Đạo hồi của người Chăm ở Việt Nam - Chu Thị Vân Anh

KẾT LUẬN Tôn giáo tín ngưỡng giữ một vị trí quan trọng trong tiến trình phát triển của người Chăm từ xưa đến nay qua nhiều lĩnh vực. Trong số các tôn giáo du nhập vào xã hội người Chăm, Bà la môn giáo và Islam là hai tôn giáo có những ảnh hưởng sâu sắc đối với tín ngưỡng, phong tục của người Chăm. Một trong những ảnh hưởng quan trọng do hai tôn giáo này mang lại là sự hình thành ba cộng đồng với từng nếp sống và bản sắc riêng: cộng đồng Chăm Bà la môn, cộng đồng Chăn Bani và cộng đồng Chăm Islam. Tôn giáo không chỉ làm biến đổi văn hóa tộc người mà còn tác động đến quá trình tộc người, dẫn đến sự qui tụ hoặc phân ly tộc người. Sự cố kết riêng rẽ của mỗi cộng đồng tôn giáo cũng chính là nguyên nhân của sự phát triển cục bộ và những khác biệt văn hóa giữa từng cộng đồng. Các tôn giáo khi phân hóa dân tộc Chăm thành ba cộng đồng tôn giáo đã đồng thời xác lập những qui định về tập tục, nếp sống, các sinh hoạt văn hóa. hình thành nên những đặc trưng văn hóa cho từng cộng đồng, dẫn đến sự khác biệt văn hóa giữa các cộng đồng tôn giáo ở người Chăm. Những khác biệt này vô hình chung đã làm suy giảm tính cố kết tộc người, hạn chế sự tiếp thu các tiến bộ xã hội và ảnh hưởng đến quá trình phát triển của người Chăm trong thời đại ngày nay.

pdf6 trang | Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 440 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đạo hồi của người Chăm ở Việt Nam - Chu Thị Vân Anh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
29 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠO HỒI CỦA NGƯỜI CHĂM Ở VIỆT NAM Chu Thị Vân Anh* Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Hồi giáo là một trong ba tôn giáo lớn trên thế giới và sớm được du nhập vào Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, thông qua vai trò của các lái buôn người Ả Rập và Ấn Độ. Do đặc điểm của quá trình tiếp nhận một cách hoà bình, theo con đường giao thương, buôn bán nên khi Hồi giáo được truyền bá vào khu vực này, không gây nên những cuộc xung đột tôn giáo lớn. Hồi giáo nhanh chóng hoà nhập với đời sống văn hoá, tâm lý các cư dân khu vực này, đồng thời có những biến đổi về diện mạo, bị bản địa hoá và trở thành một trong những tôn giáo lớn, có tầm ảnh hưởng ở khu vực. Riêng đối với Việt Nam, sức ảnh hưởng của Hồi giáo chủ yếu tập trung trong cộng đồng người Chăm vùng duyên hải Nam Trung Bộ và Nam Bộ và gây nên những sự phân hoá nhất định của khối cư dân này. Chính điều đó đã quy định những đặc trưng của Hồi giáo ở Việt Nam, phân biệt nó với cộng đồng Hồi giáo khác trong khu vực cũng như trên Thế giới. Từ khoá: Dân tộc Chăm, Việt Nam, Hồi giáo, tôn giáo, văn hoá Việt Nam là nước đa dân tộc, đa văn hóa, đa tôn giáo. Riêng vấn đề tôn giáo thì đặc điểm lớn nhất đối với đời sống tôn giáo ở Việt Nam có nhiều khía cạnh: tam giáo đồng nguyên, hài hòa tôn giáo và chưa lúc nào người Việt Nam lại chối từ một tôn giáo nào. Thái độ trong tiếp xúc, tiếp biến văn hóa của