Hơn thế nữa, nội dung đánh giá này đồng thời cũng là tư liệu khoa học cho
việc định hình Chuẩn đầu ra cho chương trình đào tạo GV tiểu học theo cách tiếp
cận năng lực, một nội dung mà về thực tế, chương trình đào tạo chưa thực sự đề
cập. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn này của kết quả nghiên cứu bắt nguồn từ một
nguyên lí đó là đánh giá nào cũng vậy, luôn phải là một tiến trình xem xét để xác
định các kết quả đầu ra (mục tiêu đào tạo) đã định trước của chương trình đạt
được đến đâu, ở mức độ thế nào trên đối tượng người học.
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá giáo sinh tiểu học trong thực tập sư phạm theo cách tiếp cận năng lực, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Hoàng Thị Tuyết
_____________________________________________________________________________________________________________
39
ĐÁNH GIÁ GIÁO SINH TIỂU HỌC
TRONG THỰC TẬP SƯ PHẠM THEO CÁCH TIẾP CẬN NĂNG LỰC
HOÀNG THỊ TUYẾT*
TÓM TẮT
Bài viết trình bày cơ sở lí thuyết và thực tiễn của việc xây dựng nội dung đánh giá
giáo sinh thực tập sư phạm (TTSP) tiểu học theo mô hình năng lực bao gồm ba tầng: lĩnh
vực, tiêu chí và chỉ báo cùng với thang định chất lượng 5 mức độ đạt: xuất sắc, tốt, khá,
trung bình và không đạt. Mô hình này được xác lập từ tiến trình phân tích, tổng hợp và
đánh giá các tài liệu đào tạo giáo viên (GV) tiểu học hiện hành trong nước cũng như mô
hình đào tạo năng lực của các chương trình TTSP quốc tế.
Từ khóa: thực tập sư phạm, năng lực nghề nghiệp, mô hình năng lực.
ABSTRACT
Evaluation of primary student teachers in practicum
in accordance with the competency-based approach
This article presents the theoretical and practical foundation of the content
development for evaluation of student teachers in practicum in accordance with the three-
tier competency model of primary student teachers: domains, criteria and descriptors with
a five-level scale for criteria quality. This competency model is shaped from the process of
analysis, synthesis and evaluation of domestic documents involving training primary
teachers and the competency-based training models in international teacher programs.
Keywords: teaching practicum, occupational competence, competency model.
*TS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM
1. Cơ sở lí thuyết và thực tiễn của
việc đánh giá giáo sinh tiểu học trong
thực tập sư phạm theo cách tiếp cận
năng lực
1.1. Cách tiếp cận năng lực trong đánh
giá giáo sinh thực tập sư phạm
Khi bối cảnh toàn cầu hóa đòi hỏi
GV phải có khả năng hướng dẫn người
học trong một thế giới kiến thức mở rộng
vô cùng, giúp trẻ học cách học xử lí
thông tin, giao tiếp và giải quyết vấn đề
hiệu quả và có trách nhiệm trong nhiều
tình huống phức hợp của cuộc sống, thì
TTSP như một nguồn thực tiễn quan
trọng giúp phát triển chuyên môn cho
giáo sinh không thể dừng ở quan niệm
truyền thống. Nhiều tài liệu đã chỉ ra rằng
cách tiếp cận truyền thống đối với TTSP
nhấn mạnh nhiều vào kiến thức kĩ thuật
(technical knowledge) vốn là một phần
nhỏ trong kiến thức chuyên môn sư phạm
và không đủ chuẩn bị cho GV thực hiện
những vai trò chuyên môn của mình
trong dạy học (Shulz, 2005) [19]. TTSP
hiện nay có xu hướng tập trung vào phát
triển kiến thức chuyên môn, ít chú trọng
đến kiến thức và kĩ năng sống thiết yếu
khác có tính ứng dụng cao. Sinh viên
(SV) được tạo điều kiện tập trung rèn
luyện năng lực dạy học, ít quan tâm đến
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 62 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________
40
việc rèn luyện các năng lực giáo dục,
năng lực tổ chức các hoạt động sư phạm
khác, đến kiến thức nội dung môn học, và
năng lực giao tiếp sư phạm (Phạm Văn
Luân, 2008) [8]. Kiểu kinh nghiệm đạt
được từ TTSP này, theo Darling-
Harmmond, có thể “xã hội hóa” giáo sinh
vào tiến trình duy trì địa vị, thân thế hiện
tại hơn là giúp phát triển cách tiếp cận
truy tìm khám phá và phân tích phê phán
trong đó dạy học được xem như là một
nghề nghiệp được củng cố bởi việc học
tập suốt đời. [7]
Trên thực tế, các nghiên cứu về đề
tài TTSP đã có xu hướng tập trung vào
tìm hiểu đánh giá thực trạng TTSP và thể
hiện năng lực của giáo sinh thông qua các
đợt thực tập. Chẳng hạn, báo cáo khoa
học của Nguyễn Thị Thu Hằng và các tác
giả khác (2009) đã đi sâu khảo sát, phân
tích khá toàn diện thực trạng TTSP của
SV sư phạm Trường Đại học Ngoại ngữ,
Đại học Quốc gia Hà Nội, từ thực trạng
về năng lực giảng dạy và chủ nhiệm đến
những thuận lợi, khó khăn và những thay
đổi về thái độ mà SV đã trải qua trong
quá trình TTSP. Với nghiên cứu Xác định
tiêu chí đánh giá năng lực giáo dục cho
SV sư phạm TTSP (tốt nghiệp)”, Nguyễn
Thanh Bình, thuộc Viện Nghiên cứu Đại
học Sư phạm Hà Nội (2012) đã xác định
các tiêu chí đánh giá năng lực giáo dục
của SV sư phạm trong quá trình TTSP,
trên cơ sở đó đề xuất cách sử dụng để cải
tiến đào tạo và đánh giá những năng lực
giáo dục cần có của GV trong tương lai.
