó trở thành một dòng chủ lưu của văn học Việt Nam hiện đại :
lấy phạm vi phản ánh từ chính đời sống hiện tại.
- Không gian tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, dẫu thuộc loại tiểu thuyết mô phỏng
hay sáng tạo cá nhân đều diễn ra trên chính vùng đất Nam Bộ đương thời, ông không
có những tưởng tượng bay bổng đi ra ngoài thế giới hiện tại như Tản Đà.
- Nhân vật trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh là mọi tầng lớp người của xã hội
Nam Bộ trong giai đoạn đầu hiện đại hóa : từ tá điền (Cha con nghĩa nặng, Ngọn cỏ
gió đùa...) điền chủ (Ngọn cỏ gió đùa, Khóc thầm), hương chức hội tề (Cha con nghĩa
nặng) đến thông ngôn ký lục ở thành thị (Thầy thông ngôn)
- Nhà văn chiếu ngòi bút vào những vấn đề nóng bỏng của đạo đức xã hội miền
Nam trong thời đại thay đổi mới cũ : lối sống vị lợi, sự suy đồi đạo đức, gian dâm, sự
mục nát của bộ máy công chức công quyền ....
- Đáng lưu ý, xã hội trong con mắt của HBC chánh là một thế giới đầy những
âm mưu hiểm ác, những cạm bẫy, những sự sa đọa... một cái nhìn ít nhiều tiêu cực đối
với xã hội hiện đại.
2.2. Hồ Biểu Chánh, nhà văn của văn hóa và những giá trị đạo đức Nam
Bộ
- Như đã trình bày, trong cuộc đời, Hồ Biểu Chánh là người tỏ ra mơ hồ về
chính trị, dẫu về đạo đức có nhiều phương diện đáng kính. Ông bất lực trong việc
nhận ra những vấn đề của dân tộc và thời đại và giữ nguyên những giá trị đạo đức
truyền thống trong lòng đời sống hiện đại. Trong văn chương, Hồ Biểu Chánh chủ yếu
hướng đến những giá trị có tính lâu bền trong đời sống văn hóa Nam Bộ những giá trị
bình dị nhưng có sức sống mạnh mẽ trong quần chúng bình dân Nam Bộ : hiếu đễ, tiết
hạnh, trọng nghĩa khinh tài, tư tưởng thiên mệnh, lòng nhân ái mang màu sắc Phật
giáo...
2.3. Hồ Biểu Chánh, người đổi mới truyền thống truyện kể Nam Bộ
- Truyện của Hồ Biểu Chánh về cơ bản thường được xây dựng trên một cốt
truyện với một hệ thống tình tiết éo le, nhiều biến cố, với lối trần thuật ở ngôi thứ ba
theo trình tự thời gian tuyến tính. Đó là một kiểu kết cấu mang dấu vết đậm nét của
truyện Nôm và tiểu thuyết chương hồi truyền thống.
- Trên cái nền truyện kể đó, Hồ Biểu Chánh bước đầu đã có ý thức trong việc đi
sâu phân tích tâm lý, miêu tả cảnh vật và các chân dung con người và trên cơ sở đó
tạo nên một sức sống mới cho kết cấu truyện kể.
- Một hiện tượng đáng lưu ý trong nghệ thuật trần thuật của Hồ Biểu Chánh là
việc ông có ý thức dùng ngôn ngữ đời sống thường dụng, từ bỏ văn biền ngẫu và từ
Hán Việt. Một mặt, yếu tố đó tạo nên dấu ấn và giá trị hiện thực riêng cho tác phẩm
nhưng sự lạm dụng phương ngữ trong lời trần thuật lại làm giảm giá trị của tác phẩm.
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu
( 1887 – 1939 )
I. Những ba đào của một số phận tài hoa
- Tản Đà sinh năm 1887 tại Khê Thượng, Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (Sơn Đà,
huyện Ba Vì, Hà Tây), bố là Cử nhân Nguyễn Danh Kế, án sát Ninh Bình, mẹ là Nhữ
Thị Nghiêm, vợ ba ông Kế, xuất thân là đào hát ở phố Hàng Thao.
