Đánh giá bảo tồn đa dạng sinh học một số loài quý hiếm tại vườn quốc gia Xuân Thủy, Nam Định - Hoàng Văn Hùng

Xuan Thuy wetland in Xuan Thuy National Park is the first RAMSAR site of Southeast Asia. In 2004, UNESCO continuously recognized Red River Delta Biosphere Reserve, in which Xuan Thuy National Park is the core zone having a special importance of biosphere reserves in the world. This place has the populations of some important species in maintaining the biodiversity of wetland and is the only place in Vietnam recorded the existence of waterbirds. Based on the biodiversity research; there were 115 vascular plant species of 42 families; 219 bird species of 41 families among which are 9 endangered species listed in the IUCN Red List. The research also listed many rare species of benthos, amphibian and zooplankton, especially, Blach-faced Spoonbil and Saunders’s Gull residing at the top of food chain. The results showed that the solutions are an important issue in making conservation measures and maintenance of rare species in the near future. On the other hand, it will satisfy the current interests of the local communities, and fully meet national and international long-term benefits as well as future generations

pdf6 trang | Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 599 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá bảo tồn đa dạng sinh học một số loài quý hiếm tại vườn quốc gia Xuân Thủy, Nam Định - Hoàng Văn Hùng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hoàng Văn Hùng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 97(09): 135 - 140 135 ĐÁNH GIÁ BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC MỘT SỐ LOÀI QUÝ HIẾM TẠI VƯỜN QUỐC GIA XUÂN THỦY, NAM ĐỊNH Hoàng Văn Hùng*, Nguyễn Thanh Hải, Nguyễn Thị Lành Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Vùng đất ngập nước Xuân Thuỷ nằm trong Vườn quốc gia Xuân Thủy là điểm RAMSAR đầu tiên của Đông Nam Á. Năm 2004, UNESCO lại tiếp tục công nhận Khu dự trữ sinh quyển đồng bằng ven biển châu thổ sông Hồng, là vùng lõi có tầm quan trọng đặc biệt của khu dự trữ sinh quyển thế giới. Đây là nơi có các quần thể của một số loài sinh vật quan trọng trong việc duy trì tính đa dạng sinh học đất ngập nước và là nơi duy nhất ở Việt Nam ghi nhận có một số loài chim nước sinh sống. Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn; về thực vật có 115 loài bậc cao có mạch thuộc 42 họ đã được liệt kê; về chim có 219 loài thuộc 41 họ, trong đó có 9 loài được ghi trong sách đỏ của IUCN. Nghiên cứu cũng đã thống kê được nhiều loài cá, lưỡng cư, côn trùng v.v. quý hiếm, trong đó sự xuất hiện loài Cò thìa và Mòng bể mỏ ngắn được coi là đỉnh của chuỗi dinh dưỡng tại đây. Từ kết quả nghiên cứu cho thấy cần có các giải pháp bảo tồn và duy trì các loài sinh vật quí hiếm trong thời gian tới. Bên cạnh đó còn đáp ứng lợi ích trước mắt của cộng đồng địa phương, đồng thời thỏa mãn lợi ích lâu dài của quốc gia và quốc tế cũng như các thế hệ tương lai. Từ khóa: Đa dạng sinh học, Đất ngập nước, RAMSAR, Vườn quốc gia Xuân Thủy, Loài chim nước. MỞ ĐẦU* Do có điều kiện khí hậu và địa hình đa dạng, Vườn quốc gia Xuân Thủy (VQGXT) có tính đa dạng sinh học (ĐDSH) cao với nhiều kiểu Hệ sinh thái (HST)[2], số lượng loài động thực vật phong phú. Bên cạnh đó, VQGXT còn là vùng đất ngập nước ven biển liên tỉnh châu