Định hướng sử dụng cho NRCĐ: Duy trì
176,19 ha diện tích này để đảm bảo nhu cầu
lương thực cho người dân trong khu vực.Kết
hợp áp dụng các biện pháp thâm canh tăng
vụ, đưa các tiến bộ khoa học vào sản xuất để
nâng cao năng suất cây trồng.
Định hướng sử dụng cho NRKCĐ: Trồng
rừng phòng hộ nơi dốc cao, nguy cơ xói mòn
mạnh. Những khu vực quy hoạch cho sản
xuất tiến hành trồng rừng sản xuất, chuyển
hóa nương rẫy theo hướng NLKH, kết hợp
khoanh nuôi bảo vệ, xúc tiến tái sinh tự nhiên
nơi có cây tái sinh mục đích. Chuyển hóa một
số diện tích nương rẫy có cây tái sinh sang
sản xuất lâm nghiệp là chính.
7 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 25/03/2022 | Lượt xem: 197 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá thực trạng và hiệu quả một số hệ thống canh tác nương rẫy tại xã Cao Kỳ - Huyện Chợ Mới - Tỉnh Bắc Kạn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Văn Công và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 97(09): 49 - 55
49
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ HIỆU QUẢ MỘT SỐ HỆ THỐNG CANH TÁC
NƯƠNG RẪY TẠI XÃ CAO KỲ- HUYỆN CHỢ MỚI -TỈNH BẮC KẠN
Nguyễn Văn Công 1*, Nguyễn Thị Kim Anh1,
Nguyễn Thị Thu Hoàn2
1Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
2
Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Diện tích canh tác nương rẫy tại xã Cao Kỳ gồm có 176,19 ha nương rẫy cố định, 1026,25 ha là
nương rẫy bán cố định và nương rẫy không cố định. Thông qua việc điều tra 30 hộ canh tác nương
rẫy, nhóm nghiên cứu đã đánh giá được hiệu quả của một số hệ thống, cụ thể là nương rẫy cố định
đem lại hiệu quả kinh tế khá ổn định, đạt 38,68 triệu đồng/ha/năm. Mô hình nương rẫy không cố
định đạt 26,22 triệu đồng/ha, tuy nhiên canh tác nương rẫy chỉ áp dụng thời gian ngắn, không cố
định. Mô hình nương rẫy bán cố định đạt 17,17 triệu đồng/ha, kiểu canh tác này ít phổ biến trên
địa bàn. Cơ cấu chi phí và thu nhập của từng hình thức canh tác nương rẫy có tỷ lệ khác nhau do
cơ cấu cây trồng khác nhau.
Định hướng sử dụng đất canh tác nương rẫy được đề xuất dựa trên kết quả phân tích đánh giá hiện
trạng, hiệu quả canh tác và các tác động của hệ thống canh tác nương rẫy. Các giải pháp được đề cập là
duy trì 176,19 ha diện tích nương rẫy cố định, kết hợp áp dụng các biện pháp thâm canh tăng vụ, áp
dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất. Đối với hình thức nương rẫy không cố định trồng rừng phòng
hộ nơi dốc cao, nguy cơ xói mòn mạnh, trồng rừng sản xuất, chuyển hóa nương rẫy theo hướng nông
lâm kết hợp (NLKH), kết hợp khoanh nuôi bảo vệ, xúc tiến tái sinh tự nhiên nơi có cây tái sinh mục
đích và chuyển hóa một số diện tích nương rẫy có cây tái sinh sang sản xuất lâm nghiệp là chính.
Từ khóa: canh tác, nương rẫy, hiệu quả, kinh tế, tác động, mô hình, Chợ Mới
MỞ ĐẦU*
Canh tác nương rẫy (CTNR) được hiểu theo
nhiều cách khác nhau: nông nghiệp du canh,
canh tác du canhMặc dù theo cách hiểu nào
thì cũng phải khẳng định rằng canh tác nương
rẫy là một dạng sử dụng đất có lịch sử hàng
ngàn năm và nó phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh sinh thái vùng nhiệt đới. Ước tính rằng
có khoảng 250 đến 300 triệu người sinh sống
bằng việc canh tác nương rẫy, tác động đến
gần một nửa tổng diện tích đất vùng nhiệt đới.
