Dẫn liệu ban đầu về thành phần loài động vật phù du ở Hồ Tây, tỉnh Đăk Nông - Trương Thị Bích Hồng

IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận - Thành phần loài động vật nổi ở hồ Tây Đăk Mil của tỉnh Đăk Nông khá đa dạng. Đã xác định được 45 loài động vật nổi (Zooplankton) và 5 dạng ấu trùng (Larva) thuộc 29 giống của 18 họ và 5 bộ. - Trong thành phần loài động vật nổi ở hồ Tây, lớp luận trùng (Rotatoria) có số lượng loài nhiều nhất 21 loài (chiếm 46,67%), tiếp đến là râu ngành (Cladocera) 14 loài (chiếm 31,11%), giáp xác chân mái chèo (Copepoda) 9 loài (chiếm 20,00%), thấp nhất giáp trai (Ostracoda) chỉ có 1 loài (chiếm 2,22%) và 5 dạng ấu trùng. - Số lượng các loài động vật nổi xuất hiện ở các đợt thu mẫu biến động từ 12-45 loài. Kết quả nghiên cứu sự biến động về mật độ theo thời gian (theo mùa) và không gian (điểm thu mẫu) đã xác định được mật độ động vật nổi giao động từ 36.719 – 310.546 con/m3. 2. Kiến nghị - Mật độ động vật nổi ở hồ Tây rất cao, thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản. Vì vậy, có thể thả nuôi một số loài cá ăn nổi có giá trị kinh tế để tận dụng nguồn thức ăn tự nhiên phong phú trong hồ nhằm nâng cao năng suất sinh học của hồ, phát triển kinh tế cho người dân sống quanh lưu vực hồ. - Mật độ động vật nổi thấp (53.385 con/m3) vào cuối mùa khô đầu mùa mưa chứng tỏ thời điểm này hàm lượng chất hữu cơ trong hồ giảm mạnh. Vì vậy, cần chủ động bón phân cho mặt nước để tăng nguồn thức ăn tự nhiên cho các loài cá ăn nổi trong hồ.

pdf7 trang | Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 508 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dẫn liệu ban đầu về thành phần loài động vật phù du ở Hồ Tây, tỉnh Đăk Nông - Trương Thị Bích Hồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2015 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 39 DẪN LIỆU BAN ĐẦU VỀ THÀNH PHẦN LOÀI ĐỘNG VẬT PHÙ DU Ở HỒ TÂY, TỈNH ĐĂK NÔNG PRELIMINARY RESULT ON THE SPECIES COMPOSITION OF ZOOPLANKTON IN TAY LAKE, ĐĂK NONG PROVICE Trương Thị Bích Hồng1, Nguyễn Thị Thúy2, Trần Văn Phước3, Nguyễn Văn Quỳnh Bôi4 Ngày nhận bài: 09/12/2014; Ngày phản biện thông qua: 20/5/2015; Ngày duyệt đăng: 15/12/2015 TÓM TẮT Nghiên cứu thành phần loài động vật nổi ở hồ Tây tỉnh Đăk Nông được tiến hành trong thời gian một năm từ 10/2013 -10/2014. Lần đầu tiên xác định được 45 loài động vật nổi (Zooplankton). Số lượng các loài động vật nổi có sự biến động theo các đợt thu mẫu từ 12-45 loài. Vào mùa khô số lượng loài xác định được cao nhất 45 loài. Thời điểm chuyển mùa giữa mùa khô với mùa mưa, mùa mưa và giữa mùa mưa với mùa khô không có loài mới xuất hiện, nhiều loài bị mất đi do bị tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau như chất lượng nước, hàm lượng chất hữu cơ, nên số lượng loài thấp 12, 21 và 36 tương ứng. Sinh khối động vật nổi ở hồ Tây trong thời gian nghiên cứu (dao động từ 36.719 – 310.546 con/m3). Từ khóa: Động vật nổi, loài, sinh khối ABSTRACT Research the species composition of zooplankton in Tay lake of Đăk Nong province was couducted from October 2013 to October 2014. Forty fi ve zooplankton species have been identifi ed. The number of