Đất thổ cư và tính chất cư trú theo quan hệ họ hàng thân tộc ở nông thôn đồng bằng sông Hồng (Qua tư liệu làng Đào Xá, An Bình, Nam Thanh, Hải Hưng)

Trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, nhiều dự án kinh tế - xã hội đã, đang và sẽ còn được triển khai thực hiện, trong đó không tránh khỏi việc di chuyển nhiều cộng đồng cư dân ra khỏi nơi chôn rau cắt rốn và thiết lập lên những khu vực cư trú mới. Trong bối cảnh ấy, thiết tưởng nên có sự cân nhắc trong quá trình chuyển cư, cũng như quá trình hội nhập xã hội của hộ, sao cho vừa đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế, vừa phù hợp với những đặc điểm trong đời sống văn hóa – xã hội đã trở thành truyền thống trong đó có vấn đề cư trú, sẽ là điều tốt nhất.

pdf11 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 283 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đất thổ cư và tính chất cư trú theo quan hệ họ hàng thân tộc ở nông thôn đồng bằng sông Hồng (Qua tư liệu làng Đào Xá, An Bình, Nam Thanh, Hải Hưng), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Diễn đàn.... Xã hội học, số 1 - 1997 Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn 32 Đất thổ cư và tính chất cư trú theo quan hệ họ hàng thân tộc ở nông thôn đồng bằng sông Hồng (Qua tư liệu làng Đào Xá, An Bình, Nam Thanh, Hải Hưng) MAI VĂN HAI FONTENELLE JEAN-PHILIPPE( )1 Trong lịch sử hàng nghìn năm của người Việt trên vùng đồng bằng Bắc Bộ, vấn đề họ hàng thân tộc có một vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng. Là một thiết chế xã hội phi quan phương nhưng khá phổ biến trong các làng xã, nhóm họ hàng thân tộc – và kéo theo đó là các mối quan hệ xã hội nhiều tầng bậc của nó in dấu ấn khá đạm lên nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội, kể cả về mặt vật chất lẫn tinh thần. Một trong những biểu hiện của mối quan hệ đó là vấn đề cư trú. Dựa vào những kết quả điều tra xã hội học ở làng Đào Xá, xã An Bình, huyện Nam Thanh, tỉnh Hải Hưng nay là huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương trong khoảng thời gian từ 1993 đến 1995 chúng tôi mong muốn làm sáng tỏ thêm vấn đề nêu trên. I. Từ lịch sử khai phá đất thổ cư.... Đào Xá là một làng nhỏ, cách thị xã Hải Dương 15km cách Hà Nội khoảng 65km, cùng về phía Đông Bắc. Trong một phạm vi hẹp, Đào Xá là một địa bàn phía Bắc giáp với ông Kinh Thày, phía Đông là làng Chi Điền thuộc xã Cộng Hòa, phía Nam là làng Xác Khê thuộc xã Phú Điền và phía Tây là làng Đa Đinh, cùng xã. Trên bản đồ, vị trí này nằm ở Đông Bắc huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Là đội sản xuất số 1 của hợp tác xã nông nghiệp An Bình, Đào Xá có 98 mẫu (Bắc Bộ), tức 35,28ha ruộng đất canh tác. Cư dân ở đây sống chủ yếu bằng nông nghiệp, với hai vụ lúa và một vụ màu. Cây trồng chính là lúa, hành tỏi, rau đậu, gần đây có trồng thêm dưa chuột để chế biến xuất khẩu. Cho tới nay, vẫn chưa đủ tư liệu để biết được chính xác niên đại lập làng. Chỉ biết là gia phả họ Trần Hữu – một dòng họ được coi là đến làng sớm nhất, ghi lại được 14 đời. Nếu tính mỗi thế hệ cách nhau trung bình 25 năm, thì tổ tiên của dòng