Riêng khu vực Châu Á Thái Bình Dương đã
có 30 triệu người sống phụ thuộc vào canh tác
nương rẫy trên một diện tích khoảng 75 triệu
ha (Srivastava, 1986) [5].
Ngày nay việc canh tác nương rẫy vẫn được
nhiều người coi là nguyên nhân chính của nạn
mất rừng nhiệt đới, tuy vậy, một số nhà
nghiên cứu đã coi nương rẫy du canh như một
phương pháp có hiệu quả nhất để đối phó với
*
Tel:0915600500; email: congvan600@gmail.com
các thực thể sinh thái của vùng nhiệt đới (Cox
và Atkins, 1976) nhưng chỉ thích hợp trong
điều kiện dân số thấp (dưới 50 người/ km2),
còn trong nhiều trường hợp phương thức canh
tác nương rẫy du canh truyền thống còn có tác
dụng tích cực trong quá trình diễn thế và tái
tạo của rừng (Odum,1971; Bodley, 1976) [2]
và trong một chừng mực có thể kiểm soát
được thì nương rẫy không làm tăng thêm
nguy cơ phá rừng mà còn góp phần ổn định
tình hình dân cư sinh sống, tạo nguồn lương
thực tại chỗ nhằm thực hiện chính sách dân
tộc của Đảng.
Huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn có tổng diện
tích tự nhiên là 60.651,0 ha trong đó có
42.438,0 ha là đất lâm nghiệp [4], là nơi có
địa hình phức tạp, đất dốc chủ yếu và là địa
bàn sinh sống của nhiều thành phần dân tộc,
đời sống nông thôn nghèo và còn nhiều khó
khăn, thu nhập của người dân chủ yếu từ sản
xuất nông lâm nghiệp, tuy nhiên hiệu quả
kinh tế từ ngành nghề này của vùng còn hạn
chế và thực sự còn thấp. Đồng thời canh tác
Nguyễn Văn Công và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 97(09): 49 - 55
50
trên đất dốc theo hình thức nương rẫy trên địa
bàn tỉnh cũng đang là vấn đề hết sức bức xúc
vì hiệu quả kinh tế thấp và ảnh hưởng xấu đến
môi trường, vì vậy vấn đề thực tiễn cần giải
quyết là đánh giá thực trạng và hiệu quả của
một số hệ thống canh tác nương rẫy nhằm đề
xuất giải pháp sử dụng đất dốc hiệu quả là
thực sự cần thiết, đặc biệt trong chương trình
xây dựng nông thôn mới tại địa bàn huyện, xã
miền núi hiện nay.
Tuy nhiên, trong phạm vi bài báo này, chúng
tôi đề cập tới kết quả đánh giá thực trạng và
hiệu quả hệ thống canh tác nương rẫy nhằm
đưa ra định hướng sử dụng đất nương rẫy cho
xã Cao Kỳ, Chợ Mới, Bắc Kạn.
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
• Phạm vi nghiên cứu: Một số hệ thống
canh tác trên đất nương rẫy tại xã Cao Kỳ,
huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn
• Nội dung nghiên cứu:
- Đánh giá thực trạng sử dụng nương rẫy của
xã Cao Kỳ.
- Điều tra, khảo sát một số hệ thống canh tác
nương rẫy trên địa bàn.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế một số hệ thống
canh tác nương rẫy tại khu vực nghiên cứu.
- Đánh giá yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả
CTNR và tác động của hệ thống CTNR đến
rừng và đất rừng
- Đề xuất định hướng sử dụng đất nương rẫy
tại khu vực nghiên cứu
• Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu
như sau:
- Thu thập các số liệu thứ cấp qua tiếp cận và
kế thừa các tài liệu, số liệu có sẵn ở các cơ
quan như: Hiện trạng đất đai, số liệu kinh tế
xã hội, khí hậu thủy văn....
- Phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham
gia (PRA): Phỏng vấn trực tiếp các hộ gia
đình, cán bộ xã, cán bộ kiểm lâm để tìm hiểu
thực trạng, hiệu quả của canh tác nương rẫy
tại khu vực nghiên cứu. Đề tài đã tiến hành
phỏng vấn 35 người trong đó 30 người dân và
5 cán bộ. Kết quả phỏng vấn được tổng hợp
theo phiếu điều tra được xây dựng trước.
- Phương pháp khảo sát thực địa: Tiến hành
khảo sát thực địa, quan sát trực tiếp các hệ
thống canh tác nương rẫy, phân tích các thuận
lợi, khó khăn trên cơ sở khảo sát và vẽ lát cắt
mô hình.
- Phương pháp xử lý số liệu:
+ Tính hiệu quả kinh tế của một hệ thống canh
tác nương rẫy /năm sử dụng công thức sau:
T= Thu nhập của cây ăn quả/năm (A) + Thu
nhập của cây lâm nghiệp/năm (B) + Thu nhập
cây hàng năm (C) + Tổng thu nhập của vật
nuôi/năm (nếu có).
Trong đó: A = Tổng giá trị sản phẩm/năm –
Chi phí vật chất/năm
B = Tổng giá trị sản phẩm cây LN cuối chu
kỳ - chi phí vật chất/ số năm của chu kỳ
C = Tổng giá trị SP cây hàng năm - Chi phí
vật chất/năm
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Thực trạng sử dụng đất nương rẫy của xã
Cao Kỳ
Thừa kế số liệu về hiện trạng đất đai tại xã
Cao Kỳ [1] kết hợp với kết quả rà soát hiện
trạng đất đai bằng giải đoán ảnh viễn thám
[3], chúng tôi đã thu được kết quả về hiện
trạng sử dụng đất nông nghiệp nói chung và
đất canh tác nương rẫy nói riêng của xã Cao
Kỳ (xem bảng 1).
Bảng 1 : Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp và
đất nương rẫy xã Cao Kỳ, huyện Chợ Mới
TT Loại đất sử dụng Diện tích (ha)
1 Đất sản xuất nông nghiệp 571.14
1.1 Lúa nước 235.65
1.2 Đất cố định làm nương rẫy 176.19
1.3 Đất cây lâu năm, đất cỏ chăn
nuôi 159.3
2 Đất nương rẫy bán cố định và không cố định 1026.25
2.1 Đất nương rẫy không cố định
đang canh tác 227.55
2.2 Đất nương rẫy không cố định không có cây gỗ tái sinh 202.07
2.3 Đất nương rẫy không cố định
có cây gỗ tái sinh 596.63
Nguyễn Văn Công và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 97(09): 49 - 55
51
Theo kết quả thống kê tại bảng 1 thì diện tích
đất đai được quy hoạch cho nông nghiệp của
xã là 571.14 ha, trong đó đất cố định làm canh
tác nương rẫy là 176.19ha. Đối với diện tích
nương rẫy cố định (NRCĐ): đất này đã được
quy hoạch và giao cho người dân để canh tác
nương rẫy cố định. Về cơ cấu sử dụng đất
NRCĐ: 48% là một số loại cây ăn quả (CAQ),
34% ngô và sắn, lúa nương 8%, 10% là khoai
và các rau màu khác.
Nương rẫy không cố định (NRKCĐ) và
nương rẫy bán cố định (NRBCĐ) là 1026.25
ha, nằm chủ yếu trên diện tích đất lâm nghiệp
được quy hoạch trồng rừng sản xuất và rừng
trồng phòng hộ, hầu hết phần diện tích
NRKCĐ đều thuộc trạng thái Ia,Ib và Ic
(thuộc nhóm trạng thái đất trống, cây bụi, một
số ít có cây tái sinh rải rác) mà khả năng phục
hồi rừng tự nhiên là rất chậm. Một số ít là
nương rẫy canh tác theo kiểu bán cố định
(canh tác liên tục vài năm- bỏ hóa-canh tác)
hiệu quả sử dụng đất không cao.
Vì vậy kết quả xác định và phân loại được
các hình thức canh tác nương rẫy là cơ sở để
đưa ra định hướng sử dụng hiệu quả diện
tích đất này.
Kết quả điều tra, khảo sát và phân loại một
số hệ thống CTNR tại xã Cao Kỳ
Qua điều tra 30 hộ, kết quả được phân loại và
tổng hợp vào bảng 2.