zooplankton species was highly variable according to the sampling period from 12-45 species. In the dry season the number of species identifi ed was highest (45 species). The time of transition season between the dry season to rainy season, rainy season and the rainy season to the dry season, the number of species identifi ed was low 12, 21 and 36 respectively. Because at that time, there was no appearance of new species, there were many species were lost due to be affected by many different factors such as water quality, organic content. The zooplankton biomass in Tay lakes of the study period was at high level, ranged from 36.719-31.0546 individuals/m3. Keywords: Zooplankton, species, biomass 1 ThS. Trương Thị Bích Hồng, 2 ThS. Nguyễn Thị Thúy, 3 ThS. Trần Văn Phước, 4 ThS. Nguyễn Văn Quỳnh Bôi: Viện Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC I. ĐẶT VẤN ĐỀ Hồ nhân tạo, bán nhân tạo là một trong những thủy vực không chỉ có vai trò quan trọng trong việc điều hòa nước đáp ứng mục đích tưới tiêu, cấp nước cho công nghiệp, sinh hoạt, chống lũ, mà còn được đánh giá là có tiềm năng kinh tế và đa dạng sinh học cao, nơi lưu giữ một nguồn tài nguyên thủy sinh vật rất đa dạng, có ý nghĩa trong việc cung cấp thực phẩm cho đời sống con người, đồng thời có giá trị về mặt khoa học. Hồ Tây Đăk Mil tỉnh Đăk Nông là hồ nước bán nhân tạo có diện tích Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2015 40 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG mặt nước 108ha được hình thành vào năm 1940 do thực dân Pháp quy hoạch để phục vụ cho dự án trồng cà phê tại Việt Nam. Hiện nay, hồ Tây không chỉ là nơi cấp nước phục vụ hoạt động sản xuất nông nghiệp mà còn là nơi cung cấp nguồn nước sạch cho nhà máy xử lý nước phục vụ nhu cầu về nước sinh hoạt của người dân ở thị trấn Đăk Mil, đem lại nguồn lợi lớn về thủy sản cho người dân trong vùng và còn là điểm du lịch thu hút nhiều du khách tới địa phương. Ngoài các ưu điểm về phát triển kinh tế - xã hội, hồ Tây còn có một hệ thống động, thực vật thủy sinh rất phong phú là nguồn thức ăn tự nhiên để nâng cao năng suất và sản lượng các loài cá trong hồ. Cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu đầy đủ, có hệ thống về thành phần loài động vật nổi ở hồ Tây Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông. Trong 2 năm 2013 và 2014, được sự tài trợ về kinh phí của đề tài cấp tỉnh của Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Đăk Nông, chúng tôi đã tổ chức khảo sát thu mẫu 4 lần (mùa khô, giao mùa giữa mùa khô với mùa mưa, mùa mưa và giao mùa giữa mùa mưa với mùa khô) nhằm đánh giá tính đa dạng sinh học nói chung và cung cấp những dẫn liệu ban đầu về thành phần loài động vật nổi. Đặc biệt, kết quả nghiên cứu làm cơ sở cho việc đề xuất đối tượng nuôi trồng thủy sản thích hợp, sử dụng có hiệu quả nguồn thức ăn tự nhiên là động vật nổi. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là khu hệ động vật nổi (Zooplankton) ở hồ Tây, tỉnh Đăk Nông. Trên toàn bộ mặt hồ chọn 3 điểm. Ba điểm thu mẫu tiêu biểu đại diện cho toàn bộ lưu vực hồ (hình 1). 