thổ sông Hồng có chức năng là khu dự trữ sinh quyển quan trọng của thế giới. Đặc biệt HST vùng bãi triều cửa sông ven biển huyện Giao Thuỷ có diện tích khoảng 10.000ha, bị phân cắt bởi sông Vọp và sông Trà, chia khu vực thành 4 khu là: Bãi Trong, Cồn Ngạn, Cồn Lu và Cồn Xanh có độ cao trung bình từ 0,5 - 0,9m. Đặc biệt ở Cồn Lu có nơi cao tới 1,2 - 2,5m. Với kiểu địa hình và HST trên đã tạo cho VQGXT có nhiều loài đặc hữu và quý hiếm [1]. Đất đai toàn vùng cửa sông Hồng nói chung được thành tạo từ nguồn sa bồi (phù sa bồi lắng) của toàn bộ hệ thống sông Hồng. Lớp phù sa được dòng chảy vận chuyển và bồi lắng hình thành lớp thổ nhưỡng cửa sông ven biển được xác định bởi lớp thổ nhưỡng ven châu thổ với những loại hình [8]: * Tel: 0989.372.386; Email: hvhungtn74@yahoo.com - Đất nhẹ, cát pha và thịt nhẹ, phần nhỏ cát thuần. - Đất trung bình, thịt trung bình - Đất nặng từ thịt nặng đến đất sét (sét cố kết). Các loại đất cụ thể của khu vực như sau: - Vùng lõi: rộng 7.100ha, trong đó có 3.100 ha đất nổi, 4.100ha đất còn đang ngập nước, 948ha đất cát và cát pha, 2.152 ha đất thịt và đất sét. Rừng ngập mặn 1.855 ha, rừng phi lao 93ha. - Vùng đệm: rộng 8.000ha, trong đó 1.407ha còn ngập nước, 6.593ha đất nổi, đất cát pha 220ha, đất thịt và sét 6.373ha, đất có rừng ngập mặn 1.724ha, rừng phi lao 6ha. Với đa dạng hệ sinh thái như vậy đã tạo ra cho VQGXT có những loài đặc hữu duy nhất chỉ xuất hiện tại đây. Thuỷ triều ở khu vực thuộc chế độ "Nhật triều" với chu kỳ khoảng 25 giờ, thuỷ triều có biên độ khá lớn, biên độ trung bình 150- 180cm, thuỷ triều lớn nhất đạt đến 4,5m. Khu vực bãi triều huyện Giao Thuỷ được cung cấp nước từ Sông Hồng, có 2 sông chính trong khu vực bãi triều là sông Vọp và sông Trà, ngoài ra còn một số lạch nhỏ cấp thoát nước tự nhiên. Hoàng Văn Hùng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 97(09): 135 - 140 136 Độ mặn nước biển của khu vực biến thiên nhiều phụ thuộc vào pha của thuỷ văn và chế độ lũ của Sông Hồng. Vào mùa đông độ mặn trung bình của nước biển tương đối đồng nhất trong khoảng 28-30%o. Vào mùa hè, độ mặn trung bình thấp hơn mùa đông, dao động trong khoảng 20-27%o [2]. Từ các điều kiện trên, VQGXT có đầy đủ cả 3 HST đặc thù: HST trên cạn, HST thủy vược nước ngọt và HST biển. Tuy nhiên, HST của VQGXT phần lớn là HST nhạy cảm với các tác động từ bên ngoài, kể cả các tác động của tự nhiên và con người [2][8]. Đặc điểm của khí hậu: - Khu vực bãi triều của huyện Giao Thuỷ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Mùa Đông từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. - Tổng lượng bức xạ lớn, từ 95 - 105Kcal/cm2/năm. Tổng nhiệt năm từ 8000- 85000C. - Lượng mưa trung bình năm là 1.175mm. - Chế độ gió: Từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau hướng gió thịnh hành là đông bắc. Sang mùa hạ (tháng 4-9) hướng gió thịnh hành là gió đông nam. Vận tốc gió trung bình vào khoảng 4 - 6m/s. - Độ ẩm không khí: Khá cao, khoảng từ 70- 90%, các tháng 10, 11, 12 có độ ẩm không khí thấp (thường nhỏ hơn 75%). Các tháng 2, 3, 4 có độ ẩm rất cao (80-90%) thường đi kèm theo mưa phùn ẩm ướt. Vùng đất ngập nước này là điểm RAMSAR đầu tiên của Đông Nam Á. Tháng 12/2004, UNESCO lại tiếp tục công nhận Khu dự trữ sinh quyển đồng bằng ven biển châu thổ sông Hồng, trong đó VQGXT là vùng lõi có tầm quan trọng đặc biệt của khu dự trữ sinh quyển