Bảng 2: Các dạng mô hình CTNR tại xã Cao Kỳ
TT
Hình
thức
CTNR
Số hộ
điều tra
Thành phần
nương rẫy
1
Nương
rẫy cố
định
17
- Cây ăn quả: Mơ, chuối,
mận, vải, dứa
- Nương rẫy: Ngô, sắn,
khoai, đỗ, lúa nương.
- Cây LN phân tán
2
Nương
rẫy không
cố định
9
- Lâm nghiệp: Keo, cây
tự nhiên phục hồi
- Nương rẫy: Ngô, sắn,
khoai.
3
Nương
rẫy bán
cố định
4
- Lâm nghiệp: cây tự
nhiên.
- Nương rẫy: Ngô, khoai,
sắn, lúa nương.
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra
Các hệ thống CTNR tại xã Cao Kỳ có 3 dạng
chính như sau:
- Loại mô hình 1: NRCĐ có 17/30 hộ tham
gia áp dụng, chiếm 56,67%. Mô hình được
phát triển dựa trên sự kết hợp giữa cây lâm
nghiệp (keo), cây nông ngiệp (lúa nương,
ngô, sắn), cây ăn quả (mơ, chuối, mận,
vải, dứa).
Cách thức bố trí của mô hình tạo một không
gian khá đẹp, mang tính cảnh quan của khu
vực miền núi. Đây là mô hình đem lại hiệu
quả kinh tế tương đối cao, ổn định, được quy
hoạch là NRCĐ nên canh tác liên tục nhiều
năm và được nhiều hộ áp dụng.
- Loại mô hình 2: NRKCĐ: Nương rẫy (lúa
nương, ngô, sắn, đậu tương) + Lâm nghiệp
(keo, bồ đề tự nhiên). Loại hình này canh
tác theo kiểu làm nương rẫy 1-3 năm đầu khi
cây lâm nghiệp còn nhỏ, cây tự nhiên thưa
thớt. Sau đó để phục hồi tự nhiên mà không
thực hiện biện pháp canh tác nào. Loại này
có 9/30 hộ tham gia áp dụng, chiếm 30% số
hộ điều tra.
- Loại mô hình 3: NRBCĐ: Nương rẫy (lúa
nương, ngô, sắn) + Chuối, loại hình này chủ
yếu canh tác theo kiểu canh tác-bỏ hóa-canh
tác, có 4/30 hộ thực hiện, chiếm 13,33 %.
Kiểu này có thể coi là vừa NRCĐ vừa là
NRKCĐ. Diện tích nhỏ, manh mún, không
tập trung, không liên tục, đất đai dễ bị xói
mòn, rửa trôi và bạc màu.
Kết quả đánh giá hiệu quả của hệ thống
CTNR tại xã Cao Kỳ
Qua điều tra, phỏng vấn 30 hộ gia đình áp
dụng canh tác theo hình thức CTNR tại xã
Cao Kỳ, dựa trên phiếu điều tra thông tin của
các hộ gia đình, chúng tôi tổng hợp có kết quả
như sau:
Nguyễn Văn Công và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 97(09): 49 - 55
52
Bảng 3: Tổng hợp hiệu quả kinh tế của các hệ thống CTNR được điều tra
(ĐVT: Triệu đồng)
TT Loại hình CTNR
Số hộ
điều tra
Tổng diện tích
mô hình
CTNR (ha)
Tổng thu/
tổng diện tích
điều tra
Tổng chi/
tổng diện tích
điều tra
Thu-chi/
tổng diện tích
điều tra
Thu-Chi/ ha
1 NRCĐ 17 26,41 1.677.81 656.34 1.021.47 38.68
2 NRKCĐ 9 13,60 845.04 488.49 356.55 26.22
3 NRBCĐ 4 3,66 142.55 79.72 62.83 17.17
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra)
Bảng 4: Cơ cấu chi phí và thu nhập giá trị sản phẩm của hệ thống CTNR
Loại hệ thống
CTNR
Cơ cấu chi phí (CP) và thu nhập (TN) (triệu đ/ha)
CAQ + Cây công nghiệp Cây lâm nghiệp Cây lương thực, thực phẩm
CP TN CP TN CP TN
