U
Estimated amount of carbon stock at a certain time period is significant because it shows the
potential of vegetation in the release or absorption of các bon. Through remote sensing techniques
and spatial data, the main types of the forest in Nam Mau commune has been identified. On the
basis of 8 points have been identified, the value of carbon stock in various types of forest have
been identified by rapid assessment carbon stock method (RaCSA) of ICRAF. The accumulation
of carbon above ground in the forest types is calculated by multiplying coefficient with 0,46 value
of biomass obtained in the section above ground such as wooden trees, dead felled trees,
understorey and litter layer. Carbon accumulation (ton C/ha) in each forest types (The less affected
natural forests –IIIb; The strong disturbed natural forest – IIIa; The recovered forest after
extraction – IIb; The recovered forest after shifting cultivation - IIa) are 379.29; 96.24; 87.37;
36.94, respectively. The carbon (C) stock in forest types depends on derived, the structure of
species composition, structural characteristics of the components in the state, the impact of
external factors and origin forest restoration.
6 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 483 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá nhanh lượng các bon tích lũy trên mặt đất của một số trạng thái rừng tại xã Nam Mẫu, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn - Bùi Văn Trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bùi Văn Trường và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 108(08): 121 - 126
121
ĐÁNH GIÁ NHANH LƯỢNG CÁC BON TÍCH LŨY TRÊN MẶT ĐẤT
CỦA MỘT SỐ TRẠNG THÁI RỪNG TẠI XÃ NAM MẪU, HUYỆN BA BỂ,
TỈNH BẮC KẠN
Bùi Văn Trường*, Bùi Văn Tân, Đỗ Hoàng Chung
Trường Đại học Nông Lâm– ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Ước tính trữ lượng các bon tại một khoảng thời gian nhất định rất có ý nghĩa, bởi nó cho thấy tiềm
năng của thảm thực vật trong giải phóng hoặc tích lũy các bon. Thông qua kỹ thuật viễn thám và
các dữ liệu không gian các loại rừng chủ yếu tại xã Nam Mẫu đã được xác định. Trên cơ sở 8 điểm
đã được xác định, lượng các bon tích lũy trong các rừng chính đã được xác định thông qua phương
pháp đánh giá nhanh tích lũy các bon (RaCSA) của tổ chức ICRAF. Các bon tích lũy ở phần trên
mặt đất trong các trạng thái rừng được tính toán thông qua việc nhân hệ số 0.46 với giá trị thu
được của sinh khối trong các phần trên mặt đất như: tầng cây gỗ; cây gỗ đổ; tầng dưới tán và lớp
thảm mục. Kết quả thu được trữ lượng các bon của các trạng thái rừng là: Rừng tự nhiên ít bị tác
động (IIIb) đạt 379,29 (tấn C/ha); Rừng tự nhiên bị tác động mạnh (IIIa) đạt 96,24 (tấn C/ha);
Rừng phục hồi sau khai thác (IIb) đạt 87,37 (tấn C/ha); Rừng phục hồi sau nương rẫy (IIa) đạt
36,94 (tấn C/ha). Các yếu tố quyết định trữ lượng các bon là: nguồn gốc, cấu trúc về thành phần
loài, đặc trưng cấu trúc của các thành phần trong các trạng thái, mức độ tác động của các yếu tố
ngoại cảnh và nguồn gốc phục hồi rừng.
Từ khóa: Bắc Kạn, đánh giá nhanh, trạng thái rừng, tích lũy các bon, trên mặt đất
MỞ ĐẦU *
Cácbon được luân chuyển trong chu trình
cácbon toàn cầu giữa bốn “bể chứa” lớn: hóa
thạch và cấu trúc địa chất, khí quyển, các đại
dương và các hệ sinh thái trên cạn [9]. Sự
dịch chuyển giữa các hồ xảy ra chủ yếu là
dịch chuyển cácbon dioxít (CO2) trong các
quá trình đốt cháy nhiên liệu, phân rã hóa học
và khuếch tán, quang hợp, hô hấp, phân hủy,
cháy rừng và đốt nhiên liệu sinh học hiếu khí
và trong lò. Trong trường hợp một thành phần
trong sinh quyển như sinh khối gỗ bị suy
giảm có nghĩa là các bon được giải phóng vào
khí quyển. Nếu sinh khối được tăng lên, nó
trở thành nơi tích lũy và do đó loại bỏ và
giảm được các bon từ khí quyển. Xu thế ngày
càng tăng lượng CO2 trong khí quyển [5],
một phần có thể được quy cho sinh khối
(nhiên liệu sinh học) của thế giới bị suy giảm.