thế giới. Đây là nơi có các quần thể của một số loài sinh vật quan trọng trong việc duy trì tính ĐDSH đất ngập nước và là nơi duy nhất ở Việt Nam có những đặc điểm này. Tuy nhiên, đây cũng là nơi có khoảng 46.000 dân sống trong vùng đệm với diện tích 7.233ha (2), sinh kế chính là khai thác và nuôi trồng thủy sản, trồng nấm, du lịch sinh thái v.v. Đây là áp lực lớn của cộng đồng địa phương lên nguồn tài nguyên sinh vật của VQG. Trên cơ sở đó, phân tích đánh giá hiện trạng đa dạng sinh học của một số loài đặc hữu, quý hiếm và xác định các diễn biến của chúng là hết sức cần thiết trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp bảo vệ và phát triển bền vững ĐDSH ở khu vực này. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Các số liệu thứ cấp được thu thập tại VQGXT, Bộ Tài nguyên và Môi trường và tập hợp các tài liệu có liên quan đến nghiên cứu. Chọn và lập tuyến điều tra đại diện cho khu vực nghiên cứu, từ tuyến điều tra chính khoảng 500m chiều dài lập về hai phía theo hình xương cá các tuyến phụ. Trên tuyến phụ tiến hành lập các tuyến phụ điều tra các loài sinh vật trong phạm vi 10m về hai phía [10][11]. Các ô tiêu chuẩn được lập với diện tích 1000m2 các số liệu về sinh thái môi trường của ô tiêu chuẩn được thu thập bao gồm: các yếu tố đất đai, tác động của con người, sinh thái v.v. Các loài chim, thú, bò sát, lưỡng cư và côn trùng được quan sát bằng các dụng cụ chuyên dụng của JAICA cung cấp [15][17]. Phân loại được thực hiện tại hiện trường kết hợp với lấy mẫu [18]. Xác định tên loài, taxon và xây dựng bảng danh lục các loài. Số liệu được xử lý trên các phần mềm chuyên dụng: PRIMER 5.0 và Excel [9]. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Tài nguyên sinh vật của VQG Xuân Thủy Hệ thực vật Theo kết quả nghiên cứu đã có khoảng 115 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 42 họ, số lượng nhiều hơn 15 loài so với công bố trước đó. Thực vật nổi đã bước đầu được Viện Nghiên cứu Hải sản và Sở Thuỷ lợi Nam Hà nghiên cứu và đã công bố 64 loài, tuy nhiên trong nghiên cứu này đã phát hiện thêm một số loài so với trước đó. Hoàng Văn Hùng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 97(09): 135 - 140 137 Bảng 1. Thành phần thực vật bậc cao có mạch VQG Xuân Thuỷ Ngành Họ Chi Loài 1. Khuyết thực vật - Psilotophyta 4 6 6 2. Thực vật hạt kín - Angiospermae 38 93 109 2.1. Thực vật hai lá mầm - Dicotyledones 32 68 85 2.2. Thực vật một lá mầm - Monocotyledones 6 25 24 Tổng số 42 99 115 (Nguồn: Tổng hợp các tài liệu tại Vườn Quốc gia Xuân Thủy và số liệu điều tra) Bảng 2. Danh lục các loài chim quý hiếm tại VQG Xuân Thuỷ STT Tên tiếng Việt Tên tiếng Anh Tên khoa học Ghi chú 1 Cò thìa Blach-faced Spoonbil Platalea minor EN 2 Rẽ mỏ thìa Spoon-billed Sandpiper Eurynorynchus pygmeus CR 3 Choắt chân màng lớn Asian Dowitcher Limodromus semipanmatus VU 4 Choắt đốm đen Marsh Sandpiper Tringa stagnatilis VU 5 Cò trắng Trung Quốc Chinese Egret Egretta eulohotes VU 6 Sẻ đồng ngực vàng Yellow-breasted Bunting Emberiza aureola VU 7 Choắt mỏ vàng Nordmann's Greenshank Tringa guttifer EN 8 Mòng bể mỏ ngắn Saunders's Gull Larus saundersi VU 9 Bồ nông Spot-billed Pelican Penecanus Philippensis VU (Nguồn: Tổng hợp tài liệu tại VQGXT và kết quả quan sát thực địa) Lớp chim - Theo điều tra bước đầu kết hợp với số liệu của Birdlife International ở VQGXT đã gặp 219 loài