NRCĐ 18,14 43,39 2,41 4,89 4,3 15,25
Tỷ lệ % 73 68,3 9,7 7,7 17,3 24,0
NRKCĐ 7,18 9,32 3,59 9,63 25,14 43,19
Tỷ lệ % 20 15,0 10 15,5 70 69,5
NRBCĐ 5,4 9,74 0 0 16,38 29,21
Tỷ lệ % 25 24,8 0 0 75,0 75,2
(Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra)
Như vậy, ta thấy hiệu quả canh tác nương rẫy
theo các hình thức khác nhau mang lại hiệu
quả kinh tế khác nhau và nhìn chung hiệu quả
còn thấp, cụ thể là: Các mô hình NRCĐ đem
lại hiệu quả kinh tế khá ổn định, đạt 38,68
triệu đồng/ha/năm. Mô hình NRKCĐ cho
hiệu quả kinh tế 26.22 triệu đồng/ha, tuy
nhiên canh tác nương rẫy chỉ áp dụng thời
gian ngắn, không cố định, canh tác 1-3 năm
bằng việc trồng một số cây ngắn ngày như
ngô, lúa nương, sắn nhằm hỗ trợ cho thu
nhập. Mô hình canh tác NRBCĐ thì hiệu quả
là 17,17 triệu đồng/ha, tuy nhiên kiểu canh
tác này ít phổ biến, nhưng vẫn còn tồn tại ở
khu vực người dân sống ở thôn bản vùng cao,
ít đất canh tác lúa nước và thiếu lao động.
Để thấy rõ hơn hiệu quả của hệ thống canh
tác nương rẫy khác nhau, dưới đây ta tiến
hành phân tích cơ cấu chi phí và thu nhập của
một số hệ thống CTNR như ở bảng 4.
Từ việc nghiên cứu cơ cấu về diện tích, cơ
cấu về thu - chi/ha của 30 mô hình theo từng
hệ thống CTNR ta có thể đánh giá được mức
độ cụ thể về phân bố hệ thống CTNR theo
diện tích và mức thu nhập như sau:
Bảng 5: Phân bố hệ thống CTNR theo diện tích và
theo mức thu nhập từ điều tra mô hình
Diện tích
(ha)
Số hộ
có HT
CTNR
Theo thu
nhập (triệu
đồng/ha)
Số hộ
có HT
CTNR
<1 7 1,0 – 20,0 7
1 -2 15 21,0 – 40,0 11
2-3 7 41,0 – 60,0 9
> 3 1 >60,0 3
Tổng 30 30
(Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra từ mô hình)
Số liệu bảng trên cho thấy: Các mô hình
CTNR tại xã Cao Kỳ diện tích 1- 2 ha có 15 hộ
sử dụng, chiếm 50%, đây là quy mô của hệ
thống CTNR phổ biến tại khu vực nghiên cứu.
Diện tích <2 ha có 7 hộ sử dụng, chiếm 23.33
%. Diện tích > 3 ha có 01/30 hộ được điều tra,
chiếm 3.33%. Kết quả này chứng tỏ rằng diện
tích đất canh tác nương rẫy còn manh mún,
không tập trung, đan xen trên diện tích đất lâm
Nguyễn Văn Công và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 97(09): 49 - 55
53
nghiệp, vì vậy trong quá trình đốt nương làm
rẫy nguy cơ gây cháy rừng là khá cao.
Mức thu nhập từ 1,0-20,0 triệu đồng/ha có 7
hộ, mức thu nhập này còn thấp do phương
thức canh tác chưa hiệu quả, kĩ thuật áp dụng
vào mô hình còn mang tính tập quán lạc hậu.
Bên cạnh đó cũng có một số gia đình đạt mức
thu nhập đáng kể trên 60 triệu đồng/ha; mức
thu nhập này có 3 hộ, chiếm 10 % tổng số hộ
tham gia. Mức thu phổ biến nhất nằm trong
khoảng giá trị 21-60 triệu đồng/ha/năm chiếm
66% và tập trung chủ yếu ở loại hình canh tác
nương rẫy theo hình thức NRCĐ.
