Việc đánh giá năng lực ngoại ngữ của người học trước kia dựa vào các kỳ thi lấy
chứng chỉ A,B,C. Ngày nay, trước sự phát triển xã hội và toàn cầu hóa, Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã đề nghị dùng khung tham chiếu trình độ ngoại ngữ chung châu Âu CEFR
(Common European Framework of Reference for Languages: Teaching, Learning &
Assessment) làm hệ thống tiêu chuẩn và quy chiếu trong việc đào tạo, học tập và đánh giá
ngoại ngữ. Khung trình độ năng lực ngoại ngữ gồm 6 bậc. Mỗi bậc tương thích với các bậc
trình độ ngoại ngữ quốc tế. Do vậy việc thi lấy chứng chỉ TOEIC của IIG (Tổ chức Khảo
thí và Kiểm định chất lượng quốc tế) người học được công nhận có chứng chỉ tiếng Anh
quốc tế.
Việc đánh giá kết quả học tập môn tiếng Anh được thực hiện qua quyết định chuẩn
đầu ra của Ban giám hiệu. Cụ thể, đầu ra tiếng Anh của ngoại ngữ không chuyên hệ cao
đẳng là 350 điểm TOEIC, tương đương với khung A2, với hệ đại học chuẩn đầu ra là 450
điểm TOEIC, tương đương B1. Việc cấp chứng chỉ tiếng Anh quốc tế cho sinh viên khi ra
trường sẽ nói lên uy tín, chất lượng của cơ sở đào tạo
6 trang |
Chia sẻ: thuychi20 | Lượt xem: 758 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dạy và học tiếng Anh theo hệ thống tín chỉ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DẠY VÀ HỌC TIẾNG ANH THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ
TS. Nguyễn Thị Tuyết
Khoa Giáo dục đại cương - Trường Đại học Văn Hiến
1. Các nguyên lý cơ bản trong đào đạo theo hệ thống tín chỉ
Năm 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành “Quy chế Đào tạo đại học và cao đẳng
hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ”, và yêu cầu năm 2011 là hạn chót để các trường chuyển
đổi sang hệ thống đào tạo mới này. Một năm sau đó, ngày 30-9-2008 Thủ tướng chính phủ
đồng thời phê duyệt đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống quốc dân giai đoạn 2008-
2020” với những quy định mới về việc dạy và học ngoại ngữ trong các cơ sở giáo dục thuộc
hệ thống giáo dục quốc dân. Những điều trên thể hiện rất rõ quyết tâm đổi mới giáo dục,
coi trọng vấn đề chất lượng trong giáo dục đào tạo của Đảng, Nhà nước. Nghị quyết TW2
Khóa VIII đã nhấn mạnh cần đổi mới phương pháp giáo dục-đào tạo, khắc phục lối truyền
thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các
phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện
và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh.
Những tư tưởng chỉ đạo nêu trên của Đảng đã nêu rõ nguyên lý cơ bản của việc đào
tạo theo hệ thống tín chỉ. Nguyên lý thứ nhất đó là nguyên lý dân chủ hóa. Nguyên lý này
đã mang lại sự thay đổi rất lớn về quan niệm giáo dục. Đó là không phải người dạy mà
người học có quyền quyết định nội dung đào tạo cho chính họ và quyền tích lũy kiến thức
theo nhu cầu và sở thích của họ. Mục tiêu đào tạo lấy người học làm trung tâm được thể
hiện trong nguyên lý này.
Nguyên lý thứ hai, Nguyên lý đại chúng hóa giáo dục đại học đã tạo cơ hội cho mọi
công dân thực hiện quyền được học suốt đời. Đây là một biện pháp nâng cao trình độ dân
trí để tạo ra một nguồn nhân lực mới có tri thức cao đáp ứng được yêu cầu phát triển của
xã hội, đẩy nhanh quá trình hội nhập quốc tế.