Việc theo dõi tích lũy các bon của các thảm
thực vật toàn cầu là rất quan trọng. Ước tính
*
Tel:0974286646; Email:buivantruong.tuaf@gmail.com
lượng tích lũy các bon tại một khoảng thời
gian nhất định rất có ý nghĩa, bởi nó cho thấy
tiềm năng của thảm thực vật để giải phóng
hoặc tích lũy cácbon.
Hệ sinh thái trên cạn đóng một vai trò quan
trọng trong chu trình các bon toàn cầu (C).
Rừng nhiệt đới ở Việt Nam liên tục thay đổi
do hệ quả của việc khai thác rừng và chuyển
đổi sang các loại hình sử dụng đất khác. Bởi
kết quả của những thay đổi này, những nghiên
cứu về tích lũy các bon của các hệ sinh thái
rừng đã được tiến hành trong vài năm qua ở
Việt Nam. Lượng các bon tích lũy trong các
loại rừng tự nhiên ở Việt Nam từ 66,05 –
206,23 tấn C/ha [1].
Xã Nam Mẫu nằm trong phân khu bảo vệ
nghiêm ngặt của Vườn Quốc gia Ba Bể, thuộc
vùng núi đá vôi xen kẽ các thung lũng đất hẹp
thuộc huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Khu vực xã
nằm trong vùng caxtơ chợ Rã Ba Bể - Chợ
Đồn, khí hậu tại xã Nam Mẫu mang đặc điểm
khí hậu của vùng núi phía Bắc Việt Nam. Trung
tâm của xã là hồ Ba Bể với diện tích 500 ha.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Bùi Văn Trường và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 108(08): 121 - 126
122
Sự bốc hơi liên tục tạo nên vi khí hậu vùng hồ
mát mẻ, giảm bớt sự khắc nghiệt của các mùa.
Tổng diện tích tự nhiên của xã 6.478,94 ha,
trong đó diện tích đất sản xuất nông
nghiệp 175,54 ha; đất lâm nghiệp 5.657,71 ha
và là rừng đặc dụng; 20,86 ha đất nuôi trồng
thủy sản nước ngọt. Đất phi nông nghiệp
599,17 ha, đất chưa sử dụng 25,66 ha.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Các bể chứa cácbon trong thảm thực vật ở
một vùng nhất định tại một thời điểm nhất
định được tính bằng lượng tích lũy các bon
trong sinh khối thực vật trên một đơn vị diện
tích, và được tính bằng kgC/m2 hoặc tấnC/ha.
Số liệu về sinh khối được tính toán dựa trên
điều tra thực địa, dựa trên các phương pháp
điều tra rừng. Trong phạm vi bài báo này,
chúng tôi chỉ tập trung đánh giá khả năng tích
lũy các bon phần trên mặt đất trong các trạng
thái rừng tại xã Nam Mẫu.
Phân loại các trạng thái thảm thực vật rừng
Kết hợp ảnh vệ tinh và các dữ liệu viễn thám
mặt đất đáng tin cậy để phân tích không gian
và phân loại trạng thái thảm thực vật. Ba
nguồn dữ liệu chính được thu thập bao gồm:
ảnh vệ tinh Landsat (2007), các dữ liệu phụ
và bản đồ địa chính. Khảo sát mặt đất trên
thực địa cũng được tiến hành với sự hỗ trợ
của hệ thống định vị toàn cầu (GPS) [8]. Xác
định vị trí của 6 điểm mẫu, để phân loại các
trạng thái của thảm thực vật rừng trên bản đồ
vệ tinh Landsat 2007
Điều tra ô tiêu chuẩn
Trên cơ sở 6 điểm đã được xác định, chúng
tôi tiến hành đo đếm ở cấp độ ô tiêu chuẩn.
