Dân chủ của nông dân và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn Việt Nam hiện nay

- Nhà nước Trung ương và địa phương cần tập trung đầu tư kinh phí để in ấn hàng loạt các văn bản quy chế và đưa tới tận từng hộ gia đình. Huy động các phương tiện thông tin đại chúng để quảng bá rộng rãi thông tin, tuyên truyền, giáo dục nhận thức về quy chế trong toàn dân, đặc biệt là nông dân ở nông thôn. Thực hiện xây dựng các thiết chế văn hóa cho tất cả các thôn, làng, ít nhất mỗi thôn, làng có một hội trường hay nhà văn hóa, làm trụ sở để họp dân và các hộ dân. - Triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở cùng với thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) của Đảng về đổi mới hệ thống chính trị, lấy cải cách chính quyền cơ sở (xã) và chất lượng đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng cán bộ làm khâu đột phá. Đưa quy chế dân chủ vào nội dung giảng dạy, đào tạo chính thức tại các trường chính trị tỉnh và các trung tâm giáo dục huyện. - Kiểm soát chặt chẽ và chấn chỉnh tình trạng các hương ước đang tồn tại trái với luật hiện hành. - Xóa bỏ “cơ chế xin - cho” trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong xây dựng, đấu thầu, phân bổ dự án. Đây chính là đầu mối xuất hiện tham nhũng, bòn rút quỹ công, làm tổn hại lợi ích của nông dân. Đó là một số giải pháp có tính cấp bách. Cần lưu ý rằng, Quy chế dân chủ ở cơ sở sẽ tồn tại lâu dài như một đạo luật, như một chính sách xây dựng và phát triển dân chủ ở nước ta. Để chính sách đó thực sự phát huy tác dụng đối với xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội và phát triển sức dân, thì mấu chốt vẫn là đội ngũ cán bộ thực thi chính sách. Bởi lẽ: “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”1. Và “Khi đã có chính sách đúng thì sự thành công hay thất bại của chính sách đó là do nơi tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra. Nếu 3 điều ấy sơ sài thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”2. Những chỉ dẫn sâu sắc đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh cần được ghi nhớ và thực hiện có hiệu quả trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay.

doc7 trang | Chia sẻ: tuanhd28 | Lượt xem: 1966 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dân chủ của nông dân và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DÂN CHỦ CỦA NÔNG DÂN VÀ THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ NÔNG THÔN VIỆT NAM HIỆN NAY TS Đinh Quốc Triệu Trường Sĩ quan Chính trị - Bộ Quốc phòng Dân chủ gắn bó chặt chẽ với quyền sống của con người, có vai trò và tác dụng to lớn đối với sự phát triển của con người và xã hội, nhất là trong xã hội hiện đại. Không thể hình dung được sự tiến bộ xã hội và sự phát triển của lịch sử mà lại thiếu vắng dân chủ. Đây là một trong những tiêu chí căn bản để đánh giá tính chất và trình độ phát triển của một xã hội có giai cấp với một thể chế chính trị được tổ chức thành nhà nước. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ được xây dựng và hình thành trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, mang bản chất giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản để thực hiện và đảm bảo quyền làm chủ thực sự của đông đảo quần chúng nhân dân đối với xã hội. Với tư cách là đỉnh cao trong toàn bộ lịch sử tiến hoá của dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa kết tinh trong bản thân mình toàn bộ những giá trị dân chủ đạt được trong lịch sử và nảy sinh những giá trị dân chủ mới về chất. Ở đây, dân chủ trở thành giá trị phổ biến của xã hội, thâm nhập vào mọi quan