[1]
Trên bình diện quốc tế, tiếp cận
năng lực trong đánh giá giáo sinh thực
tập đã trở thành chiến lược tư tưởng được
áp dụng phổ biến. Conway, Murphy,
Rath; & Hall [12] và Malloch, Cairns &
Evans [16] đã giới thiệu hai tài liệu
nghiên cứu mang tính chất tổng quan, đa
diện về công tác TTSP của nhiều nước
trên thế giới hiện nay. Nội dung nổi bật
liên quan đến đề tài nghiên cứu được tìm
thấy từ hai công trình nghiên cứu đồ sộ
mang tầm quốc tế này đó là tính chuẩn
hóa và chuyên biệt hóa của nội dung, quy
trình TTSP và chuẩn đánh giá kết quả
TTSP của 22 trường đại học có khoa sư
phạm đào tạo giáo viên. Diện mạo của
nội dung và biểu mẫu đánh giá TTSP
mang tính chuẩn hóa và chuyên biệt hóa
này phản ánh lí thuyết về cách tiếp cận
năng lực trong đào tạo giáo viên nói riêng
và trong giáo dục đại học nói chung. Bên
cạnh đó, quá trình phát triển các chương
trình giáo dục và đào tạo giáo viên theo
cách tiếp cận năng lực/dựa vào năng lực
cũng được nhận ra trong nhiều bài viết,
bài báo và sách chuyên khảo quốc tế.
Vì vậy, các chương trình đào tạo
GV nói chung và TTSP nói riêng đã và
đang được đòi hỏi như một quy luật tất
yếu, là tập trung vào việc phát triển các
năng lực cho giáo sinh nhằm giúp họ có
thể dạy học một cách hiệu quả trong các
lớp học ở thế kỉ XXI.
1.2. Nội dung đánh giá giáo sinh thực
tập sư phạm hiện hành
Trong bối cảnh đòi hỏi đánh giá
nghề nghiệp sư phạm theo cách tiếp cận
năng lực như trên thì công tác TTSP tại
các trường sư phạm ở nước ta có vẻ vẫn
còn đang dậm chân tại chỗ với cách nghĩ
cũ. Hội thảo khoa học về công tác thực
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Hoàng Thị Tuyết
_____________________________________________________________________________________________________________
41
tập tại các trường sư phạm của Viện
Nghiên cứu Giáo dục Trường Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHSP
TPHCM) năm 2008 đã cung cấp nhiều
nhận định khái quát cùng với các phân
tích lí giải cụ thể liên quan đến thực tế
triển khai mảng hoạt động quan trọng này
trong các trường có khoa đào tạo GV.
Theo hội thảo, quy trình tổ chức tập
luyện trong TTSP nhìn chung “đa dạng”,
song cũng có một điểm khá thống nhất
giữa các trường, đó là chủ nghĩa kinh
nghiệm và sự cắt xén tùy tiện về nội
dung, quy trình thao tác, về tiêu chí đánh
giá (Trần Anh Tuấn, 2008) [8]. Việc
đánh giá không dựa trên những tiêu chí
rõ ràng, thống nhất mà chủ yếu dựa vào
cảm tính của mỗi GV hướng dẫn (Võ
Văn Chương, 2008) [8]. Lâu nay, các
trường sư phạm đào tạo nghiệp vụ sư
phạm nhưng chưa có được những quy
chuẩn thống nhất (Đoàn Trọng Thiều,
2008) [8]. Các Quy chế TTSP theo tín chỉ
hiện nay của các trường chủ yếu vẫn chỉ
thêm một số điều chỉnh cụ thể nội dung,
quy trình thời kì trước đây (Trần Anh
Tuấn, 2008) [8]. Việc vận dụng Quy chế
36 của Bộ Giáo dục và Đào tạo vào công
tác thực hành, TTSP còn đang lúng túng
trong việc xác định mục tiêu cụ thể cho
từng hệ. Nhiều nội dung TTSP chưa thể
cụ thể hóa được, có nội dung phù hợp
cho hệ này lại chưa đáp ứng được với hệ
đào tạo khác (Lê Nguyên Hùng, 2008)
[8]. Vì vậy, đánh giá TTSP nhìn chung
thiếu sự công bằng (Võ Văn Chương,
2008) [8], khác nhau trong đánh giá điểm
TTSP đối với SV của GV hướng dẫn
thực tập ở trường phổ thông và mầm non
(Đoàn Trọng Thiều, 2008) [8]. Tỉ lệ SV
xếp loại TTSP “Giỏi” đến 70-80% theo
hướng tỉ lệ nghịch với chất lượng tay
nghề thực của họ (Trần Anh Tuấn, 2008)
[8].
Khái quát hơn, Kiều Thế Hưng đã
nhận định, trong nhiều thập kỉ qua,
dường như không có tài liệu chính thống
về TTSP với tư cách là tài liệu chuyên
môn, khoa học mà chỉ mới dừng ở chỗ là
tài liệu hướng dẫn, quy chế và tổ chức
quản lí TTSP về mặt hành chính [8]. So
sánh nhanh các tài liệu TTSP của khoảng
mười trường đại học có khoa sư phạm
trên thế giới với các bộ tài liệu hướng
dẫn/hoặc quy chế TTSP của các trường
đại học sư phạm ở Việt Nam hiện nay,
chúng ta có thể thấy nhận định của Kiều
Thế Hưng đáng phải xem xét, nghiên cứu
kĩ lưỡng để có thể đi đến việc tạo nên
diện mạo thật sự khoa học cho các tài
liệu về đánh giá TTSP của các trường sư
phạm nước ta.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã
sử dụng 5 bảng hỏi ý kiến về 5 phiếu
đánh giá TTSP hiện hành của Trường
ĐHSP TPHCM từ các đối tác liên quan
trực tiếp đến công tác TTSP (106 giáo
sinh (GSTH) Khoa Giáo dục tiểu học vừa
hoàn thành đợt TTSP kì 2/2013; 126 GV
tiểu học nhiều năm tham gia hướng dẫn
TTSP (GVHD), 26 giảng viên Khoa Giáo
dục Tiểu học (GVKTH) thuộc ĐHSP
TPHCM và Đại học Sài Gòn với 16
chuyên gia (CG), những người đang làm
việc trong lĩnh vực đánh giá giáo dục ở
trường đại học và các viện nghiên cứu).