người Việt rất mềm dẻo, “mềm mại như nước” (GS. Cao Xuân Huy) vậy. [5,16]* Hồi giáo được chính thức du nhập vào Đông Nam Á từ khoảng thế kỷ X - XI và vào nước ta theo nhiều đường khác nhau. Có khi đấy là con đường tự nguyện, nhưng cũng có lúc đó là sự áp đặt, cưỡng bức từ bên ngoài. Tuy vậy, cuối cùng Hồi giáo cũng đã ăn sâu, bám rễ vào đời sống tôn giáo tín ngưỡng của dân tộc, trở thành một trong sáu tôn giáo chính thống được Nhà nước công nhận và có một số lượng tín đồ đáng kể, góp phần vào đời sống tôn giáo đa dạng của dân tộc. Mặc dù hiện nay Thế giới Hồi giáo đang đặt nhiều vấn đề, nhưng cộng đồng Hồi giáo Việt Nam vẫn tương đối ổn định, tham gia tích cực vào tiến trình xây dựng đất nước. Hồi giáo Việt Nam tuy là một tôn giáo ngoại nhập nhưng trong quá trình phát triển của mình đã bị đồng hóa, bị bản địa hóa cho phù hợp với tâm tư nguyện vọng của người dân. KHÁI QUÁT VỀ ĐẠO HỒI Đạo Hồi là một tôn giáo độc thần hiện đã có hơn một tỷ tín đồ, có mặt ở một dải suốt từ Bắc Phi qua Đông Âu, Trung Cận Đông, Trung Á, Nam Á đến tận Đông Nam Á, nay có xu hướng phát triển sang * Tel: 0983 834376; Email: vananhdth@gmail.com cả Tây Âu và Bắc Mỹ. Đạo Hồi sớm chia ra thành nhiều dòng khác nhau do sự phát triển quá nhanh, hội nhập với tôn giáo của các dân tộc bị lệ thuộc và do sự phân rẽ của các thủ lĩnh. Sự phân rẽ lớn nhất là giữa phái Sunnit (truyền thống) và phái Shiit. Tuy nhiên, các tín đồ Hồi giáo cho dù thuộc nhóm ngành nào cũng đều tuân thủ 5 tín điều, 5 điều cốt lõi của đạo Islam, đó là: 1. Biểu lộ đức tin vào một vị thánh duy nhất là Thánh Allah (Chaheda). Chỉ có một chúa là Thánh Allah, và Mohammed là sứ giả của Thánh. Thuật ngữ Allah xuất hiện 2700 lần trong kinh Coran. 2. Cầu nguyện (Salat) hướng về phía La Mecque, trung tâm của đạo Hồi 5 lần trong ngày: hừng sáng (5h), buổi trưa (13h), xế chiều (16h), chạng vạng tối (19h) và tối (21h). Ngày thứ 6 cầu nguyện tập trung tại thánh đường vào chính ngọ. 3. Tháng Ramadan và tháng 9 theo Hồi lịch. Từ khi mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn phải nhịn ăn, uống, hút và quan hệ tình dục. Tháng đó được đánh dấu vào đêm thứ 27 của tháng, một đêm mà những tín đồ trung thành nhất cầu kinh suốt đêm. Người theo đạo Hồi tin rằng, trong suốt tháng Ramadan, tất cả ma quỷ đều bị xiềng xích ở một nơi, cửa địa ngục khép kín lại và cửa thiên đình mở rộng sẵn sàng đón tiếp những kẻ có lòng thành. Do vậy, mùa ăn chay Ramadan là mùa làm phúc, mùa tích thiện. Con người ta vứt bỏ mọi thèm muốn vật chất, những dục vọng thấp hèn và chỉ chú trọng tới việc khắc phục bản thân, cho tâm hồn được trong sạch. 30 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4. Bố thí (Zakat): đây không phải chỉ là đặc điểm riêng của Hồi giáo, vì đạo nào cũng khuyên người ta giúp đỡ kẻ khốn cùng. Tuy nhiên, việc bố thí của đạo Hồi có ý nghĩa riêng và dường như nó trở thành sự đóng góp cho tập thể. Nguyên nhân là cộng đồng những người theo đạo Hồi cổ truyền có khuynh hướng lẫn lộn với quốc gia. Do