Kết quả đánh giá yếu tố ảnh hưởng đến
hiệu quả CTNR và tác động của hệ thống
CTNR đến rừng và đất rừng
- Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả canh tác
nương rẫy:
+ Ảnh hưởng của yếu tố địa hình:
Yếu tố địa hình có tính quyết định đến quá
trình CTNR vì bản chất của CTNR là sản xuất
nông nghiệp trên đất dốc, đất đã có rừng trước
đây, ở nơi có độ dốc trung bình. Tại xã Cao Kỳ
thì điều kiện địa hình đa phần là diện tích rừng
tái sinh, đã qua khai thác, độ dốc không quá
cao (15-20 độ) nên có phần thuận lợi đến
CTNR, đến hiệu quả và năng suất cây trồng,
đặc biệt là các loại cây có tính chịu hạn, thích
nghi với điều kiện thời tiết khu vực.
+ Ảnh hưởng của yếu tố kỹ thuật canh tác:
Qua điều tra thực tế có thể thấy mức độ ảnh
hưởng của biện pháp canh tác có tính quyết
định đến năng suất và sản lượng cây trồng.
Tại khu vực nghiên cứu chủ hộ đa phần lại là
những người đồng bào dân tộc thiểu số ở
vùng cao, trình độ nhận thức và áp dụng đúng
biện pháp canh tác, các tiến bộ khoa học kĩ
thuật của họ còn hạn chế.
+ Các yếu tố ảnh hưởng khác: Như tập quán
canh tác, các rủi ro trong sản xuất, vốn đầu tư,
thị trường tiêu thụ, chi phí vận chuyển đều
ảnh hưởng đến hiệu quả của CTNR.
- Tác động của CTNR đến rừng và đất rừng:
+ Tác động CTNR đến đất, xói mòn đất: Qua
phỏng vấn người dân, sự thay đổi trong
phương thức CTNR chủ yếu của người dân ở
địa phương là: (i) canh tác theo hướng NRCĐ
ổn định qua nhiều năm, (ii) NRKCĐ thì có sự
thay đổi về thời gian bỏ hoá, sau năm 1985
thời gian bỏ hoá rút ngắn từ 15 - 20 năm
xuống còn 4 - 6 năm. Qua kết quá phỏng vấn
30 hộ dân ngoài thực địa có tới 26 hộ trả lời
đất nương rẫy mau chóng bị xói mòn bạc màu
sau vài năm canh tác.
+ Sự thoái hoá đất: Sau CTNR còn thể hiện
rất rõ qua năng suất cây trồng giảm, tầng đất
mỏng, đất dần bí chặt mất độ tơi xốp; Ở
những nơi độ dốc càng cao tình trạng xói
mòn xảy ra càng mạnh, tốc độ thoái hoá
càng nhanh.
Bảng 6: Năng suất cây trồng giảm do xói mòn và
thoái hoá đất
Vụ trồng Lúa nương (tấn/ha)
Ngô
(tấn/ha)
1 1.3 2.5
2 1.1 1.9
3 0.9 1.4
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra)
Bảng 6 cho thấy: Với cùng một giống lúa
nương trên cùng một nương canh tác mà vụ 2
đã giảm hơn so với vụ 1 là 2 tạ/ha, đến vụ thứ
3 giảm tới 4 tạ/ha. Tuy nhiên người dân ở đây
vẫn chưa tìm được giải pháp để khắc phục
tình trạng trên. Do địa hình dốc nên việc bón
phân cho đất để cải tạo độ phì không mang lại
hiệu quả và rất tốn kém. Bên cạnh đó dưới
sức ép của dân số; thời gian bỏ hoá lại bị rút
ngắn nên đất càng thoái hoá nhanh và mạnh
hơn. Việc tìm ra phương án để sử dụng hiệu
quả phần diện tích đất này là hết sức cần thiết.
+ Tác động CTNR đến khả năng phục hồi
rừng: Sản xuất CTNR là kế sinh nhai đã trở
thành tập quán lâu đời của cư dân sống ở
vùng núi cao. Tuy nhiên cũng không thể phủ
nhận một thực tế là khi diện tích nương rẫy
tăng lên thì diện tích rừng ngày càng giảm đi.
