Dạy tiếng anh ở các lớp có trình độ không đồng đều: Khó khăn và giải pháp - Phan Như Quỳnh

5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Kết quả nghiên cứu cho thấy việc dạy tiếng Anh ở những lớp 10 có trình độ không đồng đều gây nhiều khó khăn cho hầu hết giáo viên trường phổ thông trung học ở Huế. Các khó khăn ấy cụ thể như sau: • Giáo viên tốn nhiều thời gian để soạn giáo án vì phải thiết kế nhiều loại hoạt động và bài tập dễ và khó, đồng thời phải lựa chọn kỹ thuật dạy thích hợp cho mỗi hoạt động và phương pháp phù hợp với các đối tượng học sinh. • Khi dạy các kỹ năng ngôn ngữ giáo viên gặp khó khăn trong việc dạy kỹ năng Nghe và Nói nhiều hơn dạy kỹ năng Viết và Đọc. • Khi triển khai hoạt động và bài tập, giáo viên khó thay đổi tình trạng quá thụ động và thờ ơ của học sinh kém và việc lấn áp của học sinh khá giỏi, cũng như khuynh hướng sử dụng Tiếng Việt nhiều trong các hoạt động cặp hay nhóm. Giáo viên Tiếng Anh ở các trường trung học phổ thông đã thực hiện một số biện pháp nhằm khắc phục các khó khăn nói trên. Nhiều giáo viên chọn dạy kỹ năng Viết, Đọc và Nói nhiều hơn Nghe và tăng cường vốn từ và ngữ pháp cho học sinh. Mặc dù, tốn nhiều thời gian, một số giáo viên đã chọn cách thiết kế các bài tập và hoạt động dễ và khó để giúp học sinh có trình độ khác nhau học tốt. Đặc biệt, khá nhiều giáo viên đã biết cách tạo hứng thú cho các học sinh khác nhau. Để khắc phục những khó khăn trên và nhằm nâng cao hiệu quả việc dạy-học Tiếng Anh, chúng tôi đề xuất những biện pháp sau. Giáo viên Tiếng Anh ở các trường trung học phổ thông: ! Cần tìm hiểu trình độ, nhu cầu và sở thích của mỗi học sinh ngay từ đầu năm học. ! Đa dạng hóa phương pháp và kỹ thuật dạy-học Tiếng Anh. Cụ thể: o Chọn phương pháp tối ưu để giảng bài và hướng dẫn cách thực hiện các hoạt động hay bài tập. Cụ thể, giáo viên nên sử dụng ngôn ngữ đơn giản, phi ngôn ngữ, hay giáo cụ trực quan. o Chọn chủ đề đa dạng để tạo hứng thú và phù hợp trình độ của học sinh. o Thiết kế các hoạt động, bài tập cho các trình độ khác nhau như hoạt động mở (open-ending), có phân cấp (tiered-text / bias text), bài tập bắt buộc và tự chọn. o Khuyến khích nhiều học sinh tham gia và đóng góp ý kiến. ! Giáo viên cần thường xuyên tổ chức các hoạt động cặp - nhóm một cách thích hợp để học sinh có thể giúp nhau học tập. ! Nên xây dựng các qui định trong lớp học, đặc biệt trong các hoạt động cặp - nhóm nhằm khuyến khích học sinh kém tham gia nhiều hơn và hạn chế tính áp đảo của học sinh khá giỏi. ! Nâng cao ý thức học tập, tính tự chủ và trách nhiệm của học sinh, đặc biệt các học sinh yếu. ! Dạy đều và kết hợp các kỹ năng Nghe, Nói, Đọc, Viết.

pdf9 trang | Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 433 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dạy tiếng anh ở các lớp có trình độ không đồng đều: Khó khăn và giải pháp - Phan Như Quỳnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế ISSN 1859-1612, Số 01(13)/2010: tr. 138-146 DẠY TIẾNG ANH Ở CÁC LỚP CÓ TRÌNH ĐỘ KHÔNG ĐỒNG ĐỀU: KHÓ KHĂN VÀ GIẢI PHÁP PHAN QUỲNH NHƯ Trường Đại học Ngoại Ngữ - Đại học Huế TỐNG THỊ THÙY TRANG Trường THCS-THPT Huỳnh Văn Nghệ, Bà Rịa -Vũng Tàu Tóm tắt: Nghiên cứu này được tiến hành để điều tra những khó khăn giáo viên thường gặp phải khi dạy Tiếng Anh ở những lớp 10 có trình độ không đồng đều. Kết quả thu được từ bảng câu hỏi điều tra và dự giờ lớp học đã cho thấy giáo viên dạy tiếng Anh thường gặp nhiều khó khăn như dạy lớp học có nhiều học sinh yếu, thiết kế giáo án phù hợp cho nhiều trình độ học sinh, dạy các kỹ năng ngôn ngữ và triển khai hoạt động dạy-học. Nghiên cứu cho biết giáo viên đã áp dụng một số giải pháp để khắc phục phần nào những khó khăn ấy. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong những thập niên qua, phương pháp dạy-học Tiếng Anh ở Việt Nam đã không ngừng được cải tiến nhằm nâng cao khả năng Tiếng Anh của học sinh. Tuy nhiên, giáo viên Tiếng Anh và học sinh vẫn thường xuyên gặp những khó khăn, đặc biệt là các khó khăn khách quan. Một trong những khó khăn khách quan phổ biến nhất là lớp học có sĩ số lớn. Ở những lớp học như thế, trình độ sử dụng ngôn ngữ của học sinh quá khác biệt là một thách thức lớn đối với giáo viên [6]. Nhiều tác giả đã bàn về những thuận lợi, khó khăn và các giải pháp để có thể dạy-học Tiếng Anh hiệu quả nhất ở các lớp học có sĩ số lớn. Một số nghiên cứu đã được tiến hành ở trên thế giới và ở Việt Nam về việc day-học Tiếng Anh ở các lớp học đông. Prodromou đã tiến hành nghiên cứu ở Hi lạp về các khó khăn của lớp học Tiếng Anh có sĩ số đông và trình độ chênh lệch [10]. Tác giả đã cho thấy giáo viên và học sinh thường gặp một số khó khăn nhất định và đề xuất một số giải pháp như sắp xếp tổ chức lớp học hợp lý, lựa chọn đề tài quen thuộc với học sinh, sử dụng các dạng bài tập có yêu cầu mở, các kỹ thuật dạy và hoạt động theo khuynh hướng giao tiếp. Ngoài ra, Baurin đã nghiên cứu thử nghiệm phương pháp đa dạng hóa bài tập ở lớp học Văn học Mỹ ở Việt Nam [1]. Tuy nhiên, việc nghiên cứu sâu về các lớp học Tiếng Anh có trình độ không đồng đều chưa được thực hiện rộng rãi ở Việt Nam, đặc biệt ở các trường phổ thông. Ở các trường trung học phổ thông ở Việt Nam nói chung và ở Huế nói riêng, lớp học thường có sĩ số từ 45-50 học sinh. Trình độ Tiếng Anh của các em khá chênh lệch do khuynh hướng học lệch; rất ít học sinh thích học và học tốt Tiếng Anh, phần lớn học sinh tập trung học nhiều hơn các môn Toán, Lý, Hóa, Sinh để chuẩn bị thi vào đại học. Trước tình hình như thế, giáo viên khó có thể dạy tốt để nâng cao trình độ Tiếng Anh của học sinh nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội trong quá trình toàn cầu hóa. Hơn thế nữa, lớp 10 là lớp đầu cấp ở bậc trung học phổ thông, vì vậy nếu giáo viên không có DẠY TIẾNG ANH Ở CÁC LỚP CÓ TRÌNH ĐỘ KHÔNG ĐỒNG ĐỀU 139 biện pháp khắc phục thì hiệu quả dạy-học Tiếng Anh ở những năm học sau sẽ khó đạt kết quả tốt. Với những lý do trên, nghiên cứu này được tiến hành nhằm đạt được những mục tiêu chính (1) cung cấp bức tranh tổng quát về những khó khăn mà giáo viên có thể gặp phải khi dạy tiếng Anh ở những lớp 10 có trình độ không đồng đều, (2) giúp giáo viên tự đánh giá thực tế giảng dạy, từ đó điều chỉnh phương pháp dạy học Tiếng Anh ở những lớp 10 có trình độ không đồng đều và (3) đề xuất các biện pháp nhằm giúp giáo viên dạy Tiếng Anh hiệu quả hơn. Để đạt được những mục tiêu đã đề ra, nghiên cứu được tiến hành nhằm trả lời hai câu hỏi chính sau đây: 1. Giáo viên tiếng Anh thường gặp phải những khó khăn nào khi dạy cho những lớp 10 có trình độ không đồng đều? 2. Các giáo viên dạy tiếng Anh đã áp dụng các biện pháp gì để khắc phục những khó khăn ấy? 