Kết quả khảo sát đã cho thấy một tình
huống khá phức tạp trong nhận thức về
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 62 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________
42
các phiếu đánh giá trên từ góc nhìn tiếp
cận năng lực. Xét trung bình chung của
tổng các tỉ lệ của các ý kiến chi tiết,
chúng tôi nhận thấy: trong lúc hơn 95%
GVHD, hơn 80% GVKTH và hơn 65%
GSTH “đồng ý và rất đồng ý” rằng các
phiếu đánh giá có vẻ như đã tiếp cận
được với cách tiếp năng lực thì chỉ có gần
17% CG có nhận định như thế. Cụ thể
hơn, nhận định của đa số CG trong khảo
sát là hầu hết các phiếu đánh giá TTSP
hiện hành trong Quy chế hướng dẫn
TTSP (Tìm hiểu thực tế giáo dục; Thực
tập giáo dục - Đánh giá tiết dạy; Thực tập
giảng dạy và Kết quả TTSP) đều liệt kê
những tiêu chí đánh giá dựa trên quan
điểm dạy học tập trung vào nội dung hoạt
động mà không phải là dạy học tập trung
vào phát triển năng lực.
Điều đáng lưu ý là ý kiến của các
đối tượng tham gia khảo sát trái chiều
nhau ở một nội dung có thể nhìn thấy
trực tiếp trên các biểu mẫu đánh giá
TTSP hiện nay và được đặt ra xuyên suốt
ở 5 bảng hỏi. Nội dung đó là “Anh chị
thấy rằng có thang đo gồm 4 hay 5 mức
độ cùng với phần mô tả các biểu hiện của
mỗi mức độ trên thang đo ấy trong mỗi
Phiếu đánh giá.”. Rõ ràng, trong 5 phiếu
đánh giá TTSP hiện hành không hề có
thang đo và mô tả biểu hiện của các mức
độ trên thang đo. Thế nhưng có đến hơn
95 % GVHD và hơn 60% GVKTH đồng
ý và rất đồng ý là có thang đo ấy. Trong
lúc đó, chỉ khoảng 30% GSTH đồng ý, và
đặc biệt, đại đa số (hơn 95%) CG tham
gia khảo sát rất không đồng ý tình trạng
có thang đo này trong các Phiếu đánh giá
TTSP hiện hành. Kết quả này chỉ ra một
thực tế rằng có vẻ như những người trực
tiếp đánh giá kết quả TTSP của GSTH có
nhận thức và hiểu biết khá mơ hồ về đánh
giá giáo dục. Trong lúc đó, người được
đánh giá là GSTH dường như thể hiện
hiểu biết rõ hơn, chính xác hơn về đánh
giá. Nói cách khác, kết quả này cho thấy
việc xem xét và xác định chất lượng của
các nội dung và biểu mẫu đánh giá cần
phải được thực hiện thận trọng và khoa
học bởi những người am hiểu về khoa
học đánh giá và giáo dục.
Tóm lại, nội dung đánh giá kết quả
TTSP đã được nhiều bài viết, bài tham
luận hội thảo quốc gia đưa ra bàn bạc như
một vấn đề cấp bách cần quan tâm giải
quyết để có được những tài liệu hướng
dẫn TTSP mang tính khoa học nhiều hơn,
tính chuyên môn cao hơn. Tuy nhiên,
chưa có nhiều nghiên cứu sâu và phát
triển tài liệu cho vấn đề này. Đặc biệt,
hướng nghiên cứu nội dung TTSP và
biểu mẫu đánh giá dành riêng cho các
khoa đào tạo đặc thù (Nguyễn Thị Hải
Phượng 2011) [7] trong đó có khoa sư
phạm tiểu học lại càng chưa được quan
tâm, mặc dù ai cũng nhận ra rằng Đào
tạo GV tiểu học cần chú trọng những kĩ
năng nghề nghiệp dạy học đặc thù ở tiểu
học (Hà Văn Khải 2011) [6].
2. Xây dựng nội dung và biểu mẫu
đánh giá giáo sinh thực tập sư phạm
tiểu học
Tiến trình lược khảo lịch sử vấn đề
nghiên cứu từ lí thuyết và thực tiễn vừa
trình bày trên cho phép chúng tôi đi đến
khẳng định sự hiện hữu có tính cấp thiết
về nhu cầu xây dựng văn bản mô tả nội
dung đánh giá TTSP cùng các biểu mẫu
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Hoàng Thị Tuyết
_____________________________________________________________________________________________________________
43
đánh giá đi kèm theo cách tiếp cận năng
lực, phù hợp với đặc thù của khoa đào tạo
GV tiểu học. Nội dung và biểu mẫu đánh
giá này hướng đến việc góp phần nâng
cao chất lượng của quá trình đào tạo GV
tiểu học theo hướng thực hiện 1 trong 14
Chương trình mục tiêu quốc gia của
chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam
2009-2020 là “Tăng cường năng lực giáo
dục nghề nghiệp”, từ đó, nâng cao hiệu
quả giáo dục đào tạo GV tiểu học, làm
cho chương trình này có thể bước đầu
tiếp cận được với chất lượng đào tạo GV
của khu vực và quốc tế. [3]
Nội dung và biểu mẫu đánh giá
năng lực giáo sinh TTSP tiểu học được
xác lập từ tiến trình phân tích, tổng hợp
và đánh giá các tài liệu quan trọng về
công tác đào tạo GV tiểu học hiện hành
trong nước như Chuẩn nghề nghiệp GV
tiểu học, Chuẩn đầu ra trình độ đại học
khối ngành sư phạm đào tạo GV tiểu học,
Quy chế TTSP của trường ĐHSP ban
hành năm 2011 kết hợp với việc tìm hiểu,
vận dụng các khái niệm chủ chốt như
quan niệm về năng lực GV và mô hình
đào tạo năng lực của các chương trình
TTSP quốc tế.