2. Phương pháp nghiên cứu 2.1.Phương Pháp nghiên cứu ngoài thực địa Sử dụng lưới Juday (gas 68) để thu mẫu định tính và định lượng động vật nổi (Zooplankton) ở mỗi điểm. Mẫu định tính được thu theo kiểu kéo zích zắc. Đặt miệng lưới cách mặt nước 20-30 cm rồi kéo theo hình ziczắc, từ 2-4 lượt rồi nhấc lưới, đưa mẫu vào lọ đựng mẫu có thể tích 250mL đã chuẩn bị sẵn. Mẫu định lượng thu theo phương pháp lọc. Múc 64 lít nước tại điểm thu mẫu đổ qua lưới Juday để lọc mẫu. Chuyển mẫu ở ống đáy của lưới qua lọ đựng mẫu có thể tích 250mL. Toàn bộ mẫu định tính và định lượng được cố định mẫu bằng formalin (2-4%), lắc đều mẫu, đánh dấu mẫu (ghi nhãn). 2.2. Phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm Phân tích định loại tên khoa học bằng phương pháp so sánh hình thái. Các tài liệu chính được sử dụng để định loại là: Định loại động vật không xương sống (ĐVKXS) ở nước ngọt Bắc Việt Nam của Đặng Ngọc Thanh, Thái Trần Bái, Phạm Văn Miên (1980) [3]; Định loại các nhóm ĐVKXS nước ngọt thường gặp ở Việt Nam của Nguyễn Xuân Quýnh (2001) [2]; A. Shirota (1968) [4]. Chúng tôi sử dụng các tài liệu trên để phân loại từ bộ, họ, tới loài theo khóa định loại lưỡng phân. Định lượng động vật nổi (Zooplankton): Sử dụng ống đong có chia vạch tới mm để xác định lượng nước cô đặc sau khi lọc qua lưới. Dùng pipet lấy 1ml nước có chứa mẫu ở mẫu nước cô đặc cho lên buồng đếm động vật nổi sau đó đưa mẫu lên soi trên kính hiển vi ở độ phóng đại 10 lần,. Đếm trực tiếp các loài bắt gặp bằng cách di chuyển buồng đếm theo tọa độ từ trên xuống dưới, từ trái qua phải. Số lượng động vật phù du được tính theo công thức: N0 = CxV2x1000:V1 xV3 N0 :Số lượng Zooplankton (con/m 3) C: Cá thể đếm được trên buồng đếm V1 : Số ml nước mẫu lấy để đếm (1ml) V2 : Số ml nước mẫu đong được sau khi cô đặc V3: Thể tích nước đã lọc (L) Từ kết quả thu được qua các điểm và thời gian thu mẫu, chúng tôi đã xác định được mật độ cá thể động vật nổi ở hồ Tây Đăk Mil theo mùa và thời điểm chuyển mùa: mùa khô, chuyển mùa khô sang màu mưa, mùa mưa và chuyển mùa mưa sang mùa khô. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2015 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 41 III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 1. Đặc trưng và cấu trúc động vật không xương sống ở hồ Tây, tỉnh Đăk Nông Trong thời gian nghiên cứu, đã xác định được 45 loài động vật nổi và 5 dạng ấu trùng (Nauplius, Copepodid, ấu trùng giun nhiều tơ, ấu trùng chữ D và ấu trùng giáp xác râu ngành), trong đó: Trùng bánh xe (Rotatoria) chiếm ưu thế 21 loài thuộc 8 họ 12 giống. Tiếp đến là râu ngành (Cladocera) có 14 loài thuộc 4 họ 9 giống. Lớp phụ chân mái chèo (Copepoda) 9 loài thuộc 5 họ và 7 giống. Còn lại giáp trai (Ostracoda) có 1 loài. Thành phần loài động vật nổi ở hồ Tây Đăk Mil đều có nguồn gốc nước ngọt. Trong đó có loài Notholca.sp phân bố chính ở nước ngọt tuy nhiên nó có khả năng sinh sống ở thủy vực nước lợ. Nhóm loài thuộc ngành luân trùng chiếm ưu thế (47%) chứng tỏ hồ Tây Đăk Mil có hàm lượng chất hữu cơ cao. Hầu hết các loài thuộc ngành luân trùng có kích thước cơ thể nhỏ, vỏ mỏng có thể làm thức ăn tốt cho đối tượng nuôi trồng thủy sản. Một vài loài có vỏ dày chiếm tỷ lệ thấp (4,4%) bao gồm Keratella cochlesris thuộc họ Brachionidae và giáp trai không thích hợp làm thức ăn cho đối tượng nuôi trồng thủy sản. Đáng chú ý, trong thành phần loài động nổi không có loài nào là đối tượng gây hại cho đối tượng nuôi trồng thủy sản. Hình 1. Sơ đồ các điểm thu mẫu ở hồ Tây, tỉnh Đăk Nông Hình 2. Biểu đồ số lượng các họ, giống và loài trong thành phần loài động vật nổi ở hồ Tây Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2015 42 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Về bậc họ, trong tổng số 16 họ, luân trùng (Rotatoria) 8 họ (chiếm 50,00%), giáp xác râu ngành (Cladocera) 4 họ (chiếm 25,00%), giáp xác chân mái chèo 3 họ (chiếm 18,75%) còn lại là giáp trai 1 họ (chiếm 6,25%). Họ có số lượng giống cao nhất là Chydoridae có 4 giống tiếp đến là họ Brachionidae và Diaptomidae có 3 giống, họ Asplanchinidae, Synchaetidae, Bosminidae, Sididae đều có 2 giống còn lại các họ Filinidae, Hexathrhdae, Philodinidae, Trichocercidae, Podonidae, Pseudodiaptomidae, Heterorhabdidae, Canthocamptidae, Viguierellidae mỗi họ chỉ có một giống. Bảng 1. Số lượng và tỷ lệ các taxon động vật nổi ở hồ Tây STT Tên Bộ Số loài Tỉ lệ % Tên Họ Số loài Tỉ lệ % Tên Giống Số loài Tỉ lệ % 1 Ploimida 21 46.7 Asplanchinidae 2 4.4 Anuraeopsis 1 2.2 Ascomorpha 1 2.2 Brachionidae 6 13.3 Brachionus 4 8.9 Keratella 1 2.2 Notholca 1 2.2 Filinidae 2 4.4 Filinia 1 2.2 Hexathrhdae 1 2.2 Hexathra 1 2.2 Philodinidae 1 2.2 Rotaria 2 4.4 Synchaetidae 2 4.4 Ploesoma 1 2.2 Polyarthra 1 2.2 Scaridiidae 1 2.2 Scaridium 1 2.2 Trichocercidae 6 13.3 Trichocerca 6 13.3 2 Cladocera 14 31.1 Bosminidae 4 8.9 Bosmina 3 6.7 Bosminopsis 1 2.2 Chydoridae 6 13.3 Alona 2 4.4 Alonella 1 2.2 Biapertura 1 2.2 Chydorus 2 4.4 Sididae 3 6.7 Sida 1 2.2 Diaphanosoma 2 4.4 Podonidae 1 2.2 Podon 1 2.2 3 Calanoida 7 15.6 Diaptomidae 4 8.9 Allodiaptomus 2 4.4 Eodiaptomus 1 2.2 Mongolodiaptomus 1 2.2 Pseudodiaptomidae 2 4.4 Schmackeria 2 4.4 Heterorhabdidae 1 2.2 Heterorhabdus 1 2.2 4 Harpacticoida 2 4.4 Canthocamptidae 1 2.2 Canthocamptus 1 2.2 Viguierellidae 1 2.2 Phyllognathopus 1 2.2 5 Ostracoda 1 2.2 1 2.2 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2015 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 43 Về bậc giống, ở hồ Tây Đăk Mil đã xác định được tổng số 27 taxon bậc giống. trong đó ngành luân trùng (Rotatoria) chiếm ưu thế với 12 giống (44,44%), tiếp đến là giáp xác râu ngành (Cladocera) 9 giống (33,33%), giáp xác chân mái chèo (Copepoda) 9 giống (18,52%), thấp nhất là giáp trai chỉ có 1 giống duy nhất (3,70%). Giống Trichocerca có số lượng loài nhiều nhất 6 loài, tiếp đến là giống Brachionus có 4 loài, Bosmina có 3 loài, các giống Rotaria, Alona Chydorus, Diaphanosoma, Schmackeria mỗi giống có 2 loài, ngoài ra các giống còn lại trong bảng 1 đều có 1 loài. Về bậc loài trong tổng số loài định dạng được ở hồ Tây thì luân trùng (Rotatoria) có số lượng loài nhiều nhất 21 loài (chiếm 46,67%), tiếp đến là râu ngành (Cladocera) 14 loài (chiếm 31,11%), giáp xác chân mái chèo (Copepoda) 9 loài (chiếm 20,00%), thấp nhất giáp trai (Ostracoda) chỉ có 1 loài (chiếm 2,22%) và 5 dạng ấu trùng. 