họ này đến đây khoảng 350 năm về trước (giữa thế kỷ XVI). Dẫu sao, với những dẫn liệu đó, cũng có thể xếp Đào Xá vào loại làng khá cổ của vùng đồng bằng sông Hồng. ( )1 Kỹ sư nông nghiệp, nghiên cứu viên của chương trình đồng bằng sông Hồng (Le Programe du Fleuve Rouge) Mai Văn Hai & Fontenelle Jean - Philippe Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn 33 Là một làng cổ, cố nhiên Đào Xá mang những nét phổ biến của làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ. Song không phải vì vậy mà làng không có những nét riêng. Xét về địa vực, Đào Xá gồm 2 xóm: Làng và Trại. Đúng như tên gọi đã có: làng là khu cư trú cũ của các dư dân, còn trai là khu mới được mở rộng thêm của làng. Ranh giới giữa xóm Làng và xóm Trại là dãy ao kế tiếp nhau, chia làng thành 2 nửa. Bắt đầu từ khoảng giữa ranh giới Bắc, dãy ao này xuyên thẳng xuống phía Nam, rồi rẽ theo hướng Tây, ôm sát ranh giới phía Nam của xóm Làng, sau đó ngược lên phía Tây Bắc để nhập vào con kênh ở cuối làng Đa Đinh. Chúng tôi cho rằng xưa kia dãy ao này chính là một đoạn kênh nói với kênh Đa Đinh ra sông Kinh Thày dẫn nước vào làng. Song, do quá trình cải tạo khu cư trú, đoạn kênh này đã bị san lấp dần để thành dãy ao bây giờ. Bằng trực quan cũng thấy được phần đất của xóm Làng cao hơn xóm Trại. Cho nên không lạ gì xóm Làng là nơi sinh tụ chủ yếu của các họ Trần Hữu, Trần Huy, Trương Phúc là những dòng họ đến làng đầu tiên. Các dòng họ khác như Nguyễn Đình, Nguyễn Chí, Đàm Đình, vì đến muộn hơn, khi phần đất thuộc xóm Làng đã đông đúc, nên đã định cư ở khu mới, lập ra xóm Trại. Sự phân biệt giữa Làng và Trại còn bởi hai giếng đất: giếng Làng và giếng Trại. Người xóm Làng ăn nước giếng Làng, người xóm Trại ăn nước giếng Trại. Mặc dầu đến nay hầu như mỗi hộ gia đình đều đã có giếng, nhưng dấu vết của 2 giếng đất vẫn chưa bị xóa hết. Theo điều tra hồi cổ, trước đây đại đa số các hộ gia đình thuộc họ Trần Hữu, Trần Huy, Trương Phúc ăn nước giếng Làng. Các hộ thuộc họ Nguyễn Đình, Nguyễn Chí, Đàm Đình và các họ đến sau ăn nước giếng Trại. Bên cạnh Làng và Trại, Đào Xá hiện còn có 3 Khu Mới: 1 khu ở phía Tây xóm Làng và 2 khu ở phía Đông và Nam xóm Trại. Trong số đó, hai khu phía Đông và Nam được hình thành từ năm 1965; còn khu phía Tây mới được lập khoảng mười năm trở lại đây. Đây là những khu dân cư mới ra đời, được hợp tác xã cấp đất canh tác ven làng làm nơi cư trú. Vậy là, trong quá trình lập làng, khu cư trú của Đào Xá được mởi rộng không dưới một lần. Lấy năm 1805, năm ban hành địa bạ Gia Long 4 làm mốc, thì đất thổ cư của Đào Xá (bao gồm cả đất ở, vườn và ao) có 13 mẫu 8 sào 10 thước 7 tấc (khoảng 5ha). Đến nay, con số này là 19 mẫu 8 sào 1 thước (7,13 ha), nghĩa là tăng lên khoảng 0,4 lần. Vẫn về cấu tạo địa vực, Đào Xá còn có một đường làng nối liền với đường làng của Đa Đinh, rồi xuyên qua An Đông, An Đoài (khu trung tâm của xã), sau đó nhập vào đường quốc lộ từ Hải Dương đi Quảng Ninh ở địa phận xã Quốc Tuấn. Đây là đường giao thông chính của làng, được san đắp lên từ ngày hợp tác xã tiến hành làm thủy lợi, cải tạo đồng ruộng (1963). Sự kết hợp giữa đường làng và dãy ao như đã trình bày, cắt làng thành 2 nửa Đông – Tây, thì con đường này lại chia làng thành ra 2 phần Nam – Bắc. Đất thổ cư và tính chất cư trú ...... Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn 34 Nhưng chưa hết. Nối với đường làng còn có các ngõ xóm. Nhìn trên bản đồ, đường làng và các ngõ xóm, rất tự nhiên, chia làng thành những cụm dân cư khá đều đặn và vuông vắn. Mỗi cụm lại có vị trí riêng: Có cụm thuộc xóm Làng, có cụm nữa Làng nửa Trại, có cụm thuộc xóm Trại, lại có cụm hoàn toàn là khu Mới. Trong các cụm dân cư đó, cố nhiên không tránh khỏi đã từng có sự biến động về mặt cư trú (như có nhà chuyển từ khu nọ sang khu kia, hay chuyển hẳn đi làm ăn ở một vùng kinh tế mới), song con số này không đáng kể. Cho nên, mặc dầu được hình thành ở những thời điểm khác nhau, thậm chí có thể cách nhau vài ba thế kỷ (như khu xóm Làng và Khu mới), song giữa các khu vẫn có cùng đặc điểm: đó là cung cách cư trú tự nhiên theo điều kiện cụ thể của mỗi gia đình, chứ không tuân theo một quy cách mang tính tổng thể nào, kể cả ở các Khu Mới được hợp tác xã cấp đất. II.......đến quá trình sinh tụ giữa các dòng họ.... Mặc dầu danh xưng là Đào Xá, xong Đào Xá hiện nay không phải là làng lấy tên dòng họ (như các làng Lê Xá, Phạm Xá, Nguyễn Xá, Trần Xá, Đỗ Xá, Lưu Xá....ở nhiều tỉnh phía Bắc Việt Nam). Có thể, thủa ban đầu, dòng họ Đào đã có công khai phá và tạo lập nên làng này chăng? Điều ấy, chưa có ai khẳng định. Nhưng về mặt huyết thống, đến thời điểm tháng 6/1994, Đào Xá có 21 dòng họ sinh sống. Trong số này, họ Đàm Đình chiếm số lượng đông đào nhất, với 46 hộ( )2 (23,6%). Tiếp đến, là các họ Nguyễn Chí 41 hộ (21,1%); Nguyễn Đình 20 hộ (10,16%); Lê Văn 16 hộ (8,2%); Trần Hữu 16 hộ (8,2%); Trần Huy 15 hộ (7,7%). Các dòng họ còn lại rất nhỏ, chỉ dăm bẩy hộ đổ lại. Có dòng họ chỉ có một hộ duy nhất, hoặc chỉ còn vài ba phụ nữ đã ngoài 60 tuổi (họ Tân). Trở lại lịch sử lập làng, như đã biết, Trần Hữu là dòng họ đến khai phá sớm nhất. Theo gia phả, dòng họ này có ông Trần Hữu Khuông từng làm tướng ở triều Lê, khi nghỉ hưu đã về Đào Xá lập cư và mở đầu cho dòng họ Trần Hữu ở đây. Kế đó là hai họ Trần Huy và Trương Phúc. Trước cải cách ruộng đất (1955) đây là các dòng họ có thể lực nhất trong làng, cả về chính trị và kinh tế. Những người có nhà cao vườn rộng, lắm ruộng nhiều trâu, hay nắm giữ các chức vụ quan trọng trong bộ máy quản lý làng xã khi ấy đều thuộc các họ này. Sau cải cách ruộng đất, nhiều hộ gia đình thuộc hai dòng họ Trần Hữu và Trương Phúc đã rời làng đi lập nghiệp ở nơi khác, nên hiện nay Trần Huy và Trương Phúc chỉ còn là hai dòng họ vào loại nhỏ. Đến sau hai họ Trần Huy và Trương Phúc là các họ Nguyễn Đình và Đàm Đình, Nguyễn Chí. Tuy có sự phát triển khá nhanh về số lượng, song trước đây đa phần các hộ gia đình của các dòng họ này là hộ nghèo, ít ruộng đất. Nguồn sống chủ yếu của họ là đi làm thuế ( ) 2 Khái niệm “hộ” ở đây dùng để chỉ tất cả các loại hình gia đình (gia đình hạt nhân, gia đình mở rộng, gia đình độc thân, gia đình lắp ghép...) miễn đó là những đơn vị kinh tế độc lập, có tài sản và sở hữu riêng. Còn