2.1. Quan niệm về năng lực giáo viên
Về mặt từ nguyên, năng lực là khả
năng đáp ứng thích hợp và đầy đủ mọi
yêu cầu của một lĩnh vực hoạt động. Từ
góc nhìn tâm lí học, năng lực được xác
định cụ thể hơn như một tập hợp các tính
chất hay phẩm chất cá nhân của tâm lí cá
nhân đóng vai trò là điều kiện bên trong,
tạo thuận lợi cho việc thực hiện một dạng
hoạt động nhất định (Vũ Dũng, 2000)
[19]. Hoặc năng lực là tổng hợp những
thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp
với những yêu cầu đặc trưng của một
hoạt động nhất định, nhằm đảm bảo việc
hoàn thành có kết quả tốt trong lĩnh vực
hoạt động ấy. Ba loại thuộc tính của năng
lực: thuộc tính cơ sở, thuộc tính chủ đạo,
thuộc tính hỗ trợ. Hai kiểu năng lực là
năng lực chung và năng lực riêng (Bùi
Văn Huệ, 1996) [5].
Trên bình diện giáo dục phổ thông,
năng lực được hiểu là tiến trình tích hợp
các kĩ năng tác động một cách tự nhiên
lên các nội dung trong một loại tình
huống cho trước để giải quyết những vấn
đề do những tình huống này đặt ra. Năng
lực có tính tổng hợp, tích hợp. Có các
loại năng lực: năng lực bộ môn, năng lực
liên môn, năng lực xuyên môn. Năng lực
xét trên phạm vi giáo dục nghề nghiệp là
tập hợp những kĩ năng, thái độ - phẩm
chất hay giá trị và kiến thức được sử
dụng một cách hiệu quả để thực hiện
những mục đích cụ thể trong những lĩnh
vực nghề nghiệp chuyên biệt (Barnett,
1992). [11]
Trên cơ sở các định nghĩa trên về
năng lực, chúng tôi xác định năng lực
nghề nghiệp của GV là tổ hợp những kĩ
năng, kiến thức và phẩm chất cá nhân
tương ứng với những đòi hỏi của một
lĩnh vực hoạt động nào đó của công việc
dạy học. Năng lực này bao hàm “tài –
đức”, có tính tổng hợp và tích hợp, tính
thích dụng và dễ chuyển di trong những
tình huống cụ thể. Các thành tố kiến thức,
kĩ năng và phẩm chất quan hệ biện chứng
(có thể chuyển hóa lẫn nhau). Năng lực
nghề nghiệp này được định hình theo
hướng phân biệt xu hướng giáo dục hàn
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 62 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________
44
lâm và xu hướng thực tiễn nghề nghiệp
kết hợp với cách tiếp cận nhấn mạnh phát
triển năng lực nhận thức chung (Barnett,
1992) [11] được phản ánh trong bảng
dưới đây:
Chuyên biệt Chung
(Trong nhà trường)
Giáo dục
Những năng lực chuyên
ngành
Những năng lực trí tuệ
chung
(Ngoài nhà trường)
Nghề nghiệp
Những kĩ năng nghề
nghiệp
(professional skills)
Những khả năng cá nhân
có thể chuyển di
(transferable personal
abilities)
Mỗi năng lực thành phần trong năng lực giáo sinh TTSP được phân tích dựa trên
tháp phân loại 4 cấp độ thể hiện năng lực của Miller (1990) [17] như sau:
2.2. Cấu trúc nội dung đánh giá giáo sinh thực tập sư phạm tiểu học
2.2.1. Theo Chuẩn nghề nghiệp GV tiểu học - Mục tiêu của Chương trình đào tạo giáo
viên tiểu học và Quy chế hướng dẫn thực tập sư phạm
Xem xét các văn bản pháp quy hiện hành liên quan trực tiếp đến việc đào tạo và
đánh giá GV, chúng tôi nhận thấy cấu trúc nội dung đánh giá trong Chuẩn nghề nghiệp
GV tiểu học và Mục tiêu của Chương trình đào tạo GV tiểu học đồng nhất với nhau. Cụ
thể cả hai văn bản này đều đề cập ba lĩnh vực: (1) Phẩm chất; (2) Kiến thức; và (3) Kĩ
năng sư phạm.