chim thuộc 41 họ 13 bộ [15]. Khu hệ chim ở đây tiêu biểu là các loài bộ Hạc, bộ Ngỗng, bộ Rẽ và bộ Sẻ. Theo số liệu công bố của vườn là 200 loài chim, trong đó có 160 loài chim di cư, 50 loài chim nước. - Trong 13 bộ chim ở khu vực, bộ Sẻ chiếm số lượng nhiều nhất tới 40% sau đó là bộ Rẽ, bộ Hạc, bộ Sếu và bộ Sả. Bộ Chim Lặn chỉ có hai loài. Nếu so sánh với danh lục các loài chim Việt Nam ở VQG Xuân Thuỷ có: + 219 loài bằng 26,5% của tổng số loài chim cả nước (828 loài). + 41 họ bằng 50,61% tổng số họ chim cả nước (81 họ). + 13 bộ bằng 68,42% tổng số bộ chim cả nước (19 bộ). - Các sinh cảnh chính thường gặp là: rừng ngập mặn (64,6%), bãi sậy và cói (67,4%), bãi bồi và cồn cát trống (55,1%), rừng phi lao (42,2%). - Với sự phong phú và đa dạng về mặt tài nguyên thiên nhiên, VQGXT đã và đang là điểm dừng chân của nhiều loài chim di cư quý hiếm. Cho tới nay, các nhà nghiên cứu và các cán bộ VQG đã ghi nhận được 9 loài chim quý hiếm được ghi vào sách đỏ quốc tế thường gặp theo danh lục ở bảng 2. Có thời điểm loài Cò thìa đã chiếm tới 20% số cá thể còn lại của thế giới. Loài Choi choi mỏ thìa là loài cực hiếm, hầu như chỉ có thể thấy ở VQGXT, có lúc đã phát hiện trên 20 cá thể. Tuy nhiên, theo số liệu nghiên cứu, những năm gần đây chỉ còn thấy dăm ba cá thể vào mùa di trú. Lớp thú, các lớp bò sát, lưỡng cư và côn trùng - Theo điều tra sơ bộ có khoảng chục loài thú ở trên cạn là các loài: Dơi, chuột, cầy, cáo v.v., ở dưới nước có ba loài quí hiếm là: Rái cá (Lutra lutra Linnaeus, 1758), cá Heo (Lipotes vexilifer Miller, 1918) và Cá Đầu ông sư (Neophocaera phocaenoides G. Cuvier, 1829). Cá heo thường gặp vào mùa mưa bão (Từ tháng 8 đến tháng 10 hàng năm). Hoàng Văn Hùng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 97(09): 135 - 140 138 - Theo số liệu điều tra chưa đầy đủ, đã có hàng trăm loài sinh sống ở VQGXT tạo nên sự phong phú và cân bằng hài hoà của hệ sinh thái. Số liệu về ĐDSH của các lớp Bò sát và Lưỡng cư được điều tra sơ bộ là 27 loài, côn trùng có 112 loài. Tài nguyên Thuỷ sản * Thực vật thuỷ sinh Thành phần rong biển ở khu vực khác nhau về tình trạng phát triển. Các loài rong có giá trị kinh tế thuộc 2 ngành rong đỏ và rong xanh, tiêu biểu là Rong câu chỉ vàng (Gracilaria bodgettii). Trong các thuỷ vực của vùng cửa sông có lau sậy, cói và rong tảo. Đa số rong tảo là nguồn thức ăn quan trọng của tôm cá và các loài động vật thuỷ sinh khác. Theo số liệu thống kê kết quả thu mẫu của 37 loài thuộc 4 ngành tảo như sau: Ngành tảo Silic (Bacillariophyta) ở 15 chi, 27 loài, chiếm 73%. Ngành tảo Giáp (Pirophy): 2 chi, 4 loài, chiếm 10,8%. Ngành tảo Lam (Cyanophyta): 2 chi, 3 loài, chiếm 8%. Ngành tảo Lục (Chlorophyta): 3 chi, 3 loài, chiếm 8%. Hai chi có số loài cao thuộc ngành tảo Silic, các chi còn lại chỉ chiếm từ 1 đến 2 loài. Kết quả thu mẫu mùa mưa 2011 được 40 loài theo tỷ lệ: Ngành tảo Silic: 15 chi, 3 loài, chiếm 75%. Ngành tảo Giáp: 1 chi, 5 loài, chiếm 12,5%. Ngành tảo Lam: 2 chi; 2 loài, chiếm 2%. Ngành tảo Lục: 3 chi, 3 loài, chiếm 7,5%. Số tảo Giáp, Lục, Lam không có giá trị làm thức ăn cho thuỷ hải sản chiếm 25% tổng số loài. Mặc dù số loài phát hiện ở trên còn thấp nhưng lại có mặt nhiều loài ưu thế ở vùng cửa sông ven biển, ngành tảo Silic chiếm tỷ lệ lớn tạo lên sinh khối lớn làm thức ăn phong phú cho các loài động vật thuỷ sinh. Mật độ tế bào trung bình