đó, Zakat là một hình thức đóng góp cho cộng đồng. 5. Hành hương (Hadji) về La Mecque một lần trong đời là ước mong của người theo đạo Hồi, nhằm được giải thoát khỏi mọi tội lỗi. [7,336] Giáo lý của đạo Hồi đơn giản, nghi lễ không cầu kỳ, lại dễ hòa nhập vào đời thường và trở thành một tập quán. Do vậy, sự khác nhau của đạo chỉ là biểu hiện qua từng dân tộc, từng địa phương, từng nền văn hóa, chia thành nhiều phái. Với sự cuồng tín, thần phục (Islam nghĩa đen là thần phục vào một vị Chúa duy nhất), đạo Hồi có sức mạnh bành trướng bằng máu, bằng nước mắt của các tín đồ gây nên những cuộc tàn sát đẫm máu trong lịch sử. Hiện nay, đạo Hồi là một tôn giáo có vai trò quan trọng của một bộ phận các nước đang phát triển. Đạo đang được dùng làm lá cờ bảo vệ cộng đồng. Bên cạnh đó cũng có nhiều phái Hồi giáo cực đoan là mối lo ngại cho nhiều quốc gia, nhiều tôn giáo khác. SỰ DU NHẬP CỦA HỒI GIÁO VÀO ĐÔNG NAM Á VÀ VIỆT NAM Lịch sử Hồi giáo Đông Nam Á Cho đến nay, các nhà nghiên cứu về Hồi giáo ở Đông Nam Á vẫn chưa đưa ra được một kết luận thống nhất về quá trình du nhập của tôn giáo này vào khu vực Đông Nam Á. Điều còn đang gây tranh cãi nhiều nhất là thời điểm, hoàn cảnh xuất hiện, người truyền bá Hồi giáo tới đây (người Ả Rập, người Ấn Độ hay người Trung Quốc...). Ý kiến được đa số ủng hộ là Hồi giáo du nhập vào đây thông qua các thương gia Ả Rập và Ấn Độ vào khoảng thế kỷ VII - XIII. Tuy là một tôn giáo lớn trên thế giới, nhưng Hồi giáo đến Đông Nam Á tương đối muộn, vào lúc mà “lưỡi gươm tàn bạo của Hồi giáo” không còn thỏa sức hoành hành để mở rộng lãnh thổ và áp đặt tôn giáo cho các cư dân các vùng đất bị người Ả Rập Hồi giáo chiếm đóng nữa. Hồi giáo xuất hiện ở Đông Nam Á trước đạo Thiên Chúa, nhưng thực sự có ảnh hưởng sau đó vài thế kỷ. Thực vậy, một trong những mục đích biện minh cho sự bành trướng của Châu Âu ở khu vực này là để ngăn chặn đạo Hồi trên cấp độ toàn cầu. Từ lâu trước khi người Âu đến vùng Đông Nam Á, đạo Hồi đã lan rộng một cách vững chắc dọc theo các con đường buôn bán đường thủy với Tây Ấn Độ và Đông Á. Hồi giáo đến Malaixia, Inđônêxia, sau đó qua con đường Malaixia lan ra các đảo miền nam Phillippin. Lãnh thổ đầu tiên mà Hồi giáo xâm nhập là vùng bắc Sumatra. Người Ache là cư dân đầu tiên theo đạo Hồi. Khi Malacca trở nên cường thịnh, nó trở thành trung tâm truyền bá đạo Hồi. Cho đến thế kỷ thứ XV, bản thân vùng Đông Nam Á hải đảo được gắn với nhau bằng một chuỗi các quốc gia buôn bán theo đạo Hồi. Tiến trình “Hồi giáo hóa” lúc bấy giờ được hoàn tất thông qua việc cải đạo và chinh phục các đảo, mở rộng vùng giáp ranh Hồi giáo dọc theo các con đường buôn bán hiện có. Trong quá trình Hồi giáo du nhập, các thành phố ven biển như: Malacca, Aleh, Pasai đóng vai trò quan trọng vì chúng là những thành phố, những trung tâm buôn bán lớn, nơi giao lưu buôn bán của khu vực. Do vậy, điều dễ hiểu là những thành phố đó trở thành trung tâm Hồi giáo đầu tiên, là nơi Hồi giáo đầu tiên xâm nhập tới. Các thương nhân Ba Tư, Ấn