Các ô tiêu chuẩn được thống nhất ký hiệu
như sau: IIb-01 (Trạng thái rừng IIb, OTC số
01) hoặc IIIa-02 (Trạng thái rừng IIIa, OTC
số 02).
Phương pháp đo đếm sử dụng phương pháp
đánh giá nhanh tích lũy cácbon – RaCSA
(Rapid Các bon Stock Appraisal) của ICRAF,
kỹ thuật đo đếm theo phương pháp của
Kurniatun Hairiah và đồng tác giả [6].
Xử lý số liệu
Lượng sinh khối khô trên mặt đất được tính
bằng tổng lượng sinh khối khô của cây gỗ
(W), sinh khối khô của cây bụi thảm tươi và
sinh khối khô của lớp vật rụng, thảm mục. Cụ
thể, theo công thức:
DWTrên mặt đất = Wcây gỗ+Wdưới tán+Wthảm mục
(tấn/ha) (1)
Trong đó: DWTrên mặt đất – Lượng sinh khối
khô trên mặt đất (tấn/ha); Wcây gỗ – Lượng sinh
khối khô của tầng cây gỗ (tấn/ha); Wdưới tán -
Lượng sinh khối khô của tầng dưới tán bao
gồm cây bụi và thảm tươi (tấn/ha); Wthảm mục -
Lượng sinh khối khô của tầng thảm mục bao
gồm vật rụng, gỗ chết (tấn/ha).
Theo Meine van Noordwijk (2007) [7], lượng
các bon tích lũy phần trên mặt đất được tính
theo công thức: WC= 0.46 * DWTrên mặt đất
(tấnC/ha) (2)
Trong đó: WC - Lượng các bon tích lũy trong
sinh khối (tấn/ha); DWTrên mặt đất– Lượng sinh
khối khô trên mặt đất (tấn/ha).
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Các trạng thái của thảm thực vật rừng
Dựa trên kỹ thuật phân tích không gian và
thông tin địa lý, chúng tôi đã xác định được
các trạng thái chủ yếu của lớp phủ thực vật.
Rừng tự nhiên ít bị tác động (IIIb)
Loại rừng này phân bố từ độ cao 400 đến
700m, diện tích còn lại nhỏ ít bị tác động, loài
ưu thế: Nghiến (Excentrodendron
tonkinense), Trai (Garcinia fagraeoides),
Đinh (Fernandoa brilletii), Lát hoa
(Chukrasia tabularis), một số loài họ Dẻ
(Fagaceae). Ở ven hồ có loài Trâm (Syzygium
sp.), Kẹn (Aesculus assamica), Si (Ficus sp.),
Mùng Quân (Flacourtia indica).
Rừng tự nhiên bị tác động mạnh (IIIa)
Loại rừng này thường tập trung ở thung lũng
với một số loài chiếm ưu thế như:
(Excentrodendron tonkinense), Trai (Garcinia
fagraeoides), Sấu (Dracontomelon
duperreanum), Thung (Tetrameles nudiflora),
Đinh (Fernandoa brilletii). Trong kiểu này
rừng phân thành 4 tầng rõ rệt, có tầng vượt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Bùi Văn Trường và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 108(08): 121 - 126
123
tán là Thung thân trắng phân biệt với nền
xanh của 3 tầng dưới. Loại rừng này chịu sự
tác động của các cộng đồng dân cư sinh sống
gần đó bởi nhu cầu gỗ lớn.
Rừng phục hồi
Rừng phục hồi sau khai thác (IIb) phân bố
chủ yếu ở độ cao 200 đến 800 m với một số
loài Dẻ (Castanopsis sp.), Thích (Acer fabri),
Lòng mang (Pterospermum sp.), ở trên đỉnh
cao: Đinh (Fernandoa brilletii), Lát hoa
(Chukrasia tabularis), Sấu (Dracontomelon
duperreanum), ở thấp hơn và Hu đay (Trema
orientalis), Trám ba cạnh (Canarium
bengalese), Sồi (Lithocarpus sp.), Chẹo
(Engelhardtia sp.) ở những rừng phục hồi sau
khai thác kiệt. Rừng phục hồi sau nương rẫy
(IIa), đa phần là các cây gỗ tạp: Thôi ba
(Alangium chinense), Cò ke (Grewia sp.),
Hồng bì rừng (Clausena anisata) và các cây
bụi như Thấu kén (Helicteres hirsuta), Ba
chạc (Euodia lepta) đây là trạng thái thảm
thực vật phục hồi sau nương rẫy phân bố rải
rác gần các khu dân cư.