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Định nghĩa về thuật ngữ “multilevel” “Multilevel” (lớp học có trình độ không đồng đều) là một thuật ngữ đa nghĩa bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau. Nói đến lớp học tiếng Anh có trình độ không đồng đều, chúng ta thường nghĩ ngay đến sự khác biệt trong khả năng sử dụng ngôn ngữ của học sinh; có những học sinh sử dụng ngôn ngữ trôi chảy và những học sinh hầu như không thể ghép được một câu nói hoàn chỉnh [2]. Tương tự, Shank và Terrill cho rằng trong một lớp học trình độ chênh lệch, học sinh bắt đầu với những khả năng tiếp nhận ngôn ngữ khác nhau và tiến bộ ở những mức độ khác nhau trong mỗi kỹ năng ngôn ngữ: nghe, nói, đọc và viết [11]. Ngoài thuật ngữ “multilevel”, khi đề cập đến các lớp có trình độ không đồng đều, các thuật ngữ khác cũng được sử dụng như “multiple proficiency levels” [4], “mixed-level” [2] “heterogeneous” [12] và “mixed-ability” [10]. Mặc dù các thuật ngữ khác nhau được sử dụng để chỉ lớp học có trình độ không đồng đều, có thể hiểu rằng một lớp học tiếng Anh có trình độ không đồng đều là lớp học gồm các học sinh có trình độ và khả năng sử dụng tiếng Anh khác nhau. 2.2. Trình độ ngôn ngữ của học sinh Có thể phân chia học sinh học Tiếng Anh theo ba trình độ: sơ cấp, trung cấp và cao cấp [8]. Học sinh ở trình độ sơ cấp hầu như không biết gì hoặc biết rất ít về tiếng Anh. Ở trình độ trung cấp, học sinh có khả năng nói và viết những điều cơ bản nhất, có thể đọc hiểu và nghe hiểu những nội dung trực tiếp và đơn giản. Đạt đến trình độ cao cấp, học sinh có khả năng đọc và nghe hiểu những nội dung có tính chất phức tạp hơn và có thể giao tiếp một cách trôi chảy với người bản xứ [8]. PHAN QUỲNH NHƯ - TỐNG THỊ THÙY TRANG 140 2.3. Thuận lợi và khó khăn của những lớp có trình độ không đồng đều Thuận lợi cơ bản nhất ở các lớp học có trình độ không đồng đều là sự tương tác của người học (interaction) và sự đa dạng của lớp học (diversity) [2]. Cụ thể, lớp học có trình độ không đồng đều có thể mang lại lợi ích cho học sinh có trình độ thấp lẫn cao. Những học sinh có trình độ thấp có thể học hỏi từ những học sinh có trình độ cao hơn và những học sinh có trình độ cao có thể phát triển kỹ năng ngôn ngữ khi giúp đỡ những học sinh có trình độ thấp hơn. Hơn thế nữa, sự khác biệt giữa các học sinh về phương pháp học, sở thích, trình độ nhận thức, động cơ học tập, trình độ ngôn ngữ tạo nên sự đa dạng và phong phú cho lớp học [2], [12]. Ngoài ra, ở những lớp học có trình độ chênh lệch, học sinh có thể phát triển kỹ năng làm việc một cách độc lập, làm việc theo năng lực của cá nhân, và có ý thức trách nhiệm về hành vi và việc học của mình [2], [9], [12]. Mặt khác, bên cạnh những thuận lợi, thực tế cho thấy lớp học có trình độ không đồng đều gây rất nhiều khó khăn và thách thức cho giáo viên và học sinh. Khó khăn đối với giáo viên: Giáo viên gặp nhiều khó khăn trong việc áp dụng phương pháp và kỹ thuật dạy-học (methodology and techniques application), thiết kế chương trình (curriculum design), thiết kế hoạt động dạy-học (activity design), lựa chọn tài liệu (materials adaptation), quản lý lớp học (classroom management) và kiểm tra đánh giá học sinh (assessment and evaluation) [2], [5]. Khó khăn đối với học sinh: Học sinh có thể gặp khó khăn trong việc nâng cao hiệu quả học tập (effective learning). Có thể bài tập này quá dễ đối với một số học sinh nhưng lại quá khó đối với các học sinh khác. Ngoài ra, học sinh có thể gặp khó khăn trong việc tham gia hoạt động học tập trong lớp (participation). Các học sinh khá giỏi liên tục đóng góp ý kiến xây dựng bài và kiểm soát hầu hết các hoạt động trong khi học sinh có trình độ thấp lại thờ ơ và thiếu tự tin [5]. 