các hộ thuộc một dòng họ là các hộ có cùng một ông tổ, hiện đang đóng góp và sinh hoạt thờ cúng với dòng họ, kể cả những phụ nữ không chồng hoặc có chồng nhưng đã ly dị, nay lập thành hộ riêng và sinh hoạt tại dòng họ gốc của mình Mai Văn Hai & Fontenelle Jean - Philippe Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn 35 cấy rẽ. Trong cải cách ruộng đất, họ được chia ruộng, rồi sau đó trở thành các xã viên hợp tác xã, sống bình đẳng với các dòng họ trong làng. Cũng như nhiều làng xã ở đồng bằng Bắc Bộ, sự phát triển dòng họ ở Đào Xá không đều. Có dòng họ xưa kia khá đông đúc và có thế lực, song qua thời gian, do nhiều nguyên nhân, cứ bị nhỏ dần, teo lại. Ngược lại cũng có dòng họ trước đây không lớn, nhưng sau đó lại chiếm ưu thế về mọi mặt. Qua địa bạ Gia Long 4 (1805) có thể thấy tới đầu thế kỷ XIX, tại Đào Xá còn có họ Trần Đinh và Bùi Đình sinh sống. Thế nhưng, đến nay ở làng không còn ai mang họ Trần Đình hay Bùi Đình. Có thể là họ đã di cư đi nơi khác sinh sống chăng? Hay họ cứ bị hủy hoại dẫn đến không còn ai nữa? Trong khi đó, lại có những dòng họ mới từ An Đông và Đa Đinh (cùng xã) chuyển sang như các họ Đỗ Thế, Vũ Văn, hay có những dòng họ từ xa hơn tới hội nhập vào Đào Xá sau ngày hòa bình lập lại (1954) như các họ Nguyễn Văn, Nguyễn Duy.... Nhưng nói đến dòng họ, thiết tưởng cũng cân nhắc đến một khái niệm nữa: đó là họ hàng( )3 . Nếu dòng họ hình thành từ cơ sở huyết thống, thì họ hàng, một khái niệm được mở rộng hơn, lại được tạo nên nhờ quan hệ hôn nhân. Các quan hệ này nếu từ 2 – 3 đời trở lên sẽ tạo thành một mạng lưới các quan hệ xã hội chằng chịt và khá phức tạp, đúng như một bài đồng dao mà trẻ em thường hát: Sáo sậu là cậu sáo đen Sáo đen là em tu hú Tu hú là chú sẻ đồng Sẻ đồng là ông bồ các Bồ các là bác chim ri Chi ri là dì sáo sậu Sáo sậu là cậu sáo đen..... Ở Đào Xá, mối quan hệ họ hàng dày đặc đến mức, như bà con ở đây thường nói là “phi nội tắc ngoại” nghĩa là mọi người trong làng nếu không có họ với nhau về bên nội thì cũng có họ về bên ngoại. Mối quan hệ “dây mơ dễ má” đó làm cho nam nữ thanh niên thật khó tìm vợ kiếm chồng ở trong địa bàn cư trú, mà phải nghĩ đến một nơi nào đó ngoài ranh giới của làng. Nhìn chung, đã từ rất lâu nhóm họ hàng và dòng họ ở đây không còn đóng vai trò là một đơn vị kinh tế hay tổ chức sản xuất nữa. Tuy nhiên, các hộ gia đình có quan hệ họ hàng ( )3 Chúng tôi dùng khái niệm họ hàng (tương đương với tiếng Phát là La parenté), bao gồm cả quan hệ huyết thống (bên nội) và quan hệ hôn nhân tạo ra (bên ngoại, dâu, rể...) để phân biệt với khái niệm dòng họ (La lignage) chỉ những người có cùng huyết thống, cùng thờ chung một ông tổ. Chẳng hạn, nếu lấy một nam chủ hộ nào đó là EGO thì quan hệ họ hàng của EGO không chỉ dừng lại ở dòng họ của người bố mà còn mở rộng ra phía họ của người bà, người mẹ, vợ anh ta, cũng như mở ra phía dòng họ của những người có quan hệ rể với dòng họ EGO do những người lấy chị gái, em gái của bố; em gái, chị gái của EGO tạo thành. Đất thổ cư và tính chất cư trú ...... Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn 36 hoặc dòng họ với nhau vẫn có mối liên hệ khá bền chặt, được thể hiện trên nhiều bình diện, kể cả trên bình diện kinh tế. Theo hương ước (cải lương) của Đào Xá, được viết vào năm 1942 thì trong thời gian nay, bên cạnh các loại ruộng công của làng như Công điền, Thần từ, Phật tự, Hậu điền, các loại ruộng công của các dòng họ, phe giáp trong làng cũng có đến 15 mẫu. Ngay trước phong trào xây dựng hợp tác xã sản xuất nông nghiệp (ở Đào Xá là cuối 1958), chỉ tính riêng số ruộng công của ba dòng họ Trần Hữu, Đàm Đình và Nguyễn Chí vẫn còn gần 2 mẫu. Gần đây, trong bối cảnh của công cuộc đổi mới, sự liên kết trong nhóm họ hàng và dòng họ dường như càng được củng cố sau mấy chục năm có phần sa sút kể từ khi xây dựng hợp tác xã, nghĩa là khi hộ gia đình nông dân không giữ vai trò là đơn vị kinh tế tự chủ nữa. Theo điều tra của chúng tôi, hiện nay ở Đào Xá ít nhất cũng có 3 hình thức liên kết: 1) Sự liên kết với nhau trong việc nuôi chung trâu; 2) Liên kết trong việc bốc chung phiếu để phân chia và sử dụng ruộng đất và 3) Liên kết trong việc sử dụng nguồn nước tưới tiêu. Đáng lưu ý là, trong các hoạt động kinh tế - xã hội, các quan hệ họ hàng do hôn nhân tạo thành – nhu con cô con cậu hay con dì con già, đôi khi lại tạo ra lực hấp dẫn với nhau mạnh hơn so với các quan hệ huyết thống, nếu các quan hệ này đã cách từ 3 – 4 đời trở lên. Có lẽ đây chính là những dấu vết còn thấy được của chức năng cộng đồng kinh tế của nhóm họ hàng và dòng họ từ thủa xa xưa. Tương tự như vậy, quan hệ họ hàng và dòng họ còn được biểu hiện trong các vấn đề pháp lý, quản lý, quyền lực và nhất là trong đời sống văn hóa, tín ngưỡng. Ở Đào Xá hiện nay giống như nhiều nơi khác trên vùng đồng bằng sông Hồng, cũng đang có phong trào xây dựng lại từ đường, mộ tổ, lập lại phả hệ, khôi phục ngày giỗ tổ và các quan hệ họ hàng mà một thời tưởng đã bị chìm lấp sau các quan hệ xã hội khác. Những biểu hiện trên đây chứng tỏ các quan hệ xã hội trong nhóm họ hàng và dòng họ, cho đến nay vẫn có vai trò nhất định trong đời sống nơi làng xã. Cố nhiên quan hệ họ hàng và dòng họ ở đây không phải là không có những mặt tiêu cực, đôi khi bộc lộ ra thành những mâu thuẫn hay xung đột xã hội, bao gồm cả mâu thuẫn giữa các dòng họ hay trong nội bộ một dòng họ. Về sự xung đột giữa các dòng họ, cho đến nay, các bô lão của các họ Trần Hữu và Trần Huy vẫn kể lại: Xưa kia hai dòng họ này từng mâu thuẫn với nhau hết sức căng thẳng. Vào một đêm, họ Trần Huy đã cho người rình đốt từ đường của dòng họ Trần Hữu. Sau vụ hỏa hoạn này hai họ kéo nhau tới cửa quan. Kết quả vụ kiện tụng là đa số các hộ gia đình của dòng họ Trần Huy buộc phải rời Đào Xá trử về bản quán và làng Trực Trì (thuộc xã Quốc Tuấn ngày nay). Những xung đột trong nội bộ một dòng họ cũng không hiếm. Lấy dẫn liệu từ các dòng họ Trần Hữu và Trương Phúc làm ví dụ. Ở họ Trần Hữu, có ông Trần Hữu Chức khá giàu, Mai Văn Hai & Fontenelle Jean - Philippe Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn 37 từng làm lý trưởng nhưng sinh toàn con gái trong đó có bà Trần Thị Điệp. Khi ông Chức mất đi, toàn bộ gia sản của ông, gồm đất thổ canh và thổ cư, đương nhiên thuộc quyền sở hữu của các con ông. Nhưng ông Trần Hữu Sức – anh ruột ông Chức, tức bác bà Điệp – vì không muốn số đất đai nói trên rơi vào tay các chàng rể, nên đã tìm mọi cách kể cả việc kiện tùng để giành vào tay mình, bất cần biết bà Điệp rồi sẽ sống ra sao. Ở họ Trương Phúc có ông Trương Phúc Cấu, năm 14 tuổi (1935) vì bố mẹ mất sớm nên phải đi ở cho chú ruột là Trương Phúc Vếnh. Qua 2 năm, ông Vếnh trả có ông Cấu 4 đồng bạc. Liền sau đó, ông Cấu chuyển đi ở cho một địa chủ khác ở An Điền, được trả công mỗi năm 24 đồng, tức là gấp 12 lần so với khi ở cho ông Vếnh. Cũng theo lời ông Cấu, trong khoảng thời gian này không hề có chuyện tiền nong bị trượt giá hay lạm phát gì. Rõ ràng là quan hệ giai cấp đã xen cả vào trong các quan hệ họ hàng và dòng họ. Ở đây, người ta cũng không nền hà gì khi cần phải phát canh thu tô, cho vay nặng lãi, tìm cách cướp đoạt hay trực tiếp bóc lột lẫn nhau. Tuy nhiên, những biểu hiện trên chỉ là hãn hữu. Phổ biến hơn vẫn là tinh thần “lá lành đùm lá rách”, “tối lửa tắt đèn có nhau” của những người có quan hệ họ hàng, dòng họ, hay rộng hơn là hàng xóm làng giềng trong làng xã. Chính tinh thần cộng đồng đó đã đảm bảo cho làng Đào Xá cổ xưa tồn tại và phát triển không chỉ về lãnh thổ, mà cả về con người. Theo điều tra hồi cố, trước cách mạng tháng Tám 1945, Đào Xá chỉ có khoảng 40 nóc nhà với hơn 200 nhân khẩu. Khi thành lập hợp tác xã nông nghiệp (1958), cả làng mới có 74 hộ, 302 nhân khẩu. Song đến thời điểm tháng 6/1994, chưa kể số người đi làm ăn nơi khác, làng đã có 194 hộ với 702 khẩu. Sự gia tăng dân số, cố nhiên, có ảnh hưởng không nhỏ đến phần đất cư trú vốn khá hạn hẹp trong làng. Nhưng “một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Nhìn chung, tất cả mọi người trong làng – từ cụ già đến em nhỏ, đều cảm thấy thiêng liêng và tôn trọng các mối uan hệ họ hàng, thân tộc, dù đó là quan hệ huyết thống hay quan hệ do hôn nhân tạo nên. III........và tính chất cư trú theo quan hệ họ hàng. Nhằm thực hiện mục tiêu nghiên cứu, dựa theo cấu tạo địa vực được hình thành một cách tự nhiên bởi đường làng và các ngõ xóm, chúng tôi đã chon 4 cụm dân cư để khảo sát. Đó là: - Cụm số I: thuộc địa vực của xóm Làng - Cụm số II: nửa Làng nửa Trại - Cụm số III: thuộc xóm Trại - Cụm số IV: thuộc Khu Mới. Bốn cụm dân cứ này nằm trên 4 khu vực, tiêu biểu cho lịch sử khai phá và quá trình sinh tụ của toàn thể cư dân Đào Xá: Cụm I thuộc khu vực được khai phá đầu tiên, bởi dòng họ Trần Hữu. Hiện nay nhiều hộ gia đình của họ Trần Hữu vẫn cư trú tại đây. Khác với cụm I, cụm II có kiến tạo khá đặc biệt, một nửa thuộc xóm Làng, một nửa thuộc xóm Trại. Nửa thuộc xóm Làng là địa bàn cư trú của họ Trần Huy – một dòng họ đến làng vào loại sớm chỉ Đất thổ cư và tính chất cư trú ...... Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn 38 sau họ Trần Hữu. Nửa thuộc xóm Trại chủ yếu là họ Nguyễn Chí. Có lẽ, khi họ Nguyễn Chí đến đây thì phần đất thuộc xóm Làng đã hết, nên họ phải sang khai phá và định cư ở xóm Trại. Tiếp đến là cụm III, nơi có cốt đất thấp hơn và do đó cũng được khai phá muộn hơn so với xóm Làng. Sinh sống khá tập trung ở đây là dòng họ Đàm Đình. Mặc dù hiện nay dòng họ Đàm Đình có số hộ và số khẩu đông nhất, song có lẽ tổ tiên của họ đến làng chỉ tương đương với niên đại của các họ Nguyễn Đình, Nguyễn Chí, sau đó các họ Trần Hữu và Trần Huy. Và cuối cùng là cụm IV, thuộc khu Mới ở phía Nam của xóm Trại. Trước năm 1965, khu vực này đang còn là đồng ruộng. Để giải quyết tình trạng thiếu đất trong làng, hợp tác xã đã cho chuyển đất khu đất canh tác này thành đất ở. Tụ cư chủ yếu ở khu này là dòng họ Lê Văn. Vốn từ nơi khác đến ngụ cư ở đây, trước 1945, Lê Văn là dòng họ có địa vị thấp nhất trong làng. Họ không có đất, phải ở nhờ trên đất họ Trần Hữu và đất công của làng. Khi hợp tác xã lập khu Mới, phần đông dòng họ này đã ra ở đây. Ngược trở lên trên là những đặc điểm của 4 khu đất thổ cư, đồng thời cũng là 4 cụm dân cư tiêu biểu cho 4 giai đoạn cư trú khác nhau được chọn để khảo sát. Ở mỗi cụm lại chọn một chủ hộ đại diện cho dòng họ cư trú (domiaut) chủ yếu trong cụm để làm trục đối chiếu: cụm I (ông Trần Hữu Tần); cụm II (ông Trần Huy Dong); cụm III (ông Đàm Đình Phong); và cụm IV (ông Lê Văn Nhỡ). Lấy tất cả số chủ hộ trong mỗi cụm đối chiếu với người đại diện, ta sẽ thu được các loại quan hệ xã hội khác nhau. Sau đây là kết quả khảo sát cụ thể: a) Cụm I (ông Trần Hữu Tần) có 13 hộ, trong đó 5 hộ (chiếm 33,4%) là hàng xóm láng giềng, 8 hộ (66,6%) có quan hệ họ hàng với ông Tần. Trong số 8 hộ có quan hệ họ hàng, thì những người có quan hệ do hôn nhân tạo thành (con cô, cháu cô) có 3 hộ (37,5%); 5 hộ (62,5%) có quan hệ huyết thống (cùng họ) với ông Tần. Số có quan hệ huyết thống lại bao gồm cả quan hệ cha – con 2 hộ (50% và quan hệ anh em từ 2 đời trở lên 2 hộ (50%) (xem sơ đồ 1) Sơ đồ 1: Cây phả hệ dòng họ Trần Hữu, thuộc cụm dân cư 1 làng Đào Xá, được lập vào 6/1994 Mai Văn Hai & Fontenelle Jean - Philippe Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn 39 Ngang Muối T.H.Tần Xuân Thu Nam đã chết Nam Nữ đã chết Nữ b) Cụm II (Trần Huy Dong), có 21 hộ, trong đó có 10 hộ (47,6%) láng giêngf, 11 hộ (52,4%) có quan hệ họ hàng với ông Trần Huy Dong. Số 11 hộ là họ hàng thì 4 hộ (36,3%) do quan hệ hôn nhân tạo thành (1con cô, 2 cháu cô, 1 cháu rể); 7 hộ (63,6%) có quan hệ huyết thống (cùng họ). Số có quan hệ huyết thống có 2 hộ (28,5%) là cha – con, 1 hộ (14,3%) là anh em 2 đời, 3 hộ (42,8%) là anh em từ 3 đời trở lên (xem sơ đồ 2). Sơ đồ 2: Cây phả hệ dòng họ Trần Huy thuộc cụm dân cư số II, làng Đào Xá, lập tháng 6/1994. Đất thổ cư và tính chất cư trú ...... n Xã hội học www.ios.org.vn 40 Vũ Thị Bá Dong Khải Thuần c) Cụm II (Đàm Đình Phong): Là cụm đông dân cư nhất, gồm 25 hộ, trong đó có 6 hộ (24%) chỉ là láng giềng; 19 hộ (76%) có quan hệ họ hàng với ông Đàm Đình Phong. Trong số 19 hộ họ hàng thì 5 hộ (26,4%) do quan hệ hôn nhân tạo thành (3 cháu cô cháu cậu, 1 chắt cô chắt cậu, 1 anh em rể); 14 hộ có quan hệ huyết thống (cùng họ). Số có quan hệ huyết thống có 1 hộ (7,1%) là bố con, 1 hộ (7,1%) là anh em ruột, 4 hộ (28,4%) là anh em hai đời, 7 hộ (49,7%) từ 3 đời trở lên (xem sơ đồ 3). d) Cụm IV (Lê Văn