Chuẩn nghề nghiệp
GV tiểu học
Mục tiêu đào tạo
của CTĐT GV tiểu học Quy chế-hướng dẫn TTSP
1. Phẩm chất chính trị, lối
sống đạo đức
2. Kiến thức
3. Kĩ năng sư phạm
1. Phẩm chất
2. Kiến thức
3. Kĩ năng sư phạm
1. Tìm hiểu giáo dục
2. Chủ nhiệm
3. Giảng dạy
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Hoàng Thị Tuyết
_____________________________________________________________________________________________________________
45
Trong khi đó, không theo cấu trúc
của hai văn bản trên, hầu hết nội dung
của các phiếu đánh giá trong Quy chế
hướng dẫn TTSP hiện hành của các
trường sư phạm đều liệt kê những tiêu chí
đánh giá dựa trên quan điểm tập trung
vào nội dung hoạt động trong đợt TTSP
(Tìm hiểu thực tế giáo dục; Chủ
nhiệm; và Dạy học) mà chưa phải là tập
trung vào đánh giá kiến thức, kĩ năng sư
phạm, phẩm chất đạo đức, càng không
tập trung vào đánh giá năng lực. [2], [9]
2.2.2. Theo mô hình năng lực giáo viên
trong các văn bản chương trình đào tạo
sư phạm quốc tế
Trong phạm vi xem xét tư liệu của
nghiên cứu này, hầu hết các chương trình
đào tạo GV trên thế giới đều phản ánh
cách tiếp cận năng lực. Có thể điểm qua
bốn mô hình năng lực GV nổi bật. Một là
mô hình cấu trúc năng lực GV của
chương trình đào tạo GV tại 9 quốc gia
thuộc châu Âu, châu Mĩ và Úc đã được
Conway; Murphy; Rath; & Hall (2009)
khái quát. Mô hình này bao gồm ba lĩnh
vực:
- Kiến thức/ Hiểu biết chuyên môn;
- Năng lực thực hành chuyên môn
bao gồm Năng lực chuyên ngành (cơ
bản); Năng lực chung (cơ sở) như kĩ năng
tư duy, độc lập giải quyết vấn đề, làm
việc hợp tác, giao tiếp; và Năng lực hỗ
trợ bao gồm năng lực công nghệ, ngoại
ngữ, mĩ thuật;
- Phẩm chất - Giá trị - Các mối quan
hệ và Tinh thần tận tụy cá nhân đối với
chuyên môn. [12]
Theo mô hình này, năng lực nghề
nghiệp GV là một tổ hợp ba năng lực
chung, chuyên ngành và hỗ trợ. Mỗi lĩnh
vực năng lực được phân thành hai hướng:
tổng quát và chuyên biệt. Chẳng hạn kiến
thức chuyên môn/ sư phạm tổng quát và
kiến thức chuyên môn/ sư phạm chuyên
biệt (toán tiểu học, tiếng Việt tiểu học,
tâm lí HS tiểu học); thực hành chuyên
môn sư phạm tổng quát và chuyên biệt.
Hai lĩnh vực kiến thức và giá trị được đưa
riêng biệt với những nội dung cụ thể,
hiện đại, phản ánh những đòi hỏi của kỉ
nguyên mới đối với GV với tư cách là
CG [12].
Hai là, cách phân loại các loại năng
lực GV của Tổ chức Australian Institute
for Teaching and School Leadership
(2011) [10] và Richards (2011) [18]. Mô
hình năng lực mà hai hai tác giả này đề
xuất là một cấu trúc bao gồm 3 lĩnh vực:
(1) Kiến thức chuyên môn; (2) Thực hành
chuyên môn; và (3) Tham gia chuyên
môn. Năng lực giảng dạy, năng lực giáo
dục và các phẩm chất giá trị chuyên môn
được thể hiện và mô tả một cách phức
hợp, tinh tế trong hai lĩnh vực Thực hành
chuyên môn và Tham gia chuyên môn.
Thứ ba, theo quan điểm tổng thể
(holistic view) kết hợp giữa xu thế giáo
dục hàn lâm với giáo dục nghề nghiệp
của Barnett (1992) [11], Irina Suciu1 and
Mâţă (2011) [15] đã phác thảo mô hình 2
loại năng lực sư phạm: Năng lực sư phạm
tổng quát (general pedagogial
competence) và Năng lực sư phạm
chuyên biệt (special pedagogical
competence). Năng lực sư phạm tổng
quát là một tập hợp của nhiều năng lực
như tổ chức, lập kế hoạch, giao tiếp, hợp
tác, phản biện và tự điều khiển, học tập
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 62 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________
46
suốt đời, thực hiện ý tưởng giáo dục và
công nghệ mới, diễn đạt, phát triển các
môi trường học tập tích cực và sáng kiến,
khích lệ động viên và hỗ trợ học sinh,
năng lực văn hóa xã hội; năng lực
phương pháp luận (methodological
competences) và năng lực đánh giá. Năng
lực sư phạm chuyên biệt bao gồm kiến
thức chuyên môn, năng lực dạy học các
môn học chuyên biệt, năng lực giáo dục
cấp tiểu học, cấp trung học...
Thứ tư, chương trình đào tạo của
một số quốc gia như Bộ Giáo dục - Đào
tạo NewZealand, Germany (Haigh, &
Tuck 2000) cũng theo cách mô tả các
năng lực song không phân định thành các
lĩnh vực lớn như 4 mô hình trên. Ở đây,
mô hình năng lực đơn giản được liệt kê
thành chuỗi các năng lực cụ thể vừa
mang tính chất tổng quát vừa mang tính
chất chuyên biệt. [14]
Tóm lại, các mô hình đào tạo GV
trên bình diện quốc tế phản ánh rõ nét
cách tiếp cận năng lực trong đánh giá GV
cũng như đánh giá giáo sinh.
2.3. Mô hình năng lực được áp dụng
trong nghiên cứu xây dựng nội dung và
biểu mẫu đánh giá giáo sinh thưc tập sư
phạm tiểu học
Như đã xác định, năng lực nghề
nghiệp của GV là tổ hợp thống nhất của
những kĩ năng, kiến thức và phẩm chất cá
nhân tương ứng với những đòi hỏi của
một lĩnh vực hoạt động nào đó của công
việc dạy học. Kế thừa và vận dụng tổng
hợp các quan điểm tiếp cận năng lực và
mô hình năng lực GV được thể hiện trong
nguồn văn bản pháp quy trong nước và
nguồn tư liệu về Chuẩn năng lực GV của
các chương trình đào tạo sư phạm trên
thế giới, chúng tôi đã phác thảo mô hình
năng lực giáo sinh làm cơ sở cho việc
biên soạn nội dung và biểu mẫu đánh giá
giáo sinh TTSP tiểu học. Mô hình bao
gồm 4 lĩnh vực sau:
- Thái độ đối với công tác TTSP;
- Kiến thức chuyên môn;
- Năng lực thực hành chuyên môn;
- Giá trị - phẩm chất chuyên môn.