trong mùa mưa và mùa khô là: Mùa mưa 140.370 tế bào/m3 nước, mùa khô 2.275.644 tế bào/m3 nước. Như vậy có sự chênh lệch lớn giữa mùa khô và mùa mưa. Mùa khô mật độ tế bào cao gấp 16 lần mùa mưa. Đặc biệt là tảo Thalassiothrix có mật độ cá thể cao và xuất hiện phổ biến ở tất cả các trạm thu mẫu. * Động vật nổi Động vật nổi đóng vai trò quan trọng vùng cửa sông Hồng bao gồm 165 loài của 14 nhóm chính như: Copepoda, Cladocera, Siphonophora, Chaetognatha, Nauphius. Tất cả các nhóm phù du động vật ở Sông Hồng đều rộng muối và rộng nhiệt, bắt nguồn từ biển nhiệt đới thích nghi với dao động lớn của độ muối ở môi trường cửa sông và mật độ của chúng cũng dao động rất lớn tuỳ theo các điều kiện cụ thể của môi trường. Về mùa khô: Thu được 33 loài, thuộc 7 nhóm. Chiếm ưu thế là Copepoda với 19 loài, chiếm 57,5%. Về mùa mưa: Thu được 42 loài, thuộc 7 nhóm, nhóm Copepoda chiếm ưu thế có 27 loài, chiếm 64,3%. * Động vật đáy - Động vật đáy có thành phần tương đối phong phú, đã phát hiện 154 loài, thuộc các nhóm phổ biến như Polychaeta, Mollusca và Crustacea, mùa khô chiếm 78%, mùa mưa chiếm 59% số loài đã gặp. Trong đó có một số loài có giá trị kinh tế cao như: Ngao (Meretrix lusoria), Vọp (Mactra quadrangularis), Cua rèm (Scylla serrata), Ghẹ (Portunus penaeus), Tôm he (Penaeus Merguiensis), Tôm rảo (Metapennaus ensis), Tôm vàng (Metapenmus soyneri). Gần đây Tôm sú (Pennaeus monodon) đã được đưa vào nuôi có giá trị kinh tế khá cao, bổ sung cho cơ cấu loài hải đặc sản của vùng. - Kết quả điều tra về định lượng của động vật đáy cỡ nhỏ thuộc nhóm giun nhiều tơ, ấu trùng, nhuyễn thể ở giai đoạn bám, ấu trùng giáp xác sống đáy như sau: Mùa khô: 2.400 cá thể/m3 nước (trung bình). Mùa mưa: 450 cá thể/m3 nước (trung bình). Hoàng Văn Hùng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 97(09): 135 - 140 139 * Cá: Vào những năm 1980 đã thống kê được 156 loài, năm 2002 điều tra sơ bộ thấy 107 loài thuộc 12 bộ, 44 họ, có trên 40 loài cá có giá trị kinh tế sản lượng cá đạt khoảng 4000tấn/năm. Một số loài có giá trị cao như: cá Vược (Lates calcarifer), cá Bớp (Bostrichthys sisnensis), cá Đối (Mugil nepalensisreus), cá Dưa (Muraenesox cinereus), cá Nhệch (Pisoodonophifboro), cá Tráp (Taius tumifrons) v.v. Về mặt số lượng, các loài cá trên chiếm tỷ lệ khá lớn; tuy nhiên, thời gian gần đây bị suy giảm do bị khai thác quá mức. KẾT LUẬN Hệ thực vật: VQGXT có tính đa đạng về hệ sinh thái, đa dạng sinh học, năng suất sinh học và độ nhạy cảm sinh học cao. Bên cạnh đó, chúng còn đóng vai trò là giá thể của các loài chim nước. Đối với các loài chim di cư thì khu hệ thực vật, đặc biệt là khu hệ sinh thái rừng ngập mặn là nơi kiếm ăn, nơi sinh sống và làm tổ. Còn đối với các loài chim di cư thì rừng ngập mặn là nơi trú ngụ và là nơi cung cấp nguồn thức ăn đáng kể (mặc dù hầu hết các loài chim di cư kiếm ăn ở các bãi bồi phù sa, lầy). Lớp Chim: Sự đa dạng của khu hệ chim ở Vườn quốc gia Xuân Thuỷ là tương đối cao. Đặc biệt là có 9 loài chim quý hiếm được ghi vào sách đỏ quốc tế. Hai loài Cò thìa và Mòng bể mỏ ngắn được coi là đỉnh của chuỗi dinh dưỡng đã có mặt khá đông ở VQGXT. Với sự phong phú và đa dạng về mặt tài nguyên thiên nhiên, VQGXT đã và đang là điểm dừng chân của nhiều loài chim di cư quý hiếm. Trong số 219 loài chim, có tới 150 loài di trú và gần 50 loài chim nước. Những loài chim nước và chim di cư