Nguyên lý thứ ba là nguyên lý dạy học tích cực. Nội dung trong Nghị quyết TW2
Khóa VIII chỉ ra tầm quan trọng của nguyên lý dạy học tích cực trong đào tạo theo học chế
tín chỉ. Luật Giáo dục nhấn mạnh đổi mới phương pháp giáo dục là phải phát huy tính tích
cực, chủ động sáng tạo của học sinh, phù hợp với từng đặc điểm của lớp học, môn học, bồi
dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động
đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho từng học sinh. Nguyên lý dạy học
tích cực được cho là mục tiêu quan trọng của học chế tín chỉ. Theo GS.TSKH. Lâm Quang
Thiệp, “Học là quá trình tự biến đổi mình và làm phong phú mình bằng cách chọn nhập và
xử lý thông tin từ môi trường xung quanh”, “Dạy là việc giúp cho người học tự mình chiếm
lĩnh những kiến thức, kỹ năng và hình thành hoặc tăng cường tình cảm, thái độ.” Dạy và
học là một quá trình của hai hành động song song và có tác động qua lại lẫn nhau.
Tôi xin được trình bày quan điểm của mình về nguyên lý thứ ba thông qua việc đánh
giá, phân tích cách học tiếng Anh của sinh viên, việc dạy tiếng Anh của giảng viên và vài
ý kiến liên quan đến chuẩn đầu ra tiếng Anh, phương pháp dạy học Blended Learning và
lựa chọn giáo trình giảng dạy tiếng Anh.
2. Vị trí, vai trò và trách nhiệm của sinh viên
Đào tạo theo hệ thống tín chỉ là một phương pháp đào tạo tiên tiến. Nó ra đời vào
năm 1872 tại Đại học Harvard, Hoa Kỳ (the United States Credit System, USCS). Người
học không còn ở vị trí bị động mà là ở vị trí chủ động, là người vận động chính trong quá
trình đào tạo. Điều này đòi hỏi sinh viên phải có khả năng tư duy, suy luận, có kỹ năng tự
học, tự nghiên cứu. Tuy nhiên dựa trên thực tế ở Việt Nam, sinh viên được chia ra thành
năm nhóm dựa vào tinh thần, thái độ và ý thức trong học tập.
- Nhóm thứ nhất, là nhóm được đánh giá có tinh thần, thái độ học tập độc lập, tự
giác cao. Việc học tập tự giác, có ý thức của sinh viên không chỉ thể hiện ở trên lớp, mà
ngoài giờ học họ còn tự tìm thêm tài liệu, đọc thêm sách báo bằng tiếng Anh, tìm cơ hội
tiếp cận người nước ngoài để nâng cao khả năng ngôn ngữ cho mình. Sinh viên thuộc nhóm
này nếu gặp thầy giỏi, môi trường thuận lợi có thể học cao hơn để trở thành nhà nghiên
cứu.
- Nhóm thứ hai, sinh viên có ý thức rất tốt đối với việc học. Họ tin rằng tinh thần tự
giác trong học tập là điều thực sự cần thiết không những cho việc có được một kết quả học
tập tốt mà còn thuận lợi cho nghề nghiệp tương lai của họ. Động cơ nghề nghiệp sẽ mang
lại nhiều hứng thú học tập cho họ. Sinh viên thuộc nhóm này thường đi học chuyên cần,
làm bài đầy đủ, tích cực tham gia xây dựng bài. Theo họ, môi trường học tập trên lớp thực
sự mang lại hiệu quả cao. Họ học tự giác và thường đạt kết quả cao trong học tập. Kiến
thức tốt có được ở đại học sẽ giúp họ cơ hội vào một vị trí tốt, với lương bổng hậu hĩnh
trong công việc sau này.
- Nhóm thứ ba, sinh viên thiếu tinh thần kỷ luật tự giác. Hành động của họ thiếu
chủ động, không biết tự sắp xếp thời gian một cách hợp lý. Nhóm này thường học qua kinh
nghiệm nhiều hơn là thích ngồi học một cách nghiêm chỉnh trên lớp. Họ hay bỏ học, lười
học và học tùy tiện, chủ quan. Mục đích học của họ chỉ đơn giản là lấy được bằng tốt
nghiệp để đi xin việc. Trên thực tế, sinh viên thuộc nhóm này khá phổ biến. Giảng viên
giảng dạy theo phương pháp kiểu dạy nêu vấn đề với nhóm này thường dễ bị thất bại.