Mỗi lĩnh vực trên bao gồm một tập
hợp các tiêu chí. Ở từng tiêu chí, một tập
hợp các chỉ báo thể hiện tiêu chí ấy được
mô tả cụ thể. Nói vắn tắt, chúng tôi sử
dụng phương pháp 3 tầng để mô tả sự thể
hiện năng lực của giáo sinh trong TTSP
như sơ đồ dưới đây:
Dưới đây là bảng trình bày mô hình bốn lĩnh vực với tập hợp các tiêu chí cho mỗi
lĩnh vực:
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Hoàng Thị Tuyết
_____________________________________________________________________________________________________________
47
Kiến thức/hiểu biết
chuyên môn
Năng lực thực hành
chuyên môn Giá trị-phẩm chất CM
Thái độ
tham gia
TTSP
Kiến thức ngữ cảnh dạy
học-giáo dục (Contextual
knowledge)
Năng lực
sư phạm
Năng lực giáo
dục
Học tập liên tục-suốt đời
Thái độ trong
chấp hành nội
quy TTSP
Năng lực giảng
dạy
Năng lực đánh
giá
Kiến
thức
chuyên
môn
Kiến thức
môn học
(disciplinary)
Năng lực
chung của
cá nhân
đóng góp
cho hiệu
quả giảng
dạy và
giáo dục
Lập và tổ chức
thực hiện kế
hoạch Tự đánh giá và phản ánh
Thái độ trong
quan hệ giao
tiếp
Tư duy linh hoạt
Kiến thức về
trẻ và việc
học của trẻ
Tư duy sáng tạo
Có khả năng lãnh đạo, điều
khiển và hướng dẫn Kiến thức về
phương pháp
giảng dạy và
giáo dục
Kĩ năng sử dụng
ngôn ngữ và
công nghệ
Kiến thức về
đánh giá
Giao tiếp và làm
việc hợp tác Tập trung vào việc học tập -
phát triển của HS Tinh thần tận tụy với HS và
cộng đồng
Kiến thức phổ thông về
lịch sử, xã hội và văn hóa
liên quan đến giáo dục Năng lực
hỗ trợ
Sử dụng ngoại
ngữ/ tiếng dân
tộc Có động cơ phát triển sự nghiệp
chuyên môn vì lợi ích chung
Thái độ đối
với việc phát
triển chuyên
môn của bản
thân
Sử dụng công
nghệ thông tin
Có khiếu nhỏ/tài
vặt, óc hài hước Kiến thức về công nghệ
thông tin & ngoại ngữ
Phát triển tinh thần nhất quán
kiên định theo đuổi dạy học tích
cực
Từ mô hình năng lực trên, chúng tôi đã phác thảo chi tiết các chỉ báo cho từng
loại tiêu chí của mỗi lĩnh vực. Đồng thời, một thang định chất lượng 5 mức độ cho mỗi
tiêu chí cũng đã được xác lập. Cụ thể như ở bảng dưới đây:
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 62 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________
48
Mức độ đạt Định nghĩa
Xuất sắc
(9 - 10 đ)
Giáo sinh thực hiện vượt trội các tiêu chí/trách nhiệm chuyên
môn, và tạo ra một cách nhất quán những sản phẩm công việc có
chất lượng cao giúp học sinh thể hiện tốt nhất năng lực học tập
của mình
Tốt
(8 - 8,9 đ)
Giáo sinh thực hiện hoàn thành một cách nhất quán các tiêu chí/
trách nhiệm chuyên môn, tạo nên những sản phẩm công việc có
chất lượng tác động tích cực đến hành vi và năng lực thực hiện
của học sinh
* Mức độ này là tiêu chuẩn thực hiện cao và khoảng 40% giáo
sinh được trông đợi đạt đến mức độ này
Khá
(6,5 - 7,9 đ)
Giáo sinh thực hiện hoàn thành các tiêu chí/ trách nhiệm chuyên
môn, nhìn chung tạo nên những sản phẩm công việc có chất lượng
tác động tích cực đến hành vi và năng lực thực hiện của học sinh,
bên cạnh một vài nhiệm vụ và yêu cầu TTSP quan trọng chưa
được thực hiện hiệu quả
* Mức độ này là tiêu chuẩn thực hiện có tính phổ thông và nhiều
giáo sinh được trông đợi đạt đến mức độ này
Trung bình
(5-6.4 đ)
Giáo sinh đáp ứng một cách không nhất quán các tiêu chí/ trách
nhiệm chuyên môn, làm cho sản phẩm công việc đạt chất lượng
thấp, học sinh đạt thành tích và/hoặc biểu lộ hành vi không phù
hợp
Chưa đạt
(dưới 5 đ)
Giáo sinh không thực hiện đầy đủ các tiêu chí/ trách nhiệm
chuyên môn, làm cho sản phẩm công việc không có chất lượng và
tác động tiêu cực đến hành vi và năng lực thực hiện của học sinh
Căn cứ vào các tài liệu trên, chúng
tôi xây dựng một bộ biểu mẫu đánh giá
năng lực của giáo sinh trong TTSP bao
gồm ba bộ phiếu.
Bộ phiếu 1: Đánh giá các năng lực
chuyên biệt- năng lực sư phạm bao gồm:
1. Phiếu 1: Đánh giá thái độ tham gia
thực tập sư phạm (dành cho Trưởng đoàn
TTSP-Giảng viên).
2. Phiếu 2: Đánh giá năng lực giảng
dạy (dành cho giáo viên tiểu học hướng
dẫn TTSP).
3. Phiếu 3: Đánh giá năng lực đánh
giá (dành cho giáo viên tiểu học hướng dẫn
TTSP).
4. Phiếu 4: Đánh giá kiến thức
chuyên môn (dành cho giáo viên tiểu học
hướng dẫn TTSP).
5. Phiếu 5: Đánh giá năng lực giáo
dục (dành cho giáo viên tiểu học hướng
dẫn TTSP).