Nhỡ): Có 14 hộ, trong đó có 5 hộ (35,7%) là láng giềng; 9 hộ (64,3%) có quan hệ họ hàng với ông Lê Văn Nhỡ. Trong số 9 hộ có quan hệ họ hàng thì 3 hộ (33,4%) do quan hệ hôn nhận mà thành (1 thông gia, 1 con rể, 1 cháu rể); 6 hộ có quan hệ huyết thống (cùng họ). Số có quan hệ huyết thống có 2 hộ (32,8%) là quan hệ bố con, 1 hộ (16,4%) là anh em ruột, 2 hộ (32,8%) anh em 2 đời (xem sơ đồ 4). Sơ đồ 3: Cây phải hệ dòng họ Đàm Đình thuộc cụm dân cư số III, làng Đào Xá, lập tháng 6/1994 (trang 39 – 40) Bản quyền thuộc Việ Mai Văn Hai & Fontenelle Jean - Philippe Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn 41 Thống Di Chuyên Quyền Đôi điều nhận xét Từ kết quả khảo sát và sự phân tích trên, chúng tôi nhận thấy: 1. Mặc đầu các dòng họ đến Đào Xá khai phá đất thổ cư vào những thời điểm khác nhau (lâu nhất là 350 năm đến 500 năm, gần nhất là 30 năm trở lại đây), trên các địa bàn khác nhau (xóm Làng, xóm Trại, Khu Mới) và nhất là trong các điều kiện kinh tế - xã hội không giống nhau (khi đất rộng người thưa, lúc đông đúc đất chật; khi là đất thuộc sở hữu tư nhân, lúc là đất của hợp tác xã cấp phát...) song tính chất cư trú theo quan hệ họ hàng trên cùng địa bàn đều thể hiện rất mạnh (cao nhất là 76%, thấp nhất là 52,4%. Trong số có quan hệ họ hàng thì những người có quan hệ huyết thống (bên nội) lại chiếm tỷ lệ áp đảo (cao nhất là 73,6%, thấp nhất là 62,5%). 2. Tính chất cư trú theo quan hệ họ hàng thân tộc trên đây phải chăng có nguồn gốc từ công xã thị tộc( )4 rồi công xã tông tộc( )5 vốn được bảo lưu qua công xã nông thôn đến nay. Xét riêng về mặt thời gian đã chứng tỏ cách thức cư trú này đã trưor thành một yếu tố tâm lý hay 4 Xem Nguyễn Khắc Tụng: Tính chất cư trú theo quan hệ dòng họ có tác dụng gì trong nông thôn ta hiện nay (Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, tập 2 Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 92 – 101). Đất thổ cư và tính chất cư trú ...... Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn 42 rộng hơn là một đặc điểm trong đời sống văn hóa – xã hội của các cộng đồng cư dân người Việt ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, do vậy cần phải được nhận thức một cách đầy đủ nhằm phát huy những mặt tích cực đồng thời khặc phục những biểu hiện tiêu cực của nó. 3. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, nhiều dự án kinh tế - xã hội đã, đang và sẽ còn được triển khai thực hiện, trong đó không tránh khỏi việc di chuyển nhiều cộng đồng cư dân ra khỏi nơi chôn rau cắt rốn và thiết lập lên những khu vực cư trú mới. Trong bối cảnh ấy, thiết tưởng nên có sự cân nhắc trong quá trình chuyển cư, cũng như quá trình hội nhập xã hội của hộ, sao cho vừa đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế, vừa phù hợp với những đặc điểm trong đời sống văn hóa – xã hội đã trở thành truyền thống trong đó có vấn đề cư trú, sẽ là điều tốt nhất. 5 Phan Đại Doãn: Làng Việt Nam – Một số vấn đề kinh tế - xã hội, Nxb KHXH và Nxb Mũi Cà Mau, 1992, tr. 93 - 95

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdat_tho_cu_va_tinh_chat_cu_tru_theo_quan_he_ho_hang_than_toc.pdf