hệ, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, bao quát mọi góc độ trong sự tồn tại, phát triển của con người và xã hội. Từ “dân là chủ” tiến lên thành “dân làm chủ” là một bước tiến về chất, một quá trình phấn đấu vượt qua rất nhiều khó khăn, trở ngại trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Phải làm sao để người dân Việt Nam có điều kiện và biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình đúng lúc, đúng chỗ, dám nói, dám làm, dám đấu tranh để bảo vệ quyền lợi và trách nhiệm của mình theo pháp luật. Trong rất nhiều vấn đề đặt ra của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, vấn đề dân chủ của nông dân và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn là một vấn đề lớn vừa có ý nghĩa lý luận cơ bản, lâu dài, vừa có ý nghĩa thực tiễn và có tính thời sự cấp bách. Thực hiện thành công vấn đề này, sẽ tạo động lực to lớn thúc đẩy sự nghiệp đổi mới trên quy mô cả nước, giữ vững được sự ổn định chính trị - xã hội để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới; tạo nền tảng vững chắc để nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Dân chủ của nông dân là nói tới dân chủ của một cộng đồng xã hội rộng lớn ở nông thôn, một đối tượng xã hội đặc thù của nước ta trên con đường phát triển, một cơ sở xã hội quan trọng nhất của đổi mới, của ổn định để phát triển. Nông thôn làng xã Việt Nam với trên 60 triệu người, hơn 10 triệu hộ gia đình, trên 10.000 cơ sở xã, phường, thị trấn của 64 tỉnh, thành cả nước, nông dân sinh sống và làm ăn ở nông thôn làng xã gắn bó từ bao đời nay với nghề nông là chủ yếu (trồng trọt và chăn nuôi kết hợp với làm nghề truyền thống). Đây thực sự là đối tượng xã hội trọng điểm, quan trọng nhất mà toàn bộ nội dung, giải pháp xây dựng dân chủ ở nước ta hiện nay phải hướng tới, theo tinh thần “hướng về cơ sở, tất cả cho sơ sở”, “phát triển toàn diện nông thôn - nông nghiệp và nông dân”. Sự ổn định, đổi mới và phát triển đất nước, nếu coi nhân lực là nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự tiến bộ và phát triển xã hội thì nguồn nhân lực nông dân ở nông thôn nước ta đang đứng trước yêu cầu biến đổi có tính chất đột phá. Điều này càng cho thấy tầm quan trọng của dân chủ cho nông dân và sự cần thiết phải thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn làng xã nước ta. Trong những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, nhiều “điểm nóng” có thể dẫn tới mất ổn định chính trị - xã hội lại chủ yếu diễn ra ở nông thôn. Sự việc Thái Bình từ năm 1994 đến 1997, Tây Nguyên từ năm 2001 đến 2004 là những ví dụ điển hình, một sự cảnh báo đối với thể chế. Nó làm sáng tỏ thực tiễn: xây dựng và phát huy dân chủ không tách rời cuộc đấu tranh kiên quyết và triệt để chống quan liêu, tham nhũng, chống lại sự thoái hóa biến chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức trong tất cả các tổ chức, bộ máy của thể chế. Quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ đang làm suy yếu cơ sở xã hội của Đảng và Nhà nước bởi sự mất lòng tin của nhân dân, bởi những phản ứng của người dân bất bình trước “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn diễn biến phức tạp làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước” Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG-ST, Hà Nội, 2011, tr.173. . Xây dựng và phát huy dân chủ phải đặc biệt coi trọng dân chủ ở cơ sở bằng Quy chế dân chủ ở cơ sở, “Thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn” Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG-ST, Hà Nội, 2011, tr. 239. , đặc biệt là đối với nông dân