2. Sự biến động về số lượng loài và mật độ động vật ở hồ 2.1. Về số lượng Số lượng thành phần loài động vật nổi ở hồ Tây Đăk Mil khá đa dạng, thành phần loài chủ yếu là thuộc ngành luân trùng (Rotatoria), giáp xác râu ngành (Cladocera) và giáp xác chân chèo (Copepoda). Tuy nhiên, giữa các lần thu mẫu có sự biến động rõ rệt về thành phần loài. Sự biến động về thành phần loài trong thủy vực phụ thuộc chặt chẽ vào điều kiện thủy lý, thủy hóa, hàm lượng chất hữu cơ, mật độ tảo, mùa vụ và sự phát triển của nhóm động vật ăn động vật nổi. Qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy số lượng các loài động vật nổi ở hồ Tây có sự sai khác theo mùa vụ thu mẫu. Số lượng thành phần loài xuất hiện nhiều nhất vào mùa khô 45 loài và 5 loại ấu trùng, tiếp đến là thời điểm giao mùa giữa mùa mưa và mùa khô (36 loài và 4 loại ấu trùng, đứng thứ 3 là vào mùa mưa (21 loài và 4 loại ấu trùng) thấp nhất vào thời điểm giao mùa giữa mùa khô và mùa mưa 12 loài và 3 loại ấu trùng. Kết quả này tương tự với nghiên cứu của Võ Văn Phú và cộng tác viên (2009) [1]về thành phần loài động không xương sống ở hồ Phú Ninh – Quảng Nam có số lượng loài động vật nổi ở mùa khô cao hơn mùa mưa. Sự khác biệt về thành phần loài giữa các mùa phụ thuộc vào hàm lượng chất hữu cơ và sự phát triển của tảo. Vào mùa khô các hợp chất hữu cơ tích tụ trong hồ phân hủy nhiều, tảo phát triển mạnh dẫn tới động vật nổi phát triển theo. Cuối mùa khô đầu mùa mưa hàm hượng các chất hữu cơ đã giảm, tảo phát triểm kém nên số lượng loài giảm theo. Sang mùa mưa hồ được bổ sung thêm các chất hữu cơ từ vùng trên bờ do dòng chảy đổ vào hồ nên thành phần loài bắt đầu tăng lên. Cuối mùa mưa và đầu mùa khô nguồn thức ăn phong phú (chất hữu cơ cao, tảo phát triển mạnh) động vật nổi bắt đầu phát triển mạnh, số lượng loài xuất hiện nhiều hơn, để đạt mật độ cá thể loài cao nhất vào mùa khô. Hình 3. Số lượng thành phần loài động vật nổi phân bố ở hồ Tây theo các đợt thu mẫu Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2015 44 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG 2.2. Về mật độ Kết quả phân tích cho thấy mật độ động vật nổi ở hồ Tây Đăk Mil biến động từ 53.385 con/m3 đến 310.546 con/m3. Do đặc tính của hồ có diện tích nhỏ, độ sâu không cao, tích lũy nhiều chất hữu cơ do dòng nước đưa tới vào mùa mưa tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều loài động vật nổi thích nghi phân bố và phát triển mạnh nên mật độ cá thể đạt mức cao. Hình 4. Biến động về mật độ ở hồ Tây theo thời điểm thu mẫu Mặc dù hồ có diện tích nhỏ, dòng chảy hầu như không đáng kể nhưng giữa các điểm thu mẫu 1, 2, 3 vẫn có sự khác biệt về mật độ cá thể. Vào mùa khô và thời điểm đầu mùa khô chuyển sang mùa mưa thì điểm số 3 có mật độ động vật nổi cao nhất (mùa khô đạt 310.546 con/m3, mùa khô chuyển sang mùa mưa 73.125 con/m3) sau đó đến điểm số 2 (mùa khô 271.484 con/m3, đầu mùa khô chuyển sang mùa mưa 50.313 con/m3) thấp nhất ở điểm số 1 (mùa khô 99.609 con/m3, đầu mùa khô chuyển sang mùa mưa 36.719 con/m3). Ngược lại, vào mùa mưa mật độ động vật nổi lại cao nhất ở điểm số 1 (186.188 con/m3) tiếp đến là điểm số 2 (162.187 con/m3) thấp nhất là điểm số 3 (103.710 con/m3). Sở dĩ có sự khác nhau về số lượng loài ở các điểm khác