Sinh khối của các trạng thái rừng
Phần sinh khối trên mặt đất của các trạng thái
thảm thực vật được cấu thành từ sinh khối
tầng cây gỗ, sinh khối tầng cây bụi thảm tươi
và sinh khối lớp vật rụng, thảm mục. Sinh
khối được tính theo trọng lượng khô tuyệt đối,
các dẫn liệu được thể hiện tại bảng 1.
Những dẫn liệu tại bảng 1, cho ta thấy: (1)
Sinh khối của rừng phục hồi sau nương rẫy từ
78,77 – 81,83 tấn/ha; (2) Sinh khối của rừng
phục hồi sau khai thác từ 186,61 - 193,25
tấn/ha; (3) Sinh khối của rừng tự nhiên bị tác
động mạnh từ 207,12 - 211,30 tấn/ha; (4)
Sinh khối của rừng tự nhiên ít bị tác từ 810,31
- 838,76 tấn/ha; (5) Sinh khối của loại hình
rừng phụ thuộc vào đặc điểm cấu trúc rừng và
đặc biệt là mức độ tác động của các yếu tố
(con người, chăn thả,...) và nguồn gốc phục
hồi rừng.
Bảng 1. Sinh khối khô tuyệt đối của các trạng thái rừng tại xã Nam Mẫu
Trạng
thái
rừng/OTC
Sinh khối (tấn/ha)
Cây gỗ lớn
(D1.3 >30cm)
Cây gỗ nhỏ
(5cm<D1.3<30cm) Cây đổ
Tầng dưới
tán Thảm mục Tổng số
IIa-01 - 72,53 - 2,73 6,57 81,83
IIa-02 - 70,51 - 2,03 6,23 78,77
IIb-01 93,74 65,73 19,39 2,83 4,92 186,61
IIb-02 98,71 68,31 18,59 2,03 5,61 193,25
IIIa-01 43,85 156,43 0,12 6,89 4,01 211,30
IIIa-02 33,59 162,19 0,07 7,54 3,73 207,12
IIIb-01 663,54 99,84 31,85 6,73 8,35 810,31
IIIb-02 678,99 102,93 38,58 9,31 8,95 838,76
0.00
50.00
100.00
150.00
200.00
250.00
300.00
350.00
400.00
IIa-01 IIa-02 IIb-01 IIb-02 IIIa-01 IIIa-02 IIIb-01 IIIb-02
37.64 36.23
85.84 88.90 97.20 95.28
372.74 385.83tấn C/ha
Hình 1. Lượng cácbon tích lũy trong các trạng thái rừng tại xã Nam Mẫu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Bùi Văn Trường và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 108(08): 121 - 126
124
Lượng các bon tích lũy trong các trạng
thái rừng
Dựa trên cơ sở sinh khối của các trạng thái
của thảm thực vật, sử dụng công thức 2 lượng
các bon tích lũy trong các trạng thái thảm
thực vật của xã Nam Mẫu đã được xác định
(hình 1).
Từ những dẫn liệu của hình 1, ta thấy rằng:
(1) Lượng các bon tích lũy trong trạng thái
rừng phục hồi sau nương rẫy (IIa) đạt 36,94
tấnC/ha; (2) Đối với các trạng thái rừng phục
hồi sau khai thác (IIb) lượng các bon tích lũy
đạt 87,37 tấnC/ha; (3) Loại rừng tự nhiên bị
tác động mạnh (IIIa) có trữ lượng các bon đạt
96,24 tấnC/ha; (4) Trữ lượng các bon của
trạng thái rừng ít bị tác động (IIIb) đạt 379,29
tấn C/ha. Dẫn liệu về lượng các bon tích lũy
trong các trạng thái rừng trên đây được tính
trung bình dựa trên số liệu của các ô tiêu
chuẩn điều tra đối với từng loại rừng.
Tỷ lệ các bon tích lũy trong các thành phần so
với tổng lượng các bon tích lũy trong các
trạng thái rừng được thể hiện ở bảng 2.