có số lượng cá thể đông nhất. Vào mùa di trú có thể gặp 30 đến 40 ngàn con (tiêu chí của một vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế chỉ là 20.000 con - Trung tâm nghiên cứu hệ sinh thái rừng ngập mặn - MERC). Tài nguyên Thuỷ sản: Qua nghiên cứu, kết quả thu được mẫu của 37 loài thuộc 4 ngành tảo; kết quả thu mẫu mùa mưa được 40 loài. Động vật nổi gồm 165 loài của 14 nhóm chính như: Copepoda, Cladocera, Siphonophora, Chaetognatha, Nauphius. Động vật đáy có thành phần tương đối phong phú, đã phát hiện 154 loài chủ yếu là mùa khô chiếm 78%, mùa mưa chiếm 59% số loài. Kết quả điều tra sơ bộ cho thấy có 107 loài cá thuộc 12 bộ, 44 họ, trong đó có trên 40 loài cá có giá trị kinh tế, sản lượng cá đạt khoảng 4000tấn/năm (2002). Đề xuất các giải pháp bảo tồn, duy trì hệ thực vật VQGXT, tỉnh Nam Định * Giải pháp kĩ thuật - Hỗ trợ xây dựng các mô hình sử dụng khôn khéo và bền vững tài nguyên môi trường. - Tăng cường các trang thiết bị chuyên dụng để phục vụ cho công tác bảo tồn đa dạng sinh học. - Tăng cường trồng thêm rừng thuần theo kĩ thuật bảo vệ đất ngập nước. * Giải pháp quản lí - Tăng cường năng lực cho cán bộ quản lý và đại diện các nhóm cộng đồng của địa phương. - Tăng cường hợp tác quốc tế, nghiên cứu khoa học ứng dụng, phối kết hợp và hỗ trợ tài chính cho việc thực hiện các chương trình mục tiêu cơ bản. - Tăng cường giám sát đánh giá và điều chỉnh kế hoạch quản lý cho phù hợp để khắc chế yếu điểm và thách thức, phát huy điểm mạnh, tận dụng cơ hội để thành đạt mục tiêu của Khu dự trữ sinh quyển thế giới. Từ kết quả đánh giá bảo tồn ĐDSH VQG Xuân Thủy thì cần phải thực hiện bảo tồn ĐDSH trước những nguy cơ tiềm tàng là suy giảm số lượng loài. Trên cơ sở đánh giá tính đa dạng và giá trị của nó, xem xét các giải pháp bảo tồn, duy trì hệ thực vật Vườn Quốc gia Xuân Thuỷ, tỉnh Nam Định [7][8]. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Aubreville, A., Tardieu-Blot, N. L., Vidal, J. E. (1942). “Flore du Cambodge, du Laos et du Vietnam.” Facs. Paris. [2]. Nguyễn Viết Cách (2010), “Kinh tế hóa công tác bảo tồn đa dạng sinh học vườn Quốc gia Xuân Thủy.” Kỷ yếu hội nghị Quốc gia về đa dạng sinh học. Hoàng Văn Hùng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 97(09): 135 - 140 140 [3]. Lê Trần Chấn (1999), “Một số đặc điểm cơ bản của hệ thực vật Việt Nam” Nxb Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội. [4]. Cục Bảo tồn Đa dạng sinh học (2009), “Xây dựng kế hoạch hành động quốc gia về Đa dạng sinh học.” Tổng cục Môi trường, Hà Nội. [5]. Phạm Hoàng Hộ (1993). Cây cỏ Việt Nam. Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội. [6]. Hội nghị chuyên đề (2011), “Đa dạng sinh học.” Hà Nội. [7]. Hoang Van Hung, Luigi De Filippis, Rod Buckney (2011), “Population structure and genetic diversity of the rare and endangered Sinocalamus mucclure and Markhamia stipulata in Ba Be National Park, Vietnam.” Asian Journal of Plant Sciences 10 (6): 312-322. [8]. Hoàng Văn Hùng, Nguyễn Thanh Hải (2011), “Hiện trạng sinh vật vườn Quốc gia Xuân Thủy, Nam Định”. Kỷ yếu hội thảo khoa học lần thứ 39 các trường Đại học Kỹ thuật năm 2011. 6: 35-41. [9]. Le Brocque, A. F., Buckney, R.T. (1995). "Vegetation and environmental patterns on soils derived from Hawkesbury Sandstone and Narrabeen substrata in Ku-ring-gai Chase National Park, New South Wales." Australian Journal of ecology. 