- Năm TĐ lên 3 tuổi, thân sinh qua đời, Tản Đà bắt đầu sống với anh là Nguyễn
Tái Tích (đỗ Phó Bảng). Tản Đà theo chân anh sống ở những nơi mà NTT được bổ
nhiệm làm quan : Yên Mô - Ninh Bình, Vụ Bản – Nam Định, Quảng Oai - Sơn Tây,
Hà Nội, Vĩnh Tường. Lên 5 tuổi TĐ bắt đầu đi học và nổi tiếng thần đồng nhưng
đường công danh lận đận : học trường Quy thức (trường theo lối mới đầu tiên do
người Pháp tổ chức), năm 1909 và 1912 có đi thi nhưng đều thất bại, thi Hậu bổ theo
lối mới cũng không thành công. Trong những năm này, nhiều sự kiện đã để lại những
chấn thương tâm lý sâu sắc trong TĐ : năm lên 4, mẹ về sống lại ở xóm Bình Khang,
năm lên 13 tuổi, chị cũng theo mẹ về xóm Bình Khang; mấy lần yêu đương nhưng đều
không thành. Năm 1913, sau khi thi trượt và thất tình, TĐ bắt đầu một cơn “tâm tật”
trầm trọng. Cũng trong năm này sống một thời gian dài ở nhà tư sản Bạch Thái Bưởi.
- Năm 1915 và 1916 bắt đầu một bước ngoặt trong cuộc đời TĐ : năm 1915,
TĐ lấp gia đình với con gái một viên tri huyện và năm 1916, Nguyễn Tái Tích bắt
đầu qua đời, TĐ bắt đầu đời sống tự lập. Năm 1915 cũng là năm TĐ bắt đầu chọn con
đường lập nghiệp bằng văn chương (cộng tác với Đông Dương tạp chí). Từ 1915 đến
1932 là giai đoạn sáng tạo văn chương chính của TĐ. Toàn bộ di sản văn học của ông
đều được xuất bản trong giai đoạn này. TĐ cộng tác với Đông Dương tạp chí, soạn
tuồng cho các rạp ở Hải Phòng, viết văn và soạn sách tự do, lập nhà xuất bản tư (Tản
Đà thư điếm-1922, Tản Đà tu thư cục-1923), làm chủ bút báo Hữu Thanh (1923), lập
An Nam tạp chí (1926), ANTC chết đi sống lại nhiều lần, trong thời gian đó TĐ còn
vào Nam cộng tác với Đông Pháp thời báo. Trong giai đoạn này, TĐ không chỉ là
“cơn gió lạ thổi khắp trong Nam ngoài Bắc” mà còn được công chúng hâm mộ, đặc
biệt là giới tư sản. Trong cuộc đời Tản Đà, ít nhất đã in dấu ba nhà tư sản có nhiều ảnh
hưởng đến ông : Bạch Thái Bưởi, Bùi Huy Tín, Diệp Văn Kỳ.
- Từ 1932, TĐ bắt đầu rơi vào giai đoạn khủng hoảng sáng tạo trầm trọng.
ANTC đình bản, TĐ làm trợ bút cho nhiều báo : Văn học tạp chí, Tiểu thuyết thứ bảy,
Sống, ích hữu, Sài gòn..., dịch thơ Đường cho báo Ngày Nay (của TLVĐ)... Nghề
kiếm sống cùng quẫn, nhiều giai đoạn phải chữa văn thuê, xem tướng số... Không
sáng tác thêm được tác phẩm mới, chủ yếu đầu tư vào dịch thuật và khảo cứu, trong
giai đoạn này, TĐ là linh hồn của phái bảo vệ Thơ cũ xung đột với những nhà thơ trẻ
thuộc thế hệ Thơ mới.
- Tác phẩm chính của TĐ : 1. Thơ : Khối tình con I, II, III; Còn chơi; Thơ Tản
Đà; 2. Văn xuôi : Khối tình bản chính, Khối tình bản phụ; Đàn bà Tàu, Đài gương;
Thần tiền; Tản Đà tùng văn; Truyện thế gian I, II; Trần ai tri kỷ; Giấc mộng lớn; Thề
non nước; 3 : Kịch: Tây Thi; Dương Quý Phi; Thiên Thai; Người cá; 4. Khảo cứu :
Quốc sử huấn mông; Vương Thuý Kiều chú giải tân truyện; 5. Dịch thuật : Đại học,
Liêu trai chí dị, Đường thi.
II. Sáng tác của Tản Đà.
1. Vấn đề quan niệm văn học và hệ thống thể loại của Tản Đà
- Bức tranh toàn cảnh về diện mạo các thể loại trong văn chương Tản Đà : Tản
Đà là tácgia đã đưa toàn bộ kinh nghiệm văn chương truyền thống vào đời sống văn
học hiện đại. Về thơ, ông sử dụng lại toàn bộ các thể thơ truyền thống, dân gian cũng
như bác học ( thơ quốc âm luật Đường, thơ trường thiên thất ngôn, lục bát, song thất,
phong dao, hát nói, tứ lục, phong dao,....) các thể sân khấu dân tộc (chèo, tuồng), các
thể văn xuôi truyền thống (truyện truyền kỳ, luận thuyết, phê bình ....)