ở các làng xã. Nói tới cơ sở là nói tới dân và cuộc sống của dân, tới cán bộ cơ sở và tổ chức bộ máy thể chế ở cơ sở. Là hình ảnh thu nhỏ của xã hội, cơ sở làng xã không chỉ là “cái vi mô” mà thực chất nó chính là “cái vĩ mô” được thu nhỏ lại, do đó phải giải quyết những vấn đề phát triển ở làng xã với tầm nhìn vĩ mô, chiến lược. Dân trí thấp là một trở ngại để phát triển dân chủ, đói nghèo, lạc hậu cũng làm cản trở không ít sự quan tâm tới dân chủ. Hai trở ngại này đang tồn tại rất rõ nét ở cơ sở, ở chính nông dân, một lực lượng chiếm số đông trong xã hội ta. Trong điều kiện của nước ta, do những đặc điểm hiện tại và hoàn cảnh lịch sử, việc giải quyết thành công vấn đề ổn định để phát triển đối với nông dân, hộ nông dân, thể chế nông thôn làng xã sẽ quyết định một phần lớn toàn bộ chiến lược phát triển của xã hội, góp phần quan trọng để “Xây dựng, phát huy vai trò chủ thể của giai cấp nông dân trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn” Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG-ST, Hà Nội, 2011, tr.80. . Dân chủ của nông dân, ở nông thôn, xét trên một mức độ nào đó, có thể nói, đó là dân chủ của nhân dân lao động ở nước ta, ở mọi tầng lớp của cơ cấu xã hội. Bởi lẽ cho đến nay, nước ta căn bản vẫn là một nước nông nghiệp, tỷ lệ cơ cấu lao động trong nông nghiệp chiếm 48,2% (năm 2010), nông dân vẫn là đại diện chủ yếu cho cộng đồng dân cư. Xuyên suốt các thời kỳ, các giai đoạn của cách mạng Việt Nam, vấn đề độc lập dân tộc và dân chủ luôn luôn là những vấn đề sống còn của dân tộc ta, là vấn đề bức xúc của tồn tại và phát triển đối với dân tộc và nông dân, một bộ phận dân cư chiếm số đông nhất trong xã hội Việt Nam. Dù trong quá trình phát triển, thường có những dích dắc và thăng trầm nào đó, nhưng xu hướng phát triển của xã hội ta tất yếu chỉ có thể là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đối với nông dân và nông thôn nước ta, chỉ có độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mới là con đường đảm bảo chắc chắn nhất và có triển vọng nhất để đưa nông dân tới cuộc sống ấm no về vật chất, văn minh và hạnh phúc về tinh thần. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu lâu dài của cách mạng Việt Nam, là quy luật phát triển của xã hội ta trong thời đại hiện nay. Để thực hiện được độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì phải thực hiện và phát triển dân chủ. Dân chủ vừa là điều kiện vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển bền vững, thực chất của độc lập dân tộc. Dân chủ còn thuộc về nội dung và giá trị nói lên bản chất của chủ nghĩa xã hội, là thước đo trình độ phát triển của chủ nghĩa xã hội. Không có dân chủ thì cũng không có chủ nghĩa xã hội. Dân chủ là sự khẳng định và đảm bảo trên thực tế quyền làm chủ xã hội của nhân dân lao động. “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG-ST, Hà Nội, 2011, tr.84,85. . Nền dân chủ mà chúng ta xây dựng là nền dân chủ đảm bảo lợi ích và quyền lực của đa số nhân dân lao động. Đó là nền dân chủ của số đông, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa chứ không phải dân chủ của số ít, của thiểu số thuộc giai cấp thống trị như nền dân chủ tư sản. Qua 25 năm thực hiện đổi mới đất nước, thành tựu đạt được là rất to lớn, nhưng những hạn chế, khiếm khuyết và cả những vấn đề phát sinh cũng không nhỏ. Nhìn từ góc độ dân chủ và dân chủ hóa thì những hạn chế, khiếm khuyết và những vấn đề phát sinh đó đều liên quan trực tiếp đến vấn đề dân chủ của nông dân và dân chủ ở nông thôn. Do đó, đẩy mạnh cuộc vận động thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở hiện nay ở nước ta, trước hết và chủ yếu là thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn, dân chủ ở làng xã đối với nông dân. Dân chủ của nông dân trước hết phải hướng vào những nội dung của hai lĩnh vực có quan hệ trực tiếp với sự tồn tại và phát triển của người nông dân. Đó là dân chủ trong kinh tế và dân chủ trong chính trị. Nếu dân chủ là thực hiện những lợi ích và những quyền cơ bản mà người dân phải được hưởng với tư cách người chủ, là sự gắn liền giữa quyền với nghĩa vụ, lợi ích với trách nhiệm thì thực hiện dân chủ cho nông dân ở nông thôn hiện nay phải tập trung giải quyết những vấn đề thiết thân nhất đối với họ. Đó là: có việc làm ổn định, có điều kiện để phát triển sản xuất, có đời sống vật chất, tinh thần được cải thiện, được sống trong môi trường xã hội nông thôn (làng, xã, thôn, bản, ấp) bình yên, lành mạnh, tiến bộ để họ và con em họ có thể phát huy được những khả năng sáng tạo của mình, được quyền chủ động và tích cực tham gia vào các công việc của quản lý, của hoạt động kinh tế - xã hội, văn hóa, thực sự có quyền lựa chọn người đại diện cho họ mà ủy quyền, đồng thời cũng thực sự giám sát, kiểm soát hoạt động, kết quả công việc và phẩm chất của những người đại diện cho sự ủy quyền đó của dân. Quyền dân chủ cũng đồng thời là nghĩa vụ, bổn phận góp sức vào xây dựng thể chế dân chủ, đấu tranh làm cho thể chế ấy trở nên trong sạch, vững mạnh. Ở đây là đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, chống lợi dụng chức quyền để làm tổn hại tới lợi ích chung, xâm phạm quyền dân chủ của dân, đấu tranh chống lại những hành vi đè nén, áp bức dân chúng, hống hách, cửa quyền, nhũng nhiễu và xách nhiễu dân chúng của những người có chức, có quyền. Do đó, giải quyết những vấn đề dân chủ của nông dân không thể không liên quan tới việc đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh nhất những quy định về quyền và nghĩa vụ của dân, với tư cách là chủ hộ sản xuất, kinh doanh, chủ trang trại, thành viên của kinh tế hợp tác xã; của người công dân có quan hệ trực tiếp với pháp luật, với chính quyền từ Ủy ban nhân dân xã tại cơ sở tới nhà nước các cấp ở địa phương và Nhà nước Trung ương. Việc thực hiện những quy định về quyền và nghĩa vụ đó của công dân phải dựa vào Hiến pháp, pháp luật chính thống của Nhà nước, những chủ trương, chính sách đã ban hành và có hiệu lực pháp lý của Nhà nước, của các cấp chính quyền ở địa phương và cơ sở trên nguyên tắc đúng luật và công khai. Người dân ở nông thôn thường xuyên có quan hệ với thể chế và đội ngũ cán bộ, công chức trong thể chế. Quan hệ đó là quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ, là quan hệ giữa con người với tổ chức và công việc, quan hệ giữa con người với con người. Thể chế và đội ngũ cán bộ, công chức trong thể chế phải coi dân là chủ thể ủy quyền của mình, là đối tượng phục vụ của mình, dân cũng là lực lượng giám sát, kiểm tra mọi hoạt động của mình. Quan hệ đó phải diễn ra trên tinh thần pháp luật, kỷ cương, kỷ luật, nó phải thấm nhuần tính pháp lý và tính nhân văn, thể hiện sự bình đẳng, hợp tác, giúp đỡ và tôn trọng lẫn nhau. Quan hệ đó cũng chính là đạo đức, là văn hóa của từng công dân và của Nhà nước dân chủ pháp quyền. Vấn đề cải cách thể chế, xây dựng chính quyền và hệ thống chính trị nói chung ở cơ sở làng xã là một vấn đề rất lớn phải giải quyết để thực hiện quyền dân chủ chính trị cho nông dân. Quy chế dân chủ ở xã mà Trung ương Đảng và Chính phủ ban hành hướng chủ yếu vào thực hiện mục đích này. Tinh thần cơ bản của quy chế dân chủ ở nông thôn làng xã là thực hiện