- Nhóm thứ tư, sinh viên thuộc nhóm này thường thích học vẹt. Họ lĩnh hội tri thức
khoa học chỉ bằng con đường thuộc lòng những ý, những câu có sẵn chứ không chịu tìm
tòi, nghiên cứu để tìm ra lôgic của vấn đề. Nhóm sinh viên này bị ảnh hưởng rất nhiều của
lối học theo truyền thống cũ. Sinh viên thuộc nhóm này đi học khá chăm chỉ. Họ ghi chép
và thuộc lòng bài giảng của giảng viên, họ có thể học thuộc các vấn đề viết trong giáo trình.
Họ sẽ được điểm cao nếu như đề thi chỉ đơn thuần mang tính “trả bài”. Họ sẽ gặp lúng
túng, thậm chí bỏ giấy trắng nếu câu hỏi lệch đi hay đề thi mang tính suy luận. Xét về góc
độ nhận thức, hành vi nhớ được xem là cấp độ thấp nhất của quá trình nhận thức, vì đây
chỉ là quá trình tái tạo lại những kiến thức đã ghi nhận một cách máy móc.
- Nhóm thứ năm, sinh viên thuộc nhóm này bị đánh giá là có lòng tự trọng thấp. Họ
luôn ỷ lại, không muốn tự làm bài mà chỉ thích chờ người khác làm xong là chép và thuộc
lòng. Họ thường mang tài liệu vào phòng thi và copy bài của người khác mà không cảm
thấy áy náy. Nhóm sinh viên này chỉ biết dùng giáo trình và tài liệu do giáo viên cung cấp.
Họ hầu như không tự học tập, nghiên cứu thêm.
Nói tóm lại, để biến đổi mình, sinh viên phải hiểu học là lĩnh hội tri thức mang tính
độc lập trí tuệ cao. Giáo trình hay, thầy giỏi chưa đủ, họ phải biết củng cố, mở rộng tri thức
bằng việc tự nghiên cứu, đọc thêm nhiều sách báo để tìm hiểu sâu vấn đề. Sinh viên còn
phải tập kỹ năng phân tích, tổng hợp vấn đề, chuyển hóa thành tri thức của mình và biết áp
dụng nó vào thực tiễn.
Qua phân tích năm nhóm sinh viên trên, ta thấy rõ học tập thành công hay không
phụ thuộc vào hành vi, trách nhiệm của chính sinh viên. Điều này hoàn toàn đúng theo quan
điểm của triết học là “Sự vật muốn phát triển phải tự thân vận động”. Và đây cũng là mục
đích mà dạy học theo hệ thống tín chỉ hướng tới.
3. Vị trí, vai trò, trách nhiệm người thầy
Đào tạo đại học, cao đẳng theo hệ thống tín chỉ là một cuộc cách mạng lớn. Nó đã
đảo ngược vị trí, vai trò và trách nhiệm của trò và thầy. Trước đây giảng viên chỉ dùng lời
nói của mình để truyền đạt cho sinh viên một khối lượng kiến thức một cách thụ động, máy
móc. Vai trò của thầy ở vị trí số một. Không thầy đố mày làm nên. Cách dạy này gọi là kiểu
phương pháp dạy thông báo. Trên thực tế còn rất nhiều giảng viên dùng phương pháp này.
Tệ hơn nữa, họ còn đưa thêm phần ngữ pháp, phần phát âm bên ngoài để giảng giải
thêm. Như vậy giờ học tiếng Anh đáng lý ra phải là giờ rèn luyện bốn kỹ năng đã trở thành
giờ giảng lý thuyết. Tài liệu, giáo trình giảng dạy tiếng Anh ở các trường đại học, cao đẳng
đa phần là sách nước ngoài. Đây là điều hết sức thuận lợi. Qua giảng dạy, nghiên cứu tôi
nhận thấy các tác giả đều là những nhà chuyên môn và nhà sư phạm giỏi. Vấn đề họ đưa
ra có logic từ câu đầu đến câu cuối của từng bài, từng chương. Mọi mục tiêu của tác giả
đều phải thông qua bốn kỹ năng. Nếu sinh viên được giảng viên hướng dẫn, gợi mở, tiếp
cận nội dung một cách tự nhiên theo kiểu dạy học nêu vấn đề, sinh viên sẽ mạnh dạn, tự
tin, chủ động, tránh việc chỉ ngồi nghe, lười biếng trong suy nghĩ. Theo Albert Einstein
“Việc đánh giá giá trị đào tạo và giáo dục ở một trường đại học và cao đẳng không phải
chỉ là ở đây học được cái gì về mặt kỹ thuật hay nghề nghiệp mà còn là được huấn luyện
cách tư duy mà không thể học được từ sách vở”.