nhau trên hồ là do sự tích tụ hợp chất hữu cơ cũng như độ sâu của các vị trí thu mẫu không giống nhau. Điểm số 3 là ở vị trí eo ngách, có độ sâu thấp tích tụ được lượng hữu cơ nhiều do hai bên bờ hồ đổ xuống vào mùa mưa, đến mùa khô phân hủy thành nguồn dinh dưỡng chính cho thực vật phát triển là tiếp đến động vật phu du phát triển theo. Tuy nhiên vào mùa mưa nước ở 2 bên bờ đổ xuống tạo dòng chảy đẩy hầu hết các loài động vật nổi có kích thước nhỏ không có khả năng bơi ngược dòng nước về phía đập tràn. Điểm số 1 là vị trí đón dòng chảy từ ngách phía trên hồ nên vào mùa mưa mật độ động vật nổi ở đây đạt cao nhất. Điểm số 2 gần đập tràn vừa tích tụ được hợp chất hữu cơ vừa đón các loài động vật nổi do dòng nước từ ngách số 3 đưa tới vào mùa mưa. Nên mật độ cá thể động vật nổi ở vị trí này ở cả mùa mưa và mùa khô đều giữ ở mức trung gian giữa điểm thu mẫu số 1 và số 3. IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận - Thành phần loài động vật nổi ở hồ Tây Đăk Mil của tỉnh Đăk Nông khá đa dạng. Đã xác định được 45 loài động vật nổi (Zooplankton) và 5 dạng ấu trùng (Larva) thuộc 29 giống của 18 họ và 5 bộ. - Trong thành phần loài động vật nổi ở hồ Tây, lớp luận trùng (Rotatoria) có số lượng loài nhiều nhất 21 loài (chiếm 46,67%), tiếp đến là râu ngành (Cladocera) 14 loài (chiếm 31,11%), giáp xác chân mái chèo (Copepoda) Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2015 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 45 9 loài (chiếm 20,00%), thấp nhất giáp trai (Ostracoda) chỉ có 1 loài (chiếm 2,22%) và 5 dạng ấu trùng. - Số lượng các loài động vật nổi xuất hiện ở các đợt thu mẫu biến động từ 12-45 loài. Kết quả nghiên cứu sự biến động về mật độ theo thời gian (theo mùa) và không gian (điểm thu mẫu) đã xác định được mật độ động vật nổi giao động từ 36.719 – 310.546 con/m3. 2. Kiến nghị - Mật độ động vật nổi ở hồ Tây rất cao, thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản. Vì vậy, có thể thả nuôi một số loài cá ăn nổi có giá trị kinh tế để tận dụng nguồn thức ăn tự nhiên phong phú trong hồ nhằm nâng cao năng suất sinh học của hồ, phát triển kinh tế cho người dân sống quanh lưu vực hồ. - Mật độ động vật nổi thấp (53.385 con/m3) vào cuối mùa khô đầu mùa mưa chứng tỏ thời điểm này hàm lượng chất hữu cơ trong hồ giảm mạnh. Vì vậy, cần chủ động bón phân cho mặt nước để tăng nguồn thức ăn tự nhiên cho các loài cá ăn nổi trong hồ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Võ Văn Phú, Hoàng Đình Trung, Dẫn liệu bước đầu về thành phần loài động vật không xương sống ở hồ Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam. Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, Số 52, 2009 2. Nguyễn Xuân Quýnh, Định loại các nhóm ĐVKXS nước ngọt thường gặp ở Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2001. 3. Đặng Ngọc Thanh, Thái Trần Bái, Phạm Văn Miên, Định loại ĐVKXS nước ngọt Bắc Việt Nam, NXB Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội, 1980. 4. The plankton of South Viet Nam of A.Shirota, Over sea Techimical copperation Agency Japan, 1968.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf6_truong_thi_bich_hong_4_2015_3215_2024289.pdf