- Quan niệm về văn chương của Tản Đà : đối với Tản Đà, văn chương trước hết
là một “nghiệp”, một niềm đam mê, một sứ mạng, một món nợ mà ông phải đeo đuổi
cả cuộc đời. Đólà phương diện Tản Đà kế thừa những bậc phong lưu danh sĩ tiền bối
(Nguyễn Du). Tuy vậy, đối với ông, văn chương còn là một phương cách để lập thân,
kiếm sống trong xã hội hiện đại, là một nghề. Có thể nói, ông là một trong những bậc
tiền bối khai sinh ra kiểu nhà văn chuyên nghiệp trong xã hội hiện đại, đồng thời, ông
là người đã nếm trải đầy đủ những vinh quang cũng như cay cực của số kiếp nhà văn
chuyên nghiệp.
- lý tưởng về văn chương của Tản Đà : văn chơi và văn vị đời. Nếu như trong
cuộc đời, TĐ bị giằng xé giữa người nghệ sĩ và nhà tư tưởng-đạo đức muốn bảo vệ
các giá trị truyền thống Nho giáo thì trong văn chương, ông tự phân ra thành văn chơi
và văn vị đời (ứng với hai chủ đề của sự nghiệp sáng tác văn chương của Tản Đà : con
người cá nhân khát khao tận hưởng hạnh phúc và con người nghĩa vụ Nho giáo) trong
đó cái được đề cao là văn vị đời. Có thể nói trong quan niệm văn chương của Tản Đà,
dấu vết của quan niệm văn học Nho giáo là hết sức đậm nét.
2. Cái tôi – con người cá nhân, nhân vật trung tâm của văn chương Tản
Đà.
Tản Đà là không phải là người đầu tiên đưa cái tôi cá nhân vào trong văn học
nhưng có thể nói, cái tôi cá nhân trong sáng tác văn chương của Tản Đà đã mang
những nội hàm mới mẻ. Đó là một cái tôi đầy tinh thần tự tín, thậm chí đến mức tự kỷ,
cái tôi trở thành lăng kính để nhìn cuộc đời (giới hạn của nội dung nhân đạo trong thơ
ca Tản Đà - chủ đề tài tử-giai nhân, người tài tử đa cùng, người hồng nhan bạc mệnh).
Một mặt, đó là cái tôi hăm hở nhập thế, ý thức tài năng và muốn đem tài năng đánh
cuộc với cuộc đời sòng bạc và mong truy lĩnh từ cuộc đời nhưng một mặt đó là cái tôi
của những khát vọng thanh cao xa lạ với xã hội tư sản. Bao trùm lên tất cả, đó là mâu
thuẫn giữa người phong lưu danh sĩ khát khao hưởng lạc và nhà tư tưởng đạo đức bảo
thủ.
3. Thơ ca Tản Đà
- Liên quan đến di sản thơ ca của Tản Đà có thể thấy, trước hết, Tản Đà là
người kế thừa toàn bộ kinh nghiệm thi ca truyền thống từ quan niệm nghệ thuật
(không chấp nhận sự cách tân thái quá, từ bỏ mọi niêm luật thơ ca) đến kỹ thuật viết.
Tuy vậy, cái truyền thống mà TĐ kế thừa cũng là một truyền thống hướng đến cái tự
do (ông không quá lệ thuộc vào thơ Đường luật và làm chủ cả những thể thơ có nguồn
gốc dân gian).
- Có thể nhận thấy trong thơ ca Tản Đà một nỗ lực tìm kiếm sự tự do biểu đạt
trong khuôn khổ không thay đổi của những thể thơ truyền thống. Ông tìm đến những
thể loại cho phép nới rộng biên độ của cảm xúc, gần gũi với thơ tự do (từ khúc, hát
nói, trường thiên...), những thể loại có khả năng diễn đạt cái tươi mới của xúc cảm
(thơ lục bát, phong dao – tiếp nhận những lối nói bình dị của văn học dân gian) . Mặt
khác, thơ Đường luật của TĐ cũng đã có những cách tân phá vỡ khuôn khổ của câu
thơ Đường luật truyền thống (thêm hư từ, bỏ đối....-Ghẹo người vu vơ) hoặc một thứ
thơ Đường giầu những hình ảnh ẩn dụ kiểu thơ Hồ Xuân Hương (Chơi chùa Hương).