6. Phiếu 6: Bảng tổng hợp thể hiện
năng lực của giáo sinh TTSP gồm Phiếu 6
A dùng cho TTSP kì 1, và Phiếu 6 B dùng
cho TTSP kì 2 (dành cho giáo viên tiểu học
hướng dẫn TTSP và Ban chỉ đạo của
trường tiểu học TTSP).
Bộ phiếu 2: Đánh giá các năng lực
chung cốt lõi bao gồm:
7. Phiếu 7: Đánh giá các năng lực cá
nhân đóng góp cho hiệu quả dạy học và
giáo dục.
8. Phiếu 8: Đánh giá các giá trị
chuyên môn.
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Hoàng Thị Tuyết
_____________________________________________________________________________________________________________
49
Bộ phiếu 3: Công cụ ghi nhận các
hành vi thể hiện trong 3 hoạt động chính
của TTSP, bao gồm:
9. Phiếu 9: Đánh giá giáo sinh TTSP
qua tìm hiểu thực tế giáo dục (dành cho
giáo viên tiểu học hướng dẫn TTSP).
10. Phiếu 10: Đánh giá giáo sinh
TTSP qua tiết chủ nhiệm lớp (dành cho
giáo viên tiểu học hướng dẫn TTSP).
11. Phiếu 11: Đánh giá giáo sinh
TTSP qua tiết dạy (dành cho giáo viên tiểu
học hướng dẫn TTSP).
2.4. Kết quả khảo sát ý kiến đánh giá
của giáo viên hướng dẫn và giáo sinh
thực tập sư phạm về bộ phiếu đánh giá
Các phiếu đánh giá trên cùng mô tả
hệ thống chỉ báo đã được 36 GVHD ở 4
trường tiểu học: Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Trưng Trắc, Khai Minh và Tô Vĩnh Diện
sử dụng để đánh giá thử kết quả TTSP
của 102 GSTH đợt 2/2014 của Khoa
Giáo dục Tiểu học. Đồng thời, 84 giáo
sinh của đợt TTSP này cũng sử dụng các
phiếu đánh giá này để tự đánh giá kết quả
TTSP của mình. Sau khi GVHD và
GSTH đánh giá thử nghiệm, chúng tôi đã
khảo sát ý kiến của họ về 11 biểu mẫu
trên theo 5 nội dung: (1) có thể hiểu
được; (2) có dễ sử dụng; (3) có hình dung
được các năng lực và phẩm chất chuyên
môn; (4) có cho thấy được bối cảnh dạy
học tích cực và quan điểm dạy học lấy
người học làm trung tâm; và (5) có cho
thấy được đặc trưng của quá trình dạy
học cho học sinh cấp tiểu học. Ở mỗi nội
dung trong 5 nội dung khảo sát này, người
tham gia khảo sát được hỏi là “có” hay
“không”, nếu chọn có thì họ sẽ tiếp tục
chọn 1 trong 3 mức độ: Nhiều - Vừa - Ít.
Kết quả khảo sát cho thấy: Hơn
60% GVHD nói dễ hiểu và dễ sử dụng ở
mức độ nhiều và gần 35% ở mức độ vừa.
Hơn 55% GSTH nói dễ hiểu và dễ sử
dụng ở mức độ nhiều và gần 45 % ở mức
độ vừa. Nhìn nhận về sự thể hiện của các
năng lực và phẩm chất chuyên môn trong
các phiếu đánh giá, có hơn 65% GVHD
và gần 50% GSTH cho rằng ở mức độ
nhiều; 28% GVHD và hơn 35% GSTH
cho ở mức độ vừa. Bối cảnh dạy học tích
cực và quan điểm dạy học lấy người học
làm trung tâm thể hiện trong các phiếu
đánh giá được 51% GVHD và 49%
GSTH nhìn nhận ở mức độ nhiều, 43%
GVHD và 36% GSTH nhìn nhận ở mức
độ vừa. Và đặc trưng của quá trình dạy
học cấp tiểu học được 48% GVHD và
31% GSTH nhìn nhận ở mức độ nhiều,
43% GVHD và 49% GSTH nhìn nhận ở
mức độ vừa. Nhìn chung, có hơn 95%
GVHD và GSTH chấp nhận nội dung và
11 biểu mẫu đánh giá từ mức vừa trở lên.
Riêng tính phù hợp với đặc trưng tiểu học
thì chỉ có hơn 80% nhìn nhận từ mức vừa
trở lên.
Nội dung và ba bộ phiếu gồm 11
biểu mẫu đánh giá trên cũng đã được đưa
ra hội thảo để lấy ý kiến nhận xét của
giảng viên Khoa Giáo dục Tiểu học,
chuyên viên Phòng Đào tạo và Phòng
Khảo thí Trường ĐHSP TPHCM. Nhìn
chung, các đại biểu hội thảo có ý kiến
khá thống nhất về việc khẳng định sự thể
hiện kết quả TTSP theo cách tiếp cận
năng lực và quan điểm dạy học tích cực
trong bộ phiếu đánh giá. Tương tự với
GVHD và GSTH, tính phù hợp với đặc
trưng tiểu học của nội dung đánh giá
cũng đã được hội thảo lưu ý là chưa thật
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 62 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________
50
sự cụ thể và đậm nét.
3. Kết luận
Bằng cách nghiên cứu phân tích,
tổng hợp, đánh giá các loại tư liệu trong
và ngoài nước liên quan đến quá trình
đánh giá giáo sinh TTSP theo hướng tiếp
cận năng lực, chúng tôi đã xây dựng một
khung nội dung đánh giá bao gồm 4 lĩnh
vực: (1) Thái độ trong và đối với TTSP;
(2) Kiến thức chuyên môn; (3) Năng lực
thực hành chuyên môn; (4) Giá trị - Phẩm
chất chuyên môn. Định khung các năng
lực này được phát triển chi tiết theo mô
hình 3 lớp: lĩnh vực - tiêu chí - chỉ báo
cùng với thang định chất lượng 4 mức độ.