Độ, Trung Quốc, Ả Rập có mặt tại khu vực Đông Nam Á khá sớm (khoảng thế kỷ VII- VIII) và cũng tham gia vào quá trình Hồi giáo hóa Đông Nam Á. Nhiều khu dân cư buôn bán của họ vẫn còn tồn tại đến ngày này. Các khu dân cư này đã từng là những trung tâm hoạt động tôn giáo, truyền bá kiến thức về thế giới đạo Hồi cho cư dân địa phương. Điều này góp phần tạo nên một trong những đặc trưng của Hồi giáo ở khu vực này. Đó là sự pha trộn những yếu tố tín ngưỡng tiền Hồi giáo ở địa phương với những nét văn hóa Ấn Độ, Ba Tư và Hồi giáo chính thống. Việc Hồi giáo đến Đông Nam Á không có chiến tranh tôn giáo xảy ra, trừ một vài cuộc đụng độ như Philipines là điều không còn phải nghi ngờ gì nữa. Mặc dù đạo Hồi đến Trung Cận Đông và Ấn Độ bằng nhiều cuộc chiến tranh thần thánh, nhưng nó lại đến Đông Nam Á bằng con đường hòa bình, không phải qua những người truyền đạo chuyên nghiệp mà thông qua thương mại và các thương gia Hồi giáo, nên dễ dàng được tiếp nhận và càng ngày càng có những ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, đặc biệt ở các 31 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên quốc gia hải đảo. Ở một số tiểu quốc, vua đồng thời là giáo chủ, tiểu quốc biến thành Hồi quốc. Ví dụ như ở Philipines, tiểu quốc Hồi giáo đầu tiên là Hulu (thế kỷ X - XV), tiểu quốc thứ hai là Minđanao (thế kỷ XVI). [3] Các hoạt động kinh tế sau khi Hồi giáo truyền vào tấp nập khởi sắc, như ở đảo Malacca. Cũng từ đây, văn hóa Ả Rập, Ba Tư ảnh hưởng đến Đông Nam Á. So với Ấn Độ giáo trên một phương diện nào đó, Hồi giáo có tính dân chủ hơn hẳn, vì không bị gò bó bởi tính chất giai cấp nặng nề, đáp ứng được khát vọng của người dân về sự công bằng, bình đẳng trong cuộc sống, trong hoàn cảnh lịch sử nhất định, ở mức độ nhất định. Ngoài ra, Hồi giáo ở Đông Nam Á còn có tác dụng đoàn kết các dân tộc trong cuộc chiến chống ngoại xâm. Ở Đông Nam Á lục địa, các cộng đồng Hồi giáo được thiết lập ở Myanmar, Thái Lan, Việt Nam và Campuchia. Tuy nhiên các cộng đồng Hồi giáo ở khu vực này chỉ là những cộng đồng cư dân thiểu số, không phát triển mạnh mẽ như ở các nước Đông Nam Á hải đảo, bởi vì khi tới đây, Hồi giáo vấp phải một lực cản lớn là Phật giáo và nền văn hóa Phật giáo - Ấn Độ giáo ở đây. Tuy vậy, Hồi giáo ở khu vực này vẫn có những đặc trưng tôn giáo và văn hóa riêng. Sự du nhập Hồi giáo vào Việt Nam Ở Việt Nam đạo Hồi phát triển mạnh mẽ trong cộng đồng người Chăm, với khoảng 70000 tín đồ, tập trung ở các khu vực chủ yếu: Ninh Thuận, Bình Thuận, An Giang, TP Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Đồng Nai. Theo truyền thuyết, bi kí, người Chăm đã biết đến Hồi giáo từ thế kỷ X - XI. Sử nhà Tống (Trung Quốc) cũng ghi nhận vào cuối thế kỷ X - đầu thế kỷ XI đã xuất hiện Hồi giáo ở Chiêm Thành. Tuy nhiên phải đến sau biến cố lịch sử vào giữa thế kỷ XV, với sự suy vong của nhà nước Chiêm Thành, Hồi giáo trong người Chăm mới biểu hiện rõ nét. Sau khi nhà nước Chiêm Thành suy vong, số đông dân Chiêm Thành lưu tán sang Campuchia bằng