Các dẫn liệu ở bảng 2 cho thấy:
(1) Tỷ lệ các bon tích lũy trong tầng cây gỗ
rất lớn từ 85,45% – 94,52 %;
(2) Tỷ lệ các bon tích lũy trong cây đổ chiếm
0 – 10,39 %, sở dĩ có sự chênh lệch lớn này là
do một số trạng thái như rừng phục hồi sau
nương rẫy (IIa) và rừng tự nhiên bị tác động
mạnh (IIIa) lúc này chưa có sự đào thải tự
nhiên nên số cây chết đổ hầu như không có.
Đối với rừng phục hồi sau khai thác (IIb) và
rừng tự nhiên ít bị tác động (IIIb) ở thời điểm
nghiên cứu rừng được bảo vệ tương đối tốt
nên các trạng thái này đang ở quá trình diễn
thế theo quy luật tự nhiên: Ở rừng IIb các loài
cây ưa sáng mọc nhanh bị đào thải thay vào
đó là các loài có đời sống cố định, sống lâu
năm; Ở trạng thái rừng IIIb, một số loài cây
gỗ lớn cũng bị đào thải tự nhiên do quá trình
già cỗi hoặc do gió bão làm đổ.
(3) Trữ lượng các bon ở tầng dưới tán chiếm
tỷ lệ từ 0,83% - 3,64%. Tỷ lệ này biến động
phụ thuộc vào một số yếu tố như: Mức độ tàn
che, độ tàn che thấp, tầng dưới tán được chiếu
sáng mạnh nên sinh khối và trữ lượng các bon
nhiều (rừng IIa); Hoặc phụ thuộc vào mức độ
tái sinh, trạng thái IIIa có mật độ cây tái sinh
(cây gỗ có đường kính D1.3<cm) nên sinh khối
và trữ lượng các bon của tầng dưới tán cũng
lớn hơn so với các trạng thái rừng còn lại.
(4) Tỷ lệ lượng các bon tích lũy trong tầng
thảm mục chiếm từ 1,03% – 8,03 %, tỷ lệ
này có ý nghĩa quan trọng đối với việc lưu
giữ các bon, vì đây là phần trung gian của
quá trình dịch chuyển các bon từ thảm thực
vật tới bể chứa các bon trong đất, khoảng
thời gian tích lũy các bon trong đất được
đánh giá là lâu nhất.
Bảng 2. Tỷ lệ các bon tích lũy trong các thành phần của các trạng thái rừng tại xã Nam Mẫu
Trạng thái
rừng/OTC
Tỷ lệ các bon tích lũy (%)
Tầng cây gỗ Cây đổ Tầng dưới tán Thảm mục
IIa-01 88.63 0.00 3.34 8.03
IIa-02 89.51 0.00 2.58 7.91
IIb-01 85.45 10.39 1.52 2.64
IIb-02 86.43 9.62 1.05 2.90
IIIa-01 94.78 0.06 3.26 1.90
IIIa-02 94.52 0.03 3.64 1.80
IIIb-01 94.21 3.93 0.83 1.03
IIIb-02 93.22 4.60 1.11 1.07
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Bùi Văn Trường và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 108(08): 121 - 126
125
Trên đây là những dẫn liệu ban đầu góp phần
làm sáng tỏ khả năng tích lũy các bon của
rừng. Đóng góp cho việc cung cấp cơ sở
khoa học cho việc tham gia chương trình
giảm phát thải khí nhà kính thông qua mất
rừng và suy thoái rừng (REDD+) ở Việt
Nam đối với các loại rừng tự nhiên tại xã
Nam Mẫu thuộc vùng lõi của VQG Ba Bể,
thông qua hoạt động tăng cường trữ lượng và
bảo tồn các bon rừng.
KẾT LUẬN
1. Các trạng thái rừng chủ yếu trên địa bàn xã
Nam Mẫu gồm: Rừng tự nhiên ít bị tác động
(IIIb); Rừng tự nhiên bị tác động mạnh (IIIa);
Rừng phục hồi sau khai thác (IIb); Rừng phục
hồi sau nương rẫy (IIa).