2.3. Hoạt động theo cặp và nhóm (pair work/group work) trong lớp học tiếng Anh 2.3.1. Định nghĩa: Hoạt động theo cặp hay nhóm (pair work or group work) là hoạt động giáo viên chia lớp thành cặp hay nhóm nhỏ và yêu cầu các nhóm và các cặp này làm việc đồng thời [7]. 2.3.2. Lợi ích: Hoạt động theo cặp hay nhóm mang lại nhiều lợi ích cho học sinh trong lớp học Tiếng Anh. Cụ thể, có thể giúp học sinh có nhiều cơ hội sử dụng ngôn ngữ, giúp học sinh sử dụng ngôn ngữ lưu loát hơn, học sinh tham gia vào hoạt động trong lớp, tăng cường việc học hỏi lẫn nhau giữa các học sinh, tạo thêm sự phong phú trong hoạt động dạy-học, động viên học sinh tự tin hơn, đặc biệt đối với học sinh nhút nhát và nâng cao tinh thần trách nhiệm của mỗi cá nhân học sinh [4], [7]. 2.3.3. Phương pháp phân cặp, nhóm trong những lớp có trình độ không đồng đều Các cặp hay nhóm học sinh có thể được phân chia theo các cách khác nhau như: cặp/nhóm có trình độ tương đồng, cặp/nhóm có trình độ khác nhau, cặp/nhóm do học sinh tự chọn hoặc giáo viên chỉ định [2], [11]. DẠY TIẾNG ANH Ở CÁC LỚP CÓ TRÌNH ĐỘ KHÔNG ĐỒNG ĐỀU 141 2.4. Quản lý lớp học ở những lớp có trình độ không đồng đều Để giảng dạy hiệu quả hơn, giáo viên của một lớp học Tiếng Anh có trình độ không đồng đều nên có các biện pháp cụ thể trong việc quản lý lớp và tổ chức giờ học. Cụ thể là, giáo viên có thể sử dụng các dạng hoạt động theo cặp và theo nhóm để học sinh tăng cường tính hợp tác trong học tập [5] và khuyến khích học sinh học hỏi lẫn nhau trong hoạt động cặp hay nhóm [12]. Hơn nữa, giáo viên cần sử dụng ngôn ngữ đơn giản, rõ ràng hoặc sử dụng ngôn ngữ không lời (non-verbal language) để giải thích yêu cầu của bài tập hay hoạt động và có thể yêu cầu học sinh khá giỏi giải thích lại bằng Tiếng Việt nếu cần thiết [2]. Ngoài ra, giáo viên có thể chọn lựa hay thiết kế các bài tập và hoạt động phù hợp với các trình độ của học sinh. Giáo viên có thể thiết kế các bài tập có yêu cầu mở (open-ending), hoạt động do giáo viên khởi xướng (teacher-initiated activities) [12] hay bài tập phân cấp (tier-texts hay bias texts) [3]. Hơn nữa, để khuyến khích tất cả học sinh tham gia tích cực trong giờ học, giáo viên có thể khéo léo áp dụng các thủ thuật như đặt câu hỏi trước khi gọi tên, dùng lời khen để động viên khích lệ học sinh, sửa lỗi nhẹ nhàng hoặc gián tiếp để tránh làm tổn thương học sinh yếu và khuyến khích tính tự học cho học sinh khá, giỏi [2], [12]. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu gồm 25 giáo viên đã dạy lớp 10 từ 2 đến 15 năm và 224 học sinh của 5 lớp thuộc 05 trường THPT ở Huế; Hai Bà Trưng, Nguyễn Huệ, Gia Hội, Phan Đăng Lưu và Hương Thuỷ. Nghiên cứu được tiến hành bằng phương pháp định tính và định lượng. Dữ liệu được thu thập thông qua phiếu điều tra và dự giờ. Phiếu điều tra gồm 15 câu hỏi tìm hiểu về các khó khăn và các biện pháp khắc phục khi giáo viên dạy Tiếng Anh ở các lớp có trình độ chênh lệch. Kết quả học kì 1 của môn học Tiếng Anh được xem xét để chọn ra các lớp có trình độ không đồng đều đưa vào nghiên cứu thông qua hình thức dự giờ. Phiếu dự giờ được sử dụng nhằm khẳng định thêm các khó khăn và biện pháp giáo viên sử dụng để giải quyết các khó khăn trong việc thiết kế giáo án, tổ chức, quản lý các hoạt động và đánh giá học sinh. Kết quả thu được từ phiếu điều tra được chuyển sang tỉ lệ phần trăm để phân tích và đưa ra những kết luận cần thiết. 4. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Bảng câu hỏi điều tra và dự giờ lớp học đã giúp chúng tôi thu thập được kết quả về khó khăn giáo viên gặp phải khi dạy tiếng Anh cho lớp 10 có trình độ không đồng đều và biện pháp đã được giáo viên sử dụng để khắc phục những khó khăn ấy. 4.1. Khó khăn chính Kết quả nghiên cứu cho thấy 56% trong tổng số giáo viên được điều tra cho rằng dạy tiếng Anh cho những lớp 10 có trình độ không đồng đều thực sự là một thử thách. Đây là một con số đáng quan tâm. PHAN QUỲNH NHƯ - TỐNG THỊ THÙY TRANG 142 Bảng 1. Những khó khăn khi dạy những lớp 10 có trình độ không đồng đều Khó khăn Số lượng (N= 25) Tỉ lệ (%) Lớp đông 9 36 Lớp với số lượng lớn học sinh yếu 17 68 Thiết kế giáo án 16 64 Việc triển khai hoạt động dạy-học 11 44 Quản lý lớp 5 20 Đánh giá trên lớp 4 16 Dạy các kỹ năng 12 48 Dạy các yếu tố ngôn ngữ 2 8 Kết quả thu được cho thấy khi dạy Tiếng Anh ở các lớp 10 có trình độ không đồng đều, hầu hết giáo viên gặp một số khó khăn lớn. Thách thức lớn nhất mà giáo viên phải đối mặt là số lượng học sinh yếu trong lớp quá đông (68%). Điều này đã làm cản trở hiệu quả của hoạt động dạy và học. Khó khăn thứ hai là việc thiết kế giáo án (64%), giáo viên cần chọn hoạt động, tài liệu và phương pháp để có thể đáp ứng được hầu hết đối tượng học sinh. Ngoài ra, 48% giáo viên cho rằng việc dạy 4 kỹ năng ngôn ngữ dạy những lớp 10 này thực sự là một khó khăn và 44% gặp khó khăn khi triển khai hoạt động dạy-học. 4.2. Khó khăn cụ thể 4.2.1. Khó khăn khi thiết kế giáo án Bảng 2. Những khó khăn khi thiết kế giáo án Khó khăn Số lượng (N= 25) Tỉ lệ (%) Thiết kế các hoạt động khác nhau cho mỗi trình độ 15 60 Lựa chọn kỹ thuật dạy thích hợp cho mỗi hoạt động 13 52 Soạn bài tập bổ trợ cho học sinh có trình độ cao 4 16 Đơn giản hóa lời hướng dẫn cho học sinh yếu 9 36 Đơn giản hóa bài tập cho học sinh yếu 9 36 Thiết kế đồ dùng học tập cho tất cả trình độ 8 32 Tốn nhiều thời gian 10 40 Cụ thể, khi soạn giáo án giáo viên Tiếng Anh gặp khó khăn nhiều nhất trong việc thiết kế hoạt động dạy-học phù hợp với trình độ khác nhau trong lớp (60%), trong việc lựa chọn kỹ thuật dạy cho mỗi hoạt động (52%) và vì vậy tốn rất nhiều thời gian (40%). Việc đơn giản hóa bài tập và hướng dẫn học sinh yếu làm bài hay soạn thêm bài tập cho học sinh giỏi cũng là những thách thức mà giáo viên thường gặp phải khi thiết kế giáo án. 4.2.2. Khó khăn trong dạy 4 kỹ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) Bảng 3. Khó khăn trong dạy các kỹ năng Mức độ khó khăn - Tỉ lệ (%) (1- khó khăn nhất, 4 - ít khó nhất) Kỹ năng 1 2 3 4 Nghe 36 44 20 0 Nói 36 24 32 8 Đọc 0 0 12 88 Viết 28 32 36 4 DẠY TIẾNG ANH Ở CÁC LỚP CÓ TRÌNH ĐỘ KHÔNG ĐỒNG ĐỀU 143 Trong bốn kỹ năng ngôn ngữ, giáo viên gặp nhiều khó khăn nhất khi dạy kỹ năng Nghe và Nói (80% và 70%) cho học sinh ở trình độ khác nhau. Dạy kỹ năng Viết và Đọc được xem là ít gặp khó khăn hơn. Giáo viên gặp khó khăn khi dạy các kỹ năng trên là do nhiều nguyên nhân khác nhau. Chúng tôi nhận thấy những nguyên nhân chính là trình độ học sinh chênh lệch quá lớn (68%), vốn từ của học sinh còn hạn chế (80%), kiến thức ngữ pháp của học sinh còn hạn chế (56%) và thời lượng dành cho mỗi kỹ năng không đủ (44%). 