Từ mô hình chi tiết này, ba bộ biểu mẫu
với 11 loại phiếu đánh giá đã được thiết
kế cùng với hướng dẫn thực hiện đánh
giá cụ thể. Cách thực hiện như thế nhằm
làm cho các nội dung đánh giá được thể
hiện trên hệ thống biểu mẫu sẽ có thể đo
lường và kiểm soát được. Đồng thời,
thông qua kết quả của việc khảo sát ý
kiến của GSTH, GVHD và GVKTH về
nội dung và bộ phiếu đánh giá, chúng tôi
đã hiệu chỉnh nội dung và bộ phiếu cho
hiệu quả hơn.
Về mặt lí luận và thực tiễn, nội
dung đánh giá giáo sinh TTSP theo cách
tiếp cận năng lực đã được phát triển trong
nghiên cứu góp phần tạo nên một tài liệu
chính thống về TTSP với tư cách là tài
liệu chuyên môn, khoa học hơn là một tài
liệu hướng dẫn, quy chế và tổ chức quản
lí TTSP về mặt hành chính như hiện nay.
Hơn thế nữa, nội dung đánh giá này
đồng thời cũng là tư liệu khoa học cho
việc định hình Chuẩn đầu ra cho chương
trình đào tạo GV tiểu học theo cách tiếp
cận năng lực, một nội dung mà về thực
tế, chương trình đào tạo chưa thực sự đề
cập. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn này
của kết quả nghiên cứu bắt nguồn từ một
nguyên lí đó là đánh giá nào cũng vậy,
luôn phải là một tiến trình xem xét để xác
định các kết quả đầu ra (mục tiêu đào
tạo) đã định trước của chương trình đạt
được đến đâu, ở mức độ thế nào trên đối
tượng người học.
Như vậy, tính hợp lí hóa về mặt
khoa học và thực tiễn thực hiện của nội
dung và biểu mẫu đánh giá giáo sinh tiểu
học TTSP trong nghiên cứu này có lẽ còn
tùy thuộc vào việc Chuẩn đầu ra của đào
tạo GV tiểu học hiện hành được hiệu
chỉnh hay không - một điều hầu như nằm
ngoài quyền hạn và phạm vi của nghiên
cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thanh Bình (2012), Xác định tiêu chí đánh giá năng lực giáo dục cho sinh
viên sư phạm thực tập sư phạm (tốt nghiệp), Đề tài nghiên cứu khoa học, Viện
Nghiên cứu sư phạm Đại học Sư phạm Hà Nội.Australian Institute for Teaching and
School Leadership (aitsl.edu.au (2011), National Professional Standards for
Teachers.
2. Bộ Giáo dục Đào tạo (2007), Chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học, Hà Nội.
3. Bộ Giáo dục Đào tạo (2008), Chiến lược phát triển giáo dục Việt nam 2009-2020,
Hà Nội.
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Hoàng Thị Tuyết
_____________________________________________________________________________________________________________
51
4. Vũ Dũng (chủ biên) (2000), Tự điển tâm lí học, Trung tâm Khoa học xã hội nhân văn
Quốc gia, Viện Tâm lí học.
5. Bùi Văn Huệ (1996), Tâm lí học tiểu học, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
6. Hà Văn Khải (2011), Đào tạo giáo viên tiểu học cần chú trọng những kĩ năng nghề
nghiệp dạy học đặc thù ở tiểu học, Viện Nghiên cứu Sư phạm Hà Nội.
7. Nguyễn Thị Hải Phượng (2011), Suy nghĩ về vấn đề thực tập của sinh viên hệ đại
học tại Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương.
8. Trường Đại học Sư phạm TPHCM (2008), Công tác thực tập ở các trường sư phạm,
Kỉ yếu Viện Nghiên cứu Khoa học giáo dục miền Nam – Đại học Sư phạm TPHCM.
9. Trường Đại học Sư phạm TPHCM (2013), Quy chế thực tập sư phạm – Đại học Sư
phạm TPHCM (Ban hành theo Quyết định số 360/QĐ của Bộ Giáo dục ngày 10-04-
1986).
10. Australian Institute for Teaching and School Leadership (aitsl.edu.au (2011 ).
National Professional Standards for Teachers.
11. Barnett, R. (1992) (eds), Learning to effect, The Society Research into Higher
Education & Open University Press.
12. Conway, P.F; Murphy, R.; Rath, A.; & Hall, K. (2009), Learning to teach and its
implication for the continuum of teacher education: A nine country cross- national
study, Report Commissioned by The Teacher Council, University College, Cork
(UCC), Ireland.
13. Darling-Hammond, L. (1999), Teacher quality and student achievement: A review of
state policy evidence, Seattle: Center for the Study of Teaching and Policy.
14. Haigh, Mavis & Tuck, Bryan (2000), Assessing student teachers’ performance in
practicum, Auckland College of Education Auckland, New Zealand.
15. Irina, Andreia Suciu & Mâţă, Liliana (2011), “Pedagogical Competences – The Key
to Efficient Education”, International Online Journal of Educational Sciences, 2011,
3(2), 411-423.
16. Malloch, M.; Cairns, L.; & Evans, K. (2010), The Sage Handbook of Workplace
Learning. SAGE Publications Ltd.
17. Miller GE. (1990), “The assessment of clinical skills/competence/performance”,
Acad Med. 1990; 65:S63-S7.
18. Richards, Jack C. (2011), Competence and Performance in Language Teaching,
Cambridge University Press.
19. Shulz, Renate (2005), “The Practicum: More than Practice”, Canadian Journal of
Education 28, 1 & 2 (2005): 147167.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 04-04-2014; ngày phản biện đánh giá: 12-5-2014;
ngày chấp nhận đăng: 16-9-2014)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 04_3263.pdf