triệt để các biện pháp chống quan liêu, tham nhũng, làm trong sạch thể chế từ cơ sở, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở xã, thôn, làng, bản, ấp, coi đó là khâu quyết định hiệu lực, hiệu quả của chính quyền cơ sở, của hệ thống chính trị ở cơ sở. Sự ủy quyền của dân có đảm bảo được lành mạnh và có làm cho dân thực sự là người chủ không, có ngăn ngừa được những biến dạng phản dân chủ hay không, điều đó tùy thuộc một phần lớn vào phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, vào sự đoàn kết nhất trí và phối hợp hành động cùng với sự đổi mới phương pháp hoạt động của các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể ở nông thôn. Trong tình hình hiện nay, để tránh cho Quy chế dân chủ ở cơ sở rơi vào hình thức, cần thực hiện một số giải pháp hỗ trợ sau: - Sửa chữa, bổ sung, hoàn thiện về mặt văn bản và tăng cường tính pháp lý, tính chế tài của quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở nông thôn. Tính đến thực tế về trình độ nhận thức và tâm lý nông dân, quy chế cần sự phong phú, sâu sắc hơn về nội dung tư tưởng, tính cụ thể thiết thực, tính chặt chẽ, hàm súc, thu gọn số trang, số điều, theo phương châm ít lời, nhiều ý, ngắn gọn, giản dị, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thuộc, dễ thực hiện, dễ kiểm tra, đánh giá. - Nhà nước Trung ương và địa phương cần tập trung đầu tư kinh phí để in ấn hàng loạt các văn bản quy chế và đưa tới tận từng hộ gia đình. Huy động các phương tiện thông tin đại chúng để quảng bá rộng rãi thông tin, tuyên truyền, giáo dục nhận thức về quy chế trong toàn dân, đặc biệt là nông dân ở nông thôn. Thực hiện xây dựng các thiết chế văn hóa cho tất cả các thôn, làng, ít nhất mỗi thôn, làng có một hội trường hay nhà văn hóa, làm trụ sở để họp dân và các hộ dân. - Triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở cùng với thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) của Đảng về đổi mới hệ thống chính trị, lấy cải cách chính quyền cơ sở (xã) và chất lượng đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng cán bộ làm khâu đột phá. Đưa quy chế dân chủ vào nội dung giảng dạy, đào tạo chính thức tại các trường chính trị tỉnh và các trung tâm giáo dục huyện. - Kiểm soát chặt chẽ và chấn chỉnh tình trạng các hương ước đang tồn tại trái với luật hiện hành. - Xóa bỏ “cơ chế xin - cho” trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong xây dựng, đấu thầu, phân bổ dự án. Đây chính là đầu mối xuất hiện tham nhũng, bòn rút quỹ công, làm tổn hại lợi ích của nông dân. Đó là một số giải pháp có tính cấp bách. Cần lưu ý rằng, Quy chế dân chủ ở cơ sở sẽ tồn tại lâu dài như một đạo luật, như một chính sách xây dựng và phát triển dân chủ ở nước ta. Để chính sách đó thực sự phát huy tác dụng đối với xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội và phát triển sức dân, thì mấu chốt vẫn là đội ngũ cán bộ thực thi chính sách. Bởi lẽ: “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”1 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tập 5, tr.240. . Và “Khi đã có chính sách đúng thì sự thành công hay thất bại của chính sách đó là do nơi tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra. Nếu 3 điều ấy sơ sài thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”2 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tập 5, tr. 520-521. . Những chỉ dẫn sâu sắc đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh cần được ghi nhớ và thực hiện có hiệu quả trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docdan_chu_cua_nong_dan_va_thuc_hien_quy_che_dan_chu_8041.doc