ba con đường di trú chính: vượt Trường Sơn sang Stung - cheng; theo đường bộ vào phương Nam rồi ngược sông Mêkông sang Công - pông - chàm; theo đường biển xuôi phía Nam, vượt mũi Cà mau sang Rêan, Campốt. Tại Campuchia, người Chăm tiếp xúc với người Malaixia theo Hồi giáo nên dần dần cải đạo Bàlamôn để theo Hồi giáo. Sau này, những người Chăm theo Hồi giáo trên đất Campuchia đã trở về vận động bà con còn ở quê hương (vùng miền Trung ngày nay) bỏ đạo Bàlamôn theo Hồi giáo. Vì xã hội người Chăm khi đó còn mang nặng tàn dư của chế độ mẫu hệ và với tôn giáo chính là đạo Bàlamôn, nên việc vận động theo Hồi giáo không mấy kết quả. Người Chăm ở đây một nửa theo Hồi giáo, còn một nửa vẫn theo đạo Bàlamôn. Dưới triều Nguyễn, quân nhà Nguyễn do Trương Minh Giảng - quan bảo hộ Chân Lạp (tên gọi của nước Campuchia xưa) bị quân của An Dương (Campuchia) đánh phải lui về Châu Đốc. Binh lính là người Chăm, người Malaixia theo đạo Hồi đánh thuê cho nhà Nguyễn lúc bấy giờ cũng về theo. Cũng vào thời kỳ này, cuộc dấy binh của người Mã lai và người Campuchia do Tuôn- sết - ít (1854 - 1858) lãnh đạo không thành công đã chạy về lánh nạn ở Châu Đốc. Lúc đó, triều đình nhà Nguyễn dựa vào lực lượng này lập những đội thân binh để giữ gìn vùng biên giới. Từ đó hình thành khu vực thứ hai của người Chăm theo đạo Hồi ở Việt Nam là Châu Đốc.[8] Do vị trí địa lý, hoàn cảnh truyền đạo, do điều kiện sống và mức độ giao lưu với bên ngoài, nhất là với thế giới Hồi giáo đã hình thành ở Việt Nam hai khối người Chăm theo Hồi giáo: một là khối người Chăm theo Hồi giáo ở Ninh Thuận và Bình Thuận là khối Hồi giáo không chính thống, gọi là Chăm Bàni; hai là khối người Chăm theo Hồi giáo ở Châu Đốc, Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Đồng Nai, An Giang là khối Hồi giáo chính thống, gọi là Chăm Islam. Những tên gọi này được dùng thông thường trong các sách báo trước đây bao gồm cả hai mặt dân tộc và tôn giáo. Cách gọi này được dựa theo cách gọi của người dân địa phương để phân biệt với khối người Chăm vẫn theo đạo Bàlamôn ở Ninh Thuận, Bình Thuận gọi là Bà Chăm. Hiện nay ở nước ta có chừng 94000 tín đồ Hồi giáo thuộc tộc người Chăm, với 454 các chức sắc và khoảng 90 thánh đường nằm rải rác ở vùng Hồi Chà và [1,69]. Do nhiều nguyên nhân lịch sử để lại, các tín đồ dễ quyện vấn đề tôn giáo vào vấn đề dân tộc, không chỉ trong giới trí thức, giới chức sắc, mà trong cả các tín đồ. Tuy nhiên, ta thấy 32 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên chính quyền và đạo Hồi đã có sự thông cảm và người dân Chăm cũng hiểu điều đó, muốn yên ổn làm ăn bên cạnh các tộc người anh em, cùng xây dựng tổ quốc. Người Chăm hiểu rằng, ngay dưới chế độ Mỹ - ngụy, cuộc sống của họ không những không tốt đẹp hơn lên, ngược lại, họ còn bị lợi dụng vào những mục đích chính trị có hại cho bản thân và tộc người. Cho nên, muốn giải quyết tốt vấn đề Hồi giáo người Chăm, cũng như Phật giáo vùng Khơmer, cần đặt chúng trên cơ sở quan hệ bình đẳng, tin cậy giữa các tộc người trong