4.2.3. Khó khăn trong triển khai hoạt động Bảng 4. Khó khăn trong triển khai hoạt động dạy Khó khăn Số lượng (N= 25) Tỉ lệ (%) Tạo ra môi trường giao tiếp thực sự cho học sinh 5 20 Tốn thời gian để hướng dẫn và làm mẫu 11 44 Sự chênh lệch giữa bài tập và nhu cầu của học sinh 9 36 Sự khống chế của học sinh giỏi 13 52 Sự thụ động của học sinh yếu 14 56 Sự nản lòng của học sinh yếu 6 24 Cảm giác nhàm chán của học sinh giỏi 2 8 Học sinh yếu không theo kịp 3 12 Khi triển khai hoạt động, đa số giáo viên đều nhận thấy học sinh kém hơn quá thờ ơ và thụ động (56%) trong khi học sinh khá giỏi tham gia tích cực và kiểm soát hết mọi hoạt động (52%). Đây là một hiện tượng khá phổ biến trong các lớp có trình độ không đồng đều và được quan sát thấy rõ trong tất cả các lớp được dự giờ tại các trường phổ thông. Học sinh giỏi điều khiển toàn bộ hoạt động cặp, nhóm, và toàn lớp. Học sinh yếu rất ít tham gia, chỉ khi nào được giáo viên yêu cầu. Ngoài ra, giáo viên còn gặp khó khăn vì mất nhiều thời gian hướng dẫn và làm mẫu cho học sinh (44%). 4.2.4. Khó khăn trong quản lý lớp học Bảng 5. Khó khăn trong quản lý lớp Khó khăn Số lượng (N= 25) Tỉ lệ (%) Sắp xếp học sinh vào cặp / nhóm 16 64 Hạn chế học sinh sử dụng Tiếng Việt trong hoạt động cặp/nhóm 11 44 Duy trì các nội qui trong lớp 5 20 Theo dõi hoạt động của cá nhân học sinh 12 48 Khuyến khích toàn thể học sinh tham gia tích cực 15 60 Phân bố thời gian hợp lý 8 32 Trong việc quản lý lớp học, giáo viên Tiếng Anh gặp phải khó khăn nhiều nhất trong việc sắp xếp học sinh có trình độ khác nhau vào trong các cặp và nhóm (64%), khuyến khích tất cả học sinh tham gia tích cực vào các hoạt động trong giờ học (60%), theo dõi từng cá nhân học sinh (48%) và hạn chế sử dụng Tiếng Việt khi học sinh làm việc trong cặp và nhóm (44%) để nâng cao khả năng giao tiếp của học sinh. Qua quan sát các lớp học, chúng tôi nhận thấy kết quả tương tự như kết quả từ phiếu điều tra. Giáo viên PHAN QUỲNH NHƯ - TỐNG THỊ THÙY TRANG 144 thường lúng túng trong việc phân chia học sinh giỏi, khá vào các nhóm vì lớp học đông và bàn ghế không dịch chuyển được. Vì vậy, phần lớn giáo viên đã để học sinh ngồi cùng bàn hoặc hai bàn gần nhau cùng làm việc với nhau thay vì xem xét trình độ của học sinh trong cặp hay nhóm. Ngoài ra, trong các lớp học được quan sát, phần lớn học sinh khá giỏi tham gia tích cực và học sinh yếu rất thụ động. Lớp học đông nên mặc dù đã được yêu cầu nhưng Tiếng Việt vẫn được sử dụng nhiều trong hoạt động cặp hay nhóm. 4.3. Những giải pháp Trước rất nhiều khó khăn khi dạy Tiếng Anh ở những lớp có trình độ không đồng đều, giáo viên đã sử dụng những biện pháp khác nhau để nâng cao hiệu quả của việc dạy-học Tiếng Anh. Để khắc phục khó khăn khi dạy 4 kỹ năng, giáo viên thường tập trung dạy một số kỹ năng như Viết (64%), Đọc (56%) và Nói (52%) nhiều hơn Nghe (28%). Hơn nữa, để giúp việc dạy-học các kỹ năng hiệu quả hơn, giáo viên chú trọng tăng cường vốn từ vựng (52%) và ngữ pháp (88%) hơn là phát âm (44%) cho học sinh. Quả thật các biện pháp này chưa phải là giải pháp tối ưu. Để có thể giúp nâng cao kiến thức và kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh cho học sinh, giáo viên cần dạy phối hợp các kỹ năng Nghe, Nói, Đọc và Viết và đặc biệt nên chú trọng hơn đến việc luyện âm cho học sinh. Để triển khai hoạt động dạy-học trên lớp hiệu quả hơn, khi tổ chức hoạt động, bài tập cho học sinh, giáo viên thường phân bài tập dễ cho học sinh yếu hơn và bài tập khó hơn cho học sinh giỏi hơn (56%). Tuy nhiên, nhiều giáo viên chỉ sử dụng một loại bài tập cho tất cả học sinh (52%). Hơn nữa, để việc dạy và học hiệu quả hơn giáo viên thường tổ chức cho học sinh làm việc theo cặp (80%) và nhóm (68%) để tăng tính hợp tác và học hỏi lẫn nhau giữa học sinh. Ngoài ra, giáo viên dùng nhiều cách khác nhau để giúp học sinh hiểu yêu cầu của hoạt động và bài tập (68%), thiết kế thêm giáo cụ trực quan (88%) và đa dạng hóa bài tập (20%) nhằm giúp các học sinh kém hứng thú hơn trong giờ học và nhờ vậy có thể học tốt hơn. Đặc biệt, giáo viên đã áp dụng nhiều biện pháp để khuyến khích và động viên học sinh kém hơn như khen ngợi khi các em có tiến bộ dù là rất nhỏ (72%), cho điểm cộng hay điểm thưởng (một hình thức mà giáo viên THPT hay áp dụng) khi các em đưa ra câu trả lời đúng hoặc góp ý xây dựng bài (56%) và quan tâm đến các học sinh kém nhiều hơn bằng cách giúp đỡ hay giảng bài kỹ hơn (56%). 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Kết quả nghiên cứu cho thấy việc dạy tiếng Anh ở những lớp 10 có trình độ không đồng đều gây nhiều khó khăn cho hầu hết giáo viên trường phổ thông trung học ở Huế. Các khó khăn ấy cụ thể như sau: • Giáo viên tốn nhiều thời gian để soạn giáo án vì phải thiết kế nhiều loại hoạt động và bài tập dễ và khó, đồng thời phải lựa chọn kỹ thuật dạy thích hợp cho mỗi hoạt động và phương pháp phù hợp với các đối tượng học sinh. DẠY TIẾNG ANH Ở CÁC LỚP CÓ TRÌNH ĐỘ KHÔNG ĐỒNG ĐỀU 145 • Khi dạy các kỹ năng ngôn ngữ giáo viên gặp khó khăn trong việc dạy kỹ năng Nghe và Nói nhiều hơn dạy kỹ năng Viết và Đọc. • Khi triển khai hoạt động và bài tập, giáo viên khó thay đổi tình trạng quá thụ động và thờ ơ của học sinh kém và việc lấn áp của học sinh khá giỏi, cũng như khuynh hướng sử dụng Tiếng Việt nhiều trong các hoạt động cặp hay nhóm. Giáo viên Tiếng Anh ở các trường trung học phổ thông đã thực hiện một số biện pháp nhằm khắc phục các khó khăn nói trên. Nhiều giáo viên chọn dạy kỹ năng Viết, Đọc và Nói nhiều hơn Nghe và tăng cường vốn từ và ngữ pháp cho học sinh. Mặc dù, tốn nhiều thời gian, một số giáo viên đã chọn cách thiết kế các bài tập và hoạt động dễ và khó để giúp học sinh có trình độ khác nhau học tốt. Đặc biệt, khá nhiều giáo viên đã biết cách tạo hứng thú cho các học sinh khác nhau. Để khắc phục những khó khăn trên và nhằm nâng cao hiệu quả việc dạy-học Tiếng Anh, chúng tôi đề xuất những biện pháp sau. Giáo viên Tiếng Anh ở các trường trung học phổ thông: ! Cần tìm hiểu trình độ, nhu cầu và sở thích của mỗi học sinh ngay từ đầu năm học. ! Đa dạng hóa phương pháp và kỹ thuật dạy-học Tiếng Anh. Cụ thể: o Chọn phương pháp tối ưu để giảng bài và hướng dẫn cách thực hiện các hoạt động hay bài tập. Cụ thể, giáo viên nên sử dụng ngôn ngữ đơn giản, phi ngôn ngữ, hay giáo cụ trực quan. o Chọn chủ đề đa dạng