Điểm khác cơ bản của đào tạo theo hệ thống tín chỉ so với đào tạo theo niên chế là
thay đổi phương pháp dạy học. Nếu như người dạy không thay đổi quan niệm đào tạo mới
này, họ sẽ rất lúng túng vì không thể giảng giải khối lượng kiến thức trong 45 tiết thay vì
180 tiết như trước kia. Họ sẽ tìm cách cắt giảm nội dung chương trình, phần còn lại giao
sinh viên tự nghiên cứu. Với sĩ số sinh viên đông như hiện nay thì việc kiểm tra bài làm
ngoài giờ học đối với thầy là công việc không dễ dàng. Làm vậy thì việc đào tạo theo hệ
thống tín chỉ chỉ là hình thức, kiểu bình mới rượu cũ. Giờ làm việc trên lớp bị giảm xuống
không đồng nghĩa với việc cắt giảm chương trình. Người dạy phải thiết kế đề cương chi
tiết môn học, tuân thủ nó để nội dung giảng dạy đạt được mục tiêu như đã đề ra. Người dạy
phải chủ động, tích cực nghiên cứu khoa học, tham gia các hội thảo khoa học để không
ngừng cập nhật thông tin mới liên quan đến vấn đề mình giảng dạy và để có cơ hội học
hỏi, tiếp thu được những phương pháp giảng dạy mới.
Người thầy bên cạnh việc giỏi về chuyên môn, họ còn phải có kỹ năng sư phạm.
Thầy phải biết lắng nghe, biết khuyến khích, quan tâm đến từng thành phần sinh viên khác
nhau. Thầy phải rất công bằng trong đánh giá sinh viên. Thầy phải có nghệ thuật truyền
đạt kiến thức sao cho phát huy được tính tích cực, độc lập, chủ động của sinh viên, giúp họ
dần làm quen với phương pháp nghiên cứu khoa học, biết cách học kiểu đại học.
4. Đánh giá kết quả học tập của sinh viên
Việc đánh giá năng lực ngoại ngữ của người học trước kia dựa vào các kỳ thi lấy
chứng chỉ A,B,C. Ngày nay, trước sự phát triển xã hội và toàn cầu hóa, Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã đề nghị dùng khung tham chiếu trình độ ngoại ngữ chung châu Âu CEFR
(Common European Framework of Reference for Languages: Teaching, Learning &
Assessment) làm hệ thống tiêu chuẩn và quy chiếu trong việc đào tạo, học tập và đánh giá
ngoại ngữ. Khung trình độ năng lực ngoại ngữ gồm 6 bậc. Mỗi bậc tương thích với các bậc
trình độ ngoại ngữ quốc tế. Do vậy việc thi lấy chứng chỉ TOEIC của IIG (Tổ chức Khảo
thí và Kiểm định chất lượng quốc tế) người học được công nhận có chứng chỉ tiếng Anh
quốc tế.
Việc đánh giá kết quả học tập môn tiếng Anh được thực hiện qua quyết định chuẩn
đầu ra của Ban giám hiệu. Cụ thể, đầu ra tiếng Anh của ngoại ngữ không chuyên hệ cao
đẳng là 350 điểm TOEIC, tương đương với khung A2, với hệ đại học chuẩn đầu ra là 450
điểm TOEIC, tương đương B1. Việc cấp chứng chỉ tiếng Anh quốc tế cho sinh viên khi ra
trường sẽ nói lên uy tín, chất lượng của cơ sở đào tạo.
Để có chuẩn đầu ra đạt chuẩn quốc tế, người dạy ngoài đòi hỏi phải thích ứng với
phương pháp giảng dạy mới, còn phải thiết kế được chương trình đào tạo và lựa chọn giáo
trình nước ngoài được biên soạn trên cơ sở dùng CEF như một công cụ tham chiếu.