cùng một quốc gia, tôn trọng và thực sự tương trợ giúp đỡ họ tiến bộ. ĐẶC ĐIỂM CỦA HỒI GIÁO TRONG CỘNG ĐỒNG NGƯỜI CHĂM Ở VIỆT NAM Đạo Hồi khi xâm nhập vào xã hội người Chăm ở hai thời kỳ lịch sử khác nhau đã phát triển theo hai khuynh hướng khác nhau, dẫn đến sự hình thành cộng đồng Chăm Bani (Hồi giáo cũ) và cộng đồng Chăm Islam (Hồi giáo mới). Hai khuynh hướng phát triển này thể hiện hai mức độ ảnh hưởng của đạo Hồi đối với tín ngưỡng Chăm nói riêng và với văn hóa Chăm nói chung. Cùng với những tác động của Bà la môn giáo, sự thâm nhập và ảnh hưởng của đạo Hồi trong xã hội người Chăm đã phân hóa tộc người Chăm thành ba bộ phận với 3 sắc thái văn hóa riêng cho từng cộng đồng. Chăm Bani Sống tập trung ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Theo số lượng có tại Ban tôn giáo tỉnh Ninh Thuận và Ban tôn giáo tỉnh Bình Thuận, tổng số tín đồ Bani tính đến tháng 5 -2000 là 40789 người (31% tổng số người Chăm toàn quốc). Trong số đó, Ninh Thuận có 22113 người (39% người Chăm trong tỉnh) và Bình Thuận có 18676 người (64% người Chăm trong tỉnh). [5,20] Bani theo tiếng Ả Rập có nghĩa là con của Thượng đế.[7,330] Bani là hệ quả của những tương tác giữa Islam với tín ngưỡng Chăm và đạo Bà la môn của người Chăm. Về thời điểm hình thành của tôn giáo Bani, ước tính vào khoảng thế kỷ X, căn cứ vào chi tiết nhà vua Pô Âu - loah trị vì tại Sri Ba- nưi từ năm 1000 đến năm 1036 đã là tín đồ của Islam như biên niên sử Chăm có nhắc đến. Bani có sự đan xen giữa yếu tố Islam với tín ngưỡng bản địa Chăm và Bà la môn giáo. Các tập tục truyền thống và chế độ mẫu hệ đã in dấu ấn đậm nét trong tôn giáo Bani, thể hiện tính bản địa một cách sâu sắc. Người Chăm Bani theo tín ngưỡng đa thần, ngoài Allah còn có nhiều vị thần dân gian khác được tôn thờ. Năm nền tảng đức tin của đạo Hồi không được các tín đồ, kể cả các tu sĩ tuân thủ đầy đủ. Điều đó hoàn toàn khác với bản tính tôn giáo độc thần (Monothéisme) của Islam, khác với đặc tính chỉ tôn thờ một Allah duy nhất và buộc phải tuân thủ đầy đủ năm nền tảng đức tin của các tín đồ Islam. Như vậy, đạo Hồi ở người Chăm Bani đã bị biến đổi một cách sâu sắc đến độ không còn là đạo Hồi nữa, mà trở thành một tôn giáo địa phương (tôn giáo dân tộc) của người Chăm. Như vậy, đạo Bani của người Chăm là một tôn giáo được hình thành qua sự tiếp thu đạo Islam trên nền tảng văn hóa truyền thống của dân tộc, cộng với một số yếu tố của Bà la môn giáo để trở thành một tôn giáo riêng của người Chăm, mang đậm bản sắc dân tộc. Vì vậy, ở cộng đồng Chăm Bani, nhiều tín ngưỡng truyền thống được bảo lưu trong khi những nhân tố quan trọng đối với đạo Hồi lại không được chú trọng. Thậm chí, Allah là Thượng đế tối cao của Islam cũng chỉ là một thần linh trong hệ thống các thần linh của người Chăm Bàni. Chăm Islam Người Chăm Islam Nam bộ ước tính khoảng 23285 người (17,5% tổng số người Chăm trong cả nước) tính đến 4 -1999, tập trung nhất ở An Giang (12435 người), kế đến là Thành phố Hồ Chí Minh (5192 người), Tây Ninh (2663 