20(2): 229-238. [10]. Le Brocque, A. F. B., R.T. (1997). "Multivariate relationships between floristic composition and stand structure in vegetation of Ku-ring-gai Chase National Park, New South Wales, Australia." Autralian Journal of Botany. 45 (6): 717-720. [11]. Le Brocque, A. F., Buckney, R.T. (2003). "Species richness-environment relationship within coastal sclerophyll and mesophyll vegetation in Ku- ring-gai Chase National Park, New South Wales, Australia." Austral Ecology. 28: 404-412. [12]. Phan Kế Lộc (1985), “Thử vận dụng khung phân loại của UNESCO để xây dựng khung phân loại Việt Nam.” Tạp chí sinh học, Tr 1-5. [13]. Loc, P. K., Hiep, N. T., and Averyanov, L. (2006). “Systematic structure of the Vietnamese Flora and Threatened gymnosperm species of Vietnam, their presence in protected areas.” Vietnam Forestry Review.. 1: 18-20. [14]. Major, J. (1951), “A functional, factorial approach to plant ecology”. Ecology. 32: 392-412. [15]. Vo Quy (1985). "Rare Species and protected measures proposed for Vietnam.” In: Thorsell, J.W. (Ed). Conserving Asia's Natural Heritage, IUCN. [16]. Vo Quy, Can Le Thac (1994). "Conservation of Forest Resources and the Greater Biodiversity of Vietnam." Asian Journal of Environment Management. 2 (No. 2 Hongkong). [17]. Vo Quy (2007). "Root Cause of Biodiversity Loss in Vietnam." Journal of Science and Technology in Vietnam. 23: 15-20. [18]. Rod Buckney, Dang Kim Vui, Hoang Van Hung, Lou De Filippis (2011), “Evaluation of the conservation status and risks for some endangered plant species in Ba Be National Park, Bac Kan Province, Vietnam.” Agriculture Publishing House. SUMMARY EVALUATION OF THE BIODIVERSITY CONSERVATION FOR SOME RARE SPECIES IN XUAN THUY NATIONAL PARK, NAM DINH PROVINCE Hoang Van Hung*, Nguyen Thanh Hai, Nguyen Thi Lanh College of Agriculture and Forestry – Thai Nguyen University Xuan Thuy wetland in Xuan Thuy National Park is the first RAMSAR site of Southeast Asia. In 2004, UNESCO continuously recognized Red River Delta Biosphere Reserve, in which Xuan Thuy National Park is the core zone having a special importance of biosphere reserves in the world. This place has the populations of some important species in maintaining the biodiversity of wetland and is the only place in Vietnam recorded the existence of waterbirds. Based on the biodiversity research; there were 115 vascular plant species of 42 families; 219 bird species of 41 families among which are 9 endangered species listed in the IUCN Red List. The research also listed many rare species of benthos, amphibian and zooplankton, especially, Blach-faced Spoonbil and Saunders’s Gull residing at the top of food chain. The results showed that the solutions are an important issue in making conservation measures and maintenance of rare species in the near future. On the other hand, it will satisfy the current interests of the local communities, and fully meet national and international long-term benefits as well as future generations. Key words: Biodiversity, wetland, RAMSAR, Xuan Thuy National Park, water-birds. Ngày nhận bài: 10/7/2012, ngày phản biện: 26/7/2012, ngày duyệt đăng: 10/10/2012 * Tel: 0989.372.386; Email: hvhungtn74@yahoo.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbrief_36348_39943_311201313397135_5318_2052187.pdf
Tài liệu liên quan