Như vậy cóthể nói về mặt hình thức thể loại, dù TĐ là đại diện của Thơ cũ chống lại
Thơ mới nhưng ngôn ngữ thơ ca của ông lại là một thứ “phòng chờ” của Thơ mới.
- Cái tôi trong thơ ca của Tản Đà, những xúc cảm thơ ca báo hiệu thơ mới :
những xúc cảm trong thơ ca của TĐ báo hiệu một con người khác với con người phận
vị nghĩa vụ truyền thống. Đó là con người với một cái nhìn phong tình, tươi mới về
hiện thực, khác với con người đạo đức Nho giáo. ở ông bắt đầu xuất hiện những thứ
xúc cảm vẩn vơ, những bâng khuâng vô cớ, một kiểu nghệ sĩ duy cảm khác với con
người duy lý Nho giáo. Phải đối diện với xã hội hiện đại nên TĐ cũng có những trạng
thái tâm lý dễ tạo được sự đồng cảm với những người đến sau : ý thức về sự hữu hạn
của hiện thực và cuộc đời con người, khát khao tận hưởng cuộc sống hiện thực, cảm
giác cô đơn, lạc loài, cái nhìn bi quan đối với hiện thực...
4. Tản Đà-người viết văn xuôi
- Trong tổng thể sáng tác văn chương của Tản Đà, văn xuôi là nơi giao tranh
của những xung động trái chiều trong con người – nhà nghệ sĩ Tản Đà : giao tranh
giữa những kinh nghiệm sáng tác văn xuôi truyền thống và những yêu cầu của thời đại
và công chúng mới, giao tranh giữa nhà nghệ sĩ và nhà tư tưởng đạo đức. Bởi vậy, có
thể nói văn xuôi là bộ phận thể hiện một cách rõ nét tính giao thời trong sáng tác của
TĐ.
- Tổng thể văn xuôi của TĐ bao gồm các thể loại như sau : 1. Văn luận thuyết :
Khối tình (bản chính và bản phụ), Tản Đà tùng văn, Tản Đà nhàn tưởng (đây là một
trong hai bộ phận chiếm một tỷ lệ lớn nhất trong toàn bộ di sản văn xuôi TĐ); 2. Các
tự sự : Giấc mộng con I, II, Thần tiền, Thề non nước, Trần ai tri kỷ, Kiếp phong trần,
Giấc mộng lớn...3. Các du ký, tản văn trữ tình, phê bình văn học, tranh luận văn học,
các cuộc bút chiến....
- Tạm gạt sang một bên bộ phận văn xuôi luận thuyết, có thể thấy các tự sự là
bộ phận phản ánh rõ nét nhất tính chất giao thời trong sáng tác của Tản Đà :
+ Về đề tài, bắt đầu thấy có sự thay đổi phạm vi phản ánh so với văn chương
truyền thống : tập trung khai thác những đề tài đương đại, cuộc sống đô thị,.... Về hình
tượng nhân vật có thể thấy có sự pha trộn giữa những kiểu người hiện đại (thương
nhân, phụ nữ tân học) với hình ảnh người tài tử giai nhân truyền thống.... Về loại hình
tự sự, có sự xuất hiện của một số hình thức cốt truyện mới (cốt truyện phiêu lưu, cốt
truyện bợm nghịch) bên cạnh những kiểu truyện truyền thống (truyện đối thoại, truyện
truyền kỳ....)
+Tổng thể tự sự nghệ thuật của Tản Đà có thể thấy ông bị dằng xé giữa hai
khuynh hướng chính : thỏa mãn những ẩn ức của con người cá nhân và hướng tới
miêu tả những cảnh đời, kiếp người mà trong đó khuynh hướng thứ nhất là khuynh
hướng chủ đạo.
+Hạn chế lớn nhất trong tự sự nghệ thuật của Tản Đà là con người cá nhân, nhà
luận thuyết đã ngăn cản ông nắm lấy những công cụ hiện đại (miêu tả, phân tích tâm
lý...) để tái hiện hiện thực. Nhân vật trong tự sự của ông được biến thành những hình
chiếu mờ ảo của tác giả, thành những con người không có tính cách, thành những cái
loa phát ngôn cho tác giả.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài giảng 1900 - 1930.pdf