để tạo hứng thú và phù hợp trình độ của học sinh. o Thiết kế các hoạt động, bài tập cho các trình độ khác nhau như hoạt động mở (open-ending), có phân cấp (tiered-text / bias text), bài tập bắt buộc và tự chọn. o Khuyến khích nhiều học sinh tham gia và đóng góp ý kiến. ! Giáo viên cần thường xuyên tổ chức các hoạt động cặp - nhóm một cách thích hợp để học sinh có thể giúp nhau học tập. ! Nên xây dựng các qui định trong lớp học, đặc biệt trong các hoạt động cặp - nhóm nhằm khuyến khích học sinh kém tham gia nhiều hơn và hạn chế tính áp đảo của học sinh khá giỏi. ! Nâng cao ý thức học tập, tính tự chủ và trách nhiệm của học sinh, đặc biệt các học sinh yếu. ! Dạy đều và kết hợp các kỹ năng Nghe, Nói, Đọc, Viết. PHAN QUỲNH NHƯ - TỐNG THỊ THÙY TRANG 146 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Baurain, B. (2005). Small group multitasking in literature classes. ELT Journal, 61(3), 237-245. [2] Bell, J. (1991). Teaching multilevel classes in ESL. Carlsbad: Dominie Press. [3] Bowler, B. and Parminter, S. (2000). Mixed-level tasks. English Teaching Professional, 15, 13-15. [4] Brown, H. D. (2001) Teaching by principles. An interactive approach to language pedagogy. New York: Longman. [5] Copur, D. S. (2005). Coping with the problems of mixed ability classes. The Internet TESL Journal, 11(8). Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2007 từ ability.html [6] Dellicarpini, M. (2006). Scaffolding and differentiating instruction in mixed ability ESL classes using round robin. The Internet TESL Journal, 12(3). Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2007 từ [7] Doff, A. (1999). Teach English. Cambridge: Cambridge University Press. [8] Harmer, J. (2000). How to teach English. Harlow: Pearson Education Limited. [9] Pham Phu Quynh Na (2007). Some strategies for teaching English to multi-level adult ESL learners: A challenging experience in Australia. Asian EFL Journal, 9(4). Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2007 từ [10] Prodromou, L. (1992). Mixed ability classes. London: Macmillan. [11] Shank, C.C & Terrill, L. R. (1995). Teaching multilevel adult ESL classes. CAELA ESL Resources. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2007 từ: [12] Ur, P. (1996). A course in language teaching. Cambridge: Cambridge University Press. Title: TEACHING ENGLISH TO MULTI-LEVEL CLASSES: CHALLENGES AND SOLUTIONS Abstract: This research is to investigate the difficulties of teaching English to multi-level 10th grade classes in Hue. The result showed that most of the teachers had difficulties in teaching English in those classes. They experienced challenges in coping with a large number of weaker students, teaching the language skills of listening and speaking, designing appropriate tasks and activities that could be effective for different levels, and conducting the activities and tasks for the students of varied levels. Some solutions were suggested to facilitate the teaching and learning at the multilevel classes of English. ThS. PHAN QUỲNH NHƯ Khoa Tiếng Anh, Trường Đại học Ngoại Ngữ - Đại học Huế. TỐNG THỊ THÙY TRANG Trường THCS & THPT Huỳnh Văn Nghệ, Bà Rịa - Vũng Tàu.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf19_303_phanquynhnhu_tongthithuytrang_22_phan_quynh_nhu_719_2021150.pdf
Tài liệu liên quan