2. Trữ lượng các bon (tấn C/ha) tích lũy trong
các trạng thái rừng: Rừng tự nhiên ít bị tác
động (IIIb); Rừng tự nhiên bị tác động mạnh
(IIIa); Rừng phục hồi sau khai thác (IIb);
Rừng phục hồi sau nương rẫy (IIa) lần lượt
đạt: 379,29; 96,24; 87,37; 36,94.
3. Sinh khối và trữ lượng các bon trên mặt
đất của các trạng thái rừng phụ thuộc vào đặc
điểm cấu trúc rừng (nguồn gốc, cấu trúc về
thành phần loài, cấu trúc của các thành phần
trong các trạng thái) và đặc biệt là mức độ tác
động của các yếu tố (con người, chăn thả,...)
và nguồn gốc phục hồi rừng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tấn Phương, (2009), Nghiên cứu định giá
rừng ở Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ
thuật, Hà Nội.
2. Vũ Tấn Phương, (2006), ”Trữ lượng cácbon
của cây bụi và thảm tươi, cơ sở để xác định kịch
bản đường các bon cơ sở trong các dự án trồng
rừng và tái trồng rừng theo cơ chế phát triển sạch
ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Bộ
Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn - Số 1.
(Tham khảo tại:
2006/5fuongvt_2006_biomas_carbon.pdf)
3. Ngô Đình Quế, (2008), Ảnh hưởng của một số
loại rừng đến môi trường ở Việt Nam. Nhà xuất
bản Nông nghiệp, Hà Nội.
4. Keeling C.D. & Whorf T.P, (2002),
“Atmospheric CO2 records from sites in the SIO
air sampling network”. Oak Ridge National
Laboratories, Các bon Dioxide Information
Center. Available at:
5. Ketterings QM, Coe R, van Noordwijk M,
Ambagau Y and Palm CA., (2001), “Reducing
uncertainty in the use of allometric biomass
equations for predicting above-ground tree
biomass in mixed secondary forests”, Forest
Ecology and Management, 120, 199-209.
6. Kurniatun Hairiah, SM Sitompul, Meine van
Noordwijk and Cheryl Palm, (2001), “Methods for
sampling carbon stocks above and below ground”.
ASB lecture note 4b. Bogor, Indonesia.
7. Meine van Noordwijk, (2007), Rapid Carbon
Stock Appraisal (RaCSA). ICRAF, Bogor, Indonesia.
8. Richards, J.A., X. Jia, (2006), Remote Sensing
Digital Image Analysis: An Itroduction, 4th Ed.,
439 pages. Springer, Heidelberg.
9. Schimel, D.S. et al., (2001), ”Recent patterns
and mechanisms of các bon exchange by
terrestrial ecosystems”, Nature, 414,169–172.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Bùi Văn Trường và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 108(08): 121 - 126
126
SUMMARY
RAPID ASSESSMENT ABOVE GROUND CAC BON STOCK
OF SOME FOREST STATES IN NAM MAU COMMUNE,
BA BE DISTRICT, BAC KAN PROVINCE
Bui Van Truong*, Bui Van Tan, Do Hoang Chung
College of Agriculture and Forestry – TNU
Estimated amount of carbon stock at a certain time period is significant because it shows the
potential of vegetation in the release or absorption of các bon. Through remote sensing techniques
and spatial data, the main types of the forest in Nam Mau commune has been identified. On the
basis of 8 points have been identified, the value of carbon stock in various types of forest have
been identified by rapid assessment carbon stock method (RaCSA) of ICRAF. The accumulation
of carbon above ground in the forest types is calculated by multiplying coefficient with 0,46 value
of biomass obtained in the section above ground such as wooden trees, dead felled trees,
understorey and litter layer. Carbon accumulation (ton C/ha) in each forest types (The less affected
natural forests –IIIb; The strong disturbed natural forest – IIIa; The recovered forest after
extraction – IIb; The recovered forest after shifting cultivation - IIa) are 379.29; 96.24; 87.37;
36.94, respectively. The carbon (C) stock in forest types depends on derived, the structure of
species composition, structural characteristics of the components in the state, the impact of
external factors and origin forest restoration.
Key words: Accumulation of carbon, above ground, Bac Kan, forest type, rapid assessment.
*
Tel:0974286646; Email:buivantruong.tuaf@gmail.com
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_39877_43438_18102013152413121_0882_2051872.pdf