người), Đồng Nai (2307 người). Số còn lại sống rải rác ở Bình Dương, Bình Phước và nhiều tỉnh khác. [5,30] Việc thực hiện 5 bổn phận căn bản của đạo Hồi được các tín đồ tuân thủ chặt chẽ bởi vì giáo chủ Mohammed khẳng định đó chính là 5 trụ cột đức tin, là nền tảng của đạo Hồi. Mọi hoạt động của người Chăm Islam Nam bộ đều diễn ra trong khuôn khổ giáo luật cho phép với sự giám sát và giúp đỡ của cộng đồng Islam nơi họ cư trú và sinh hoạt tôn giáo. Trước Allah (Thượng đế) mọi người đều bình đẳng trong ngày phán xét cuối cùng và phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi đã làm. Con người phải chịu trách nhiệm trước thánh Allah về mọi hành vi của mình kể từ khi trưởng thành. Trước 33 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên thời gian trưởng thành thì cha mẹ là người chịu trách nhiệm về các tội lỗi do con cái gây ra. Theo quy định của giáo luật, người Chăm Islam có bổn phận cầu nguyện năm lần mỗi ngày tại các Masjid, Surai hoặc bất kỳ nơi nào thuận tiện. Song với cuộc sống hiện đại ngày nay, những điều quy định này đã được biến đổi ít nhiều cho phù hợp hơn với điều kiện sinh hoạt, lao động của các tín đồ. Buổi cầu kinh ngày thứ 6 hàng tuần tại các thánh đường là đông người đến dự nhất trong tuần. Bởi vì ngày thứ 6 đối với các tín đồ Hồi giáo có ý nghĩa trọng đại tương tự ngày Chúa nhật đối với các tín hữu đạo Công giáo. Đối với các tín đồ Islam, kinh Coran là kim chỉ nam cho mọi hoạt động, bao gồm giáo lý, các tín điều, nguyên tắc tổ chức xã hội, luân lý, đạo đức, luật pháp... Vì vậy những gì trong kinh Coran đã cấm thì trở thành bất di bất dịch, các tín đồ không được tự tiện thay đổi. Nhìn chung, giáo luật không cho phép các tín đồ tham gia sinh hoạt văn nghệ, đàn ca, múa hát. Các loại nhạc kích động bị cấm tuyệt đối vì nó gây rối loạn tâm trí, làm cho các tín đồ không tập trung thực hiện tất cả các bổn phận của một tín đồ theo quy định. Tuy vậy, các tín đồ Chăm Islam được phép hát các đoạn kinh Coran phổ nhạc. Nhưng do các bản nhạc về Thánh kinh Coran thường có âm điệu buồn nên chỉ dùng trong các sinh hoạt tôn giáo. Người Chăm Islam ở Nam bộ rất quan tâm thực hiện các quy định của giáo luật Islam. Vì vậy, các hình thức tín ngưỡng bản địa cũng như các tập tục truyền thống bị đẩy lùi dưới tác động của tôn giáo. Do cùng một tôn giáo, cùng thực hiện đúng các quy định tôn giáo, cộng đồng Chăm Islam ở Nam bộ có những quan hệ gần gũi với cộng đồng Islam tại Malaixia, Inđônêxia... Qua mối quan hệ tôn giáo, cộng đồng Chăm Islam ở Nam bộ ít nhiều đã chịu những ảnh hưởng văn hóa của Malaixia, Inđônêxia qua nhiều lĩnh vực như ngôn ngữ, tập tục, trang phục... và ngày càng gắn bó hơn với cộng đồng Islam thế giới. KẾT LUẬN Tôn giáo tín ngưỡng giữ một vị trí quan trọng trong tiến trình phát triển của người Chăm từ xưa đến nay qua nhiều lĩnh vực. Trong số các tôn giáo du nhập vào xã hội người Chăm, Bà la môn giáo và Islam là hai tôn giáo có những ảnh hưởng sâu sắc đối với tín ngưỡng, phong tục của người Chăm. Một