5. Dạy và học tiếng Anh theo phương pháp Blended Learning
Dạy và học theo hệ thống tín chỉ rất thích hợp trong thời đại công nghệ thông tin
đang được sử dụng rộng rãi. Không phải ngẫu nhiên và tùy tiện khi thời gian dành cho các
môn học nói chung và tiếng Anh nói riêng chỉ còn 45 tiết, tức 3 tín chỉ. Người học một giờ
học trên lớp phải học ở nhà hai giờ mới có được kết quả học tập khả quan. Người dạy phải
làm việc với người học cả trên lớp và cả ngoài giờ học. Như vậy có nghĩa là phương pháp
dạy học theo hệ thống tín chỉ người thầy yêu cầu người thầy ngoài làm việc trực tiếp trên
lớp với người học kiểu “face to face”, còn phải quản lý người học trực tuyến-online mà ta
hiểu đó là dạy theo phương pháp E-learning. Với E-learning, sinh viên có thể dễ dàng tương
tác với thầy ngoài giờ học, giảng viên có thể thường xuyên kiểm tra, đánh giá các bài làm
ở nhà của sinh viên qua online. Sự kết hợp đồng thời của hai phương pháp “face to face”
và “E-learning” được gọi là phương pháp “Blended learning”, được hiểu đây là phương
pháp dạy học hỗn hợp hay phương pháp tích hợp. “Blended learning” rất phù hợp với việc
dạy học theo hệ thống tín chỉ. Nó làm thay đổi tư duy và thói quen lâu nay của người dạy
và người học. Nó làm thay đổi cách dạy đơn thuần thông báo, cách học vẹt, thụ động mà
ngược lại, nó làm thay đổi quan niệm của người dạy và tăng tính tự tin, tự giác, có ý thức
của người học. Để đạt mục tiêu đào tạo, vấn đề phương pháp giảng dạy, giáo trình, chuẩn
đầu ra phải được kết hợp song song, đồng bộ và chặt chẽ, khoa học. Cụ thể:
- Hãy lựa chọn giáo trình nước ngoài đã được biên soạn dựa theo khung CEF. Hiện
nay ngoài bìa các loại sách dùng giảng dạy tiếng Anh của các nhà xuất bản Longman,
Oxfort, Cambridge, McGraw-Hill thường ghi rõ ký hiệu khung CEFR A1, A2, B1, B2
hay C1, C2.
- Lựa chọn giáo trình có dùng phương pháp “Blended Learning”
- Không nên dùng sách luyện thi TOEIC với tư cách là giáo trình giảng dạy. TOEIC
viết tắt của Test of English for International Communication. Đó là một bài thi lấy chứng
chỉ Anh văn giao tiếp quốc tế chứ không phải là một môn học. Muốn thi TOEIC đạt điểm
theo ý muốn, sinh viên ngoài việc học giáo trình và sử dụng thêm tài liệu liên quan đến
phát triển 4 kỹ năng ngôn ngữ, phải tiếp cận với các giáo trình Business English. Các bộ
giáo trình này giúp sinh viên hiểu biết và xử lý các tình huống trong giao tiếp quốc tế.
6. Kết luận
Việc đào tạo theo học chế tín chỉ là quá trình đào tạo tiến tiến đem lại rất nhiều lợi
ích cho người học. Với cách đào tạo mới này, tất cả mọi người đều có thể chủ động học
tập theo năng lực, điều kiện của mình và hơn nữa, năng lực tự nghiên cứu của người học
được phát huy tối đa. Việc nắm vững chuyên môn và giao tiếp tiếng Anh lưu loát sẽ giúp
sinh viên khi ra trường có đủ điều kiện cạnh tranh khi xin việc và trở thành nguồn nhân lực
chất lượng cao, đủ sức đáp ứng sự phát triển của xã hội và toàn cầu hóa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. All scales CEFR.DOC
2. Framework_en.pdf
3. Quyết định số: 51 /QĐ-ĐHQG-ĐH&SĐH
4. Thông tư số 10/2011/TT-BGDĐT ngày 28/02/2011 của Bộ GDĐT ban hành Quy chế
đào tạo trình độ thạc sĩ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11_day_va_hoc_tieng_anh_theo_he_thong_tin_chi_4979.pdf