Đồng thời việc phát đốt rất dễ gây cháy rừng
trên diện tích rộng gây thiệt hại cả về tài sản
và môi trường trong địa phương.
Nguyễn Văn Công và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 97(09): 49 - 55
54
Mặc dù CTNR có những tác động như trên,
nhưng đến nay các hình thức này vẫn luôn tồn
tại, không thể xóa bỏ bởi những nguyên nhân
như sau:
- Phong tục tập quán canh tác truyền thống
nương rẫy đã tồn tại hàng nghìn năm, đã ăn
sâu vào tiềm thức, nhận thức của người dân,
do vậy các giải pháp về định hướng cho sử
dụng đất nương rẫy cần phải chuyển hóa dần
theo thời gian.
- Do tác động của cơ chế thị trường, có biểu
hiện tích tụ đất hoặc bán đất, tiếp tục mở rộng
diện tích canh tác nương rẫy theo các hình
thức NRKCĐ hoặc bán cố định.
- Trình độ tiếp nhận khoa học còn hạn chế,
dẫn đến tình trạng chậm thay đổi trong nhận
thức chuyển đổi canh tác nương rẫy.
- Công tác tuyên truyền, khuyến nông lâm tại
địa bàn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn
tại địa phương.
Với thực trạng, hiệu quả và tác động của một
số hệ thống CTNR tại khu vực nghiên cứu,
việc tìm kiếm các giải pháp sử dụng hiệu quả
được đề xuất dưới đây.
Định hướng sử dụng đất CTNR tại khu
vực nghiên cứu
- Đối với đất NRCĐ: Giữ nguyên 176,19 ha
diện tích này để đảm bảo nhu cầu lương thực
cho người dân trong khu vực. Tuy nhiên để sử
dụng hiệu quả hơn cần áp dụng các biện pháp
thâm canh tăng vụ, đưa các tiến bộ khoa học
vào sản xuất để nâng cao năng suất cây trồng.
- Đối với đất nương rẫy không cố định
+ Đối với đất NRKCĐ đang canh tác và đất
NRKCĐ chưa có cây gỗ tái sinh thì định
hướng sử dụng và các biện pháp tác động là:
Trồng rừng phòng hộ nơi dốc cao, nguy cơ
xói mòn mạnh. Những khu vực quy hoạch
cho sản xuất tiến hành trồng rừng sản xuất,
chuyển hóa nương rẫy theo hướng NLKH.
+ Đất NRKCĐ có cây gỗ tái sinh: Trồng
rừng, kết hợp khoanh nuôi bảo vệ, xúc tiến tái
sinh tự nhiên. Chuyển hóa nương rẫy sang sản
xuất lâm nghiệp là chính.
+ Các mô hình cụ thể dựa trên định hướng sử
dụng đất NRKCĐ có thể áp dụng cho chuyển
hóa nương rẫy được đề xuất : Trồng rừng
phòng hộ, kết hợp mô hình Luồng + nương
rẫy, Keo+ nương rẫy. Trồng rừng sản xuất,
kết hợp giưa Mỡ + nương rẫy, Xoan + sắn
Thực hiện phương thức NLKH trong giai
đoạn đầu trồng rừng sản xuất và rừng phòng
hộ với các loài cây nông nghiệp như: Lúa,
ngô, sắn.. kết hợp với các loài cây lâm nghiệp
dài ngày nhằm phát huy hiệu quả lấy ngắn
nuôi dài, kết hợp giữa sản xuất và phòng hộ
và nâng cao thu nhập cho người dân.
KẾT LUẬN
Kết quả đã đánh giá được thực trạng về canh
tác nương rẫy với diện tích xác định và 3 loại
hình CTNR hiện đang được thực hiện tại xã
Cao Kỳ là NRCĐ, NRBCĐ và NRKCĐ.
Hiệu quả kinh tế từ các mô hình canh tác
nương rẫy theo 3 hình thức khác nhau được
điều tra trên tổng số 30 hộ cho thấy; NRCĐ
có hiệu quả khá ổn định, nhiều hộ thực hiện.