trong những ảnh hưởng quan trọng do hai tôn giáo này mang lại là sự hình thành ba cộng đồng với từng nếp sống và bản sắc riêng: cộng đồng Chăm Bà la môn, cộng đồng Chăn Bani và cộng đồng Chăm Islam. Tôn giáo không chỉ làm biến đổi văn hóa tộc người mà còn tác động đến quá trình tộc người, dẫn đến sự qui tụ hoặc phân ly tộc người. Sự cố kết riêng rẽ của mỗi cộng đồng tôn giáo cũng chính là nguyên nhân của sự phát triển cục bộ và những khác biệt văn hóa giữa từng cộng đồng. Các tôn giáo khi phân hóa dân tộc Chăm thành ba cộng đồng tôn giáo đã đồng thời xác lập những qui định về tập tục, nếp sống, các sinh hoạt văn hóa... hình thành nên những đặc trưng văn hóa cho từng cộng đồng, dẫn đến sự khác biệt văn hóa giữa các cộng đồng tôn giáo ở người Chăm. Những khác biệt này vô hình chung đã làm suy giảm tính cố kết tộc người, hạn chế sự tiếp thu các tiến bộ xã hội và ảnh hưởng đến quá trình phát triển của người Chăm trong thời đại ngày nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Nguyễn Mạnh Cường - Nguyễn Minh Ngọc (2005), Tôn giáo - tín ngưỡng của các cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Phương Đông. [2]. Đỗ Quang Hưng (2005), Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam: Lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia. [3]. Lương Ninh (1999), Đạo Hồi với người Chăm ở Việt Nam, TC NCLS số 1-2/1999. [4]. Nguyễn Đức Toàn (2002), Ảnh hưởng tôn giáo đối với tín ngưỡng của người Chăm ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Lịch sử, ĐHQGTPHCM. [5]. Đặng Nghiêm Vạn (2005), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Nxb CTQG. [6]. Will Durant (2004), sách dịch, Lịch sử văn minh Ả Rập, Nxb Văn hóa Thông tin. [7]. Nguyễn Thanh Xuân (2005), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo. [8].Website: menu=kienthu SUMMARY 34 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ISLAM IN VIETNAM Chu Thi Van Anh * College of Sciences - TNU Islam is one of three major religions in the world and soon to be introduced into Southeast Asia, including Vietnam, adopted the role of Arab merchants and India. Due to the characteristics of the receiving process peacefully, as a trade route, trading, so when Islam was introduced into this area, not an additional cause sudden major religions. Muslims fast to integrate with the cultural life, psychology residents of this area, and there are changes in appearance, were localized and become one of the great religions, influential in area. Particularly for Vietnam, the influence of the mainly Muslim Cham people in the South Central Coast and South and a significant cause of certain residents of this block. This has defined the characteristics of Islam in Vietnam, distinguish it from other Muslim communities in the region and the world Key words: Cham ethnic, Vietnam, Islam, Religion, Culture

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbrief_32404_35858_382012151640daohoicuanguioichamtaivietnam_3623_2052851.pdf
Tài liệu liên quan