NRBCĐ và NRKCĐ hiệu quả kinh tế chưa
cao, không ổn định, làm ảnh hưởng xấu đến
môi trường.
Định hướng sử dụng cho NRCĐ: Duy trì
176,19 ha diện tích này để đảm bảo nhu cầu
lương thực cho người dân trong khu vực.Kết
hợp áp dụng các biện pháp thâm canh tăng
vụ, đưa các tiến bộ khoa học vào sản xuất để
nâng cao năng suất cây trồng.
Định hướng sử dụng cho NRKCĐ: Trồng
rừng phòng hộ nơi dốc cao, nguy cơ xói mòn
mạnh. Những khu vực quy hoạch cho sản
xuất tiến hành trồng rừng sản xuất, chuyển
hóa nương rẫy theo hướng NLKH, kết hợp
khoanh nuôi bảo vệ, xúc tiến tái sinh tự nhiên
nơi có cây tái sinh mục đích. Chuyển hóa một
số diện tích nương rẫy có cây tái sinh sang
sản xuất lâm nghiệp là chính.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Báo cáo tổng kết UBND xã Cao Kỳ, 2011.
[2]. Trần Văn Con (2001), Canh tác nương rẫy và
vấn đề tham gia quản lý bảo vệ rừng tự nhiên của
đồng bào Bahnar ở huyện K’ Bang, tỉnh Gia Lai,
Thông tin khoa học kỹ thuật lâm nghiệp (3), tr.29,
Hà Nội.
Nguyễn Văn Công và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 97(09): 49 - 55
55
[3]. Nguyễn Thị Thu Hoàn, Nguyễn Đăng Cường
(2011), “Ứng dụng công nghệ thông tin xây dựng
bản đồ phân cấp phòng hộ đầu nguồn tại xã Cao
Kỳ, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn”, Tạp chí
KHCN Thái Nguyên, số 04, 2012, tr.127.
[4]. Số liệu rà soát phân chia 3 loại rừng tỉnh Bắc
Kạn, 2006.
[5]. Srisvastava (1986), Shifting cultivation
proberlem and altemtves. FAO Regional officefor
Asia and Pacific. Bangkok. Field document 10.77p.
SUMMARY
ASSESSING SITUATION AND EFFICIENCY OF SOME SHIFTING
CULTIVATION SYSTEMS IN CAO KY COMMUNE – CHO MOI DISTRICT
– BAC KAN PROVINCE
Nguyen Van Cong1*, Nguyen Thi Kim Anh1,
Nguyen Thi Thu Hoan2,
1College of Economics and Business Administration -TNU
2
College of Agriculture and Forestry-TNU
Shifting cultivation area in CaoKy commune has 176.19 ha of fixed cultivation and 1026.25 ha for
semi-fixed and unfixed cultivation. Through serveys and interview 30 farming households have
evaluated the effect of some shifting cultivation systems, as: fixed cultivation bring economic
efficiency is stability, net incomes 38,68 million VND/ hectares /year. The model unfixed
cultivation has incomes 26,22 million/ hectares, but farming applies only short time, not fixed.
Model semi-fixed cultivation has 17,17 million / hectares, this type of cultivation is less common
in the area. The rate of cost and income of each form of shifting cultivation have different rates
due to has different plant structure.
Oriented land use shifting cultivation is proposed based on the results to assess the status and
efficiency of cultivation and the effects of shifting cultivation systems. The solution is proposed
as: maintaining 176.19 hectares fixed shifting cultivation and combined application of intensive
cultivation methods, application of scientific into production. The type of not fixed shifting
cultivation: Protection plantations where slope is hight, risk erosion is strong, forest production,
change shifting cultivation towards agroforestry cultivation, combining transform of plantation,
encourages assisted natural regeneration where has purposes regeneration and change some areas
have tree regeneration to forest production.
Key words: Farming, Shifting cultivation, effect, economic, impact, model, Cho Moi
Ngày nhận bài: 27/7/2012, ngày phản biện: 31/7/2012, ngày duyệt đăng: 10/10/2012
*
Tel:0915600500; Email: congvan600@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_thuc_trang_va_hieu_qua_mot_so_he_thong_canh_tac_nuo.pdf