4. KẾT LUẬN
Chất mang RHA và các vật liệu FexOy/RHA đã
được tổng hợp thành công và được đặc trưng bằng
các phân tích hiện đại như TEM, FTIR, XRD. Các
vật liệu FexOy/RHA cho hiệu quả hấp phụ cao đối
với phốt phát trong dung dịch; trong đó mẫu 5
KL.% (FeCl3)- FexOy/RHA cho hiệu quả hấp phụ
phốt phát cao nhất ở điều kiện pH ∼ 5 và thời gian
hấp phụ 60 phút. Đồng thời kết quả cũng cho
thấy, vai trò của tương tác giữa RHA (tro trấu sau
hoạt hóa) và các hạt nano oxit sắt trong việc nâng
cao hiệu quả hấp phụ phốt phát từ dung dịch.
Nghiên cứu này góp phần mở đường cho những
ứng dụng khác của tro trấu sau khi hoạt hóa
9 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 527 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc trưng và khả năng hấp phụ phốt phát của vật liệu FexOy/tro trấu - Nguyễn Trung Thành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 61 – 69
61
ĐẶC TRƯNG VÀ KHẢ NĂNG HẤP PHỤ PHỐT PHÁT CỦA VẬT LIỆU FexOy/TRO TRẤU
Nguyễn Trung Thành1, Phan Phước Toàn1, Lê Trí Thích1, Lê Ngọc Hăng1
1Trường Đại học An Giang
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 19/10/2016
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
28/02/2017
Ngày chấp nhận đăng: 06/2017
Title:
Characteristics and phosphate
adsorption capacity of
FexOy/activated rice husk ash
Keywords:
Phosphate adsorption, iron
oxide nanoparticles, rice
husk ash
Từ khóa:
Hấp phụ phốt phát, nano
oxit sắt, tro trấu
ABSTRACT
In this study, the FexOy/RHA (RHA-activated rice husk ash) was introduced as a
novel adsorbent with high potential toward phosphate removal, regarding the
aqueous solutions. The experimental results showed that FexOy/RHA had an
immediate absorption balance and FexOy/RHA together with 5% iron by weight
(5% (FeCl3)- FexOy/RHA) offered the highest phosphate absorption (∼ 62
mgPO43- calculated per unit by weight of FeCl3 impregnated) and was at 1.6
times that was higher than the absorption capacity of the 5% KL.%(FeCl3)-
FexOy/AC (AC-activated carbon). The cause may derive from the high specific
surface of RHA (∼ 410 m2/g) and strong interaction between iron oxide
particles and RHA support (particularly, within SiO2). It is clearly stated that
rice husk ash (after being activated by HF acid) played an important role to
enhance phosphate chemical absorption of iron oxide nanoparticles.
TÓM TẮT
Trong nghiên cứu này, vật liệu FexOy/RHA (RHA-tro trấu đã hoạt hóa) được
giới thiệu như một loại vật liệu hấp phụ mới và có tiềm năng ứng dụng trong
việc loại bỏ phốt phát. Kết quả thực nghiệm cho thấy vật liệu FexOy/RHA có
thời gian đạt cân bằng hấp phụ nhanh và vật liệu FexOy/RHA với hàm lượng sắt
5% theo khối lượng (5 KL.%(FeCl3)-FexOy/RHA) cho hiệu quả hấp phụ phốt
phát cao nhất (∼ 62 mgPO43- tính trên một đơn vị khối lượng FeCl3 được tẩm)
và cao hơn 1,6 lần so với khả năng hấp phụ của vật liệu 5 KL.%(FeCl3)-
FexOy/AC (AC-than hoạt tính). Nguyên nhân có thể là do diện tích bề mặt riêng
của tro trấu sau hoạt hóa lớn (~ 410 m2/g) và lực tương tác mạnh giữa các hạt
oxit sắt với chất mang (cụ thể là SiO2 có trong chất mang). Từ đó có thể nói
rằng, chất mang tro trấu (sau hoạt hóa bằng axit HF) đóng vai trò quan trọng
để nâng cao hiệu quả hấp phụ hóa học phốt phát của các hạt nano oxit sắt trên
bề mặt của nó.
1. GIỚI THIỆU
Trong nước thải, phốt pho thường có ở nồng độ
thấp và hầu hết chỉ tồn tại dạng phốt phát; bao
gồm phốt phát hữu cơ, phốt phát vô cơ (ortho-
phốt phát) và poly-phốt phát (hạt phốt pho). Khi
phốt phát được phóng thích vào nước mặt, một
trong số các vấn đề quan trọng về môi trường cần
được quan tâm đó là hiện tượng phú dưỡng
(Conley và cs., 2009; Chislock và cs., 2013). Cho
đến nay có rất nhiều nghiên cứu được thực hiện
về vấn đề loại bỏ phốt phát từ nước và nước thải.
Trong đó, phương pháp hấp phụ được đánh giá là
một trong những phương pháp hiệu quả để xử lý
phốt phát; bởi chi phí thực hiện thấp (bao gồm chi
phí đầu tư và vận hành), chất hấp phụ có thể tái sử
dụng nhiều lần và ít tạo ra chất độc hại sau quá
trình xử lý (Addo Ntim & Mitra, 2011; Nguyễn
Trung Thành và cs., 2014). Các vật liệu hấp phụ
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 61 – 69
62
phốt phát thường có thành phần hóa học trên cơ
bản là oxit nhôm và oxit sắt. Gần đây, việc sử
dụng các chất thải công nghiệp hoặc các phế
phẩm để loại bỏ phốt phát đã được chú ý với mục
đích giảm chi phí xử lý; như: tro bay (Smedley và
cs., 2002; Mondal và cs., 2006), xỉ lò cao
(Chatterjee và cs., 1995), bùn đỏ (Dhar và cs.,
1997), bùn phèn nhôm đã qua sử dụng
(Richardson, 2006) và cũng như các loại phế
phẩm khác chứa hàm lượng nhôm và sắt cao
(Navas Acien và cs., 2008), v.v... Tuy nhiên, hiệu
quả xử lý của các vật liệu này vẫn còn nhiều hạn
chế về dung lượng hấp phụ phốt phát tính trên
một đơn vị khối lượng vật liệu (khi so sánh với
các vật liệu tổng hợp có cùng thành phần là oxit
sắt và oxit nhôm). Do đó, việc tìm kiếm vật liệu
hấp phụ phốt phát đáp ứng yêu cầu về kinh tế và
hiệu quả hấp phụ vẫn là một thách thức lớn.
Gần đây, việc chế tạo vật liệu hấp phụ từ tro trấu
bằng phương pháp ăn mòn hóa học với axit HF đã
được nghiên cứu thành công và cho hiệu quả hấp
phụ cao đối với metyl da cam ở điều kiện pH
trung tính (Nguyễn Trung Thành và cs., 2010).
Nhận thấy rằng tro trấu sau hoạt hóa có thể thỏa
mãn các yêu cầu cần thiết của chất mang như diện
tích bề mặt riêng lớn và có cấu trúc composite
giữa cacbon và các oxit khác (trong đó có oxit
silic). Do đó, trong nghiên cứu này, ngoài mục
đích tìm kiếm vật liệu hấp phụ có hiệu quả cao đối
với phốt phát để xử lý ô nhiễm môi trường, còn
tận dụng nguồn tro trấu ở địa phương giúp nâng
cao giá trị sử dụng của các phụ phẩm nông nghiệp
và giải quyết các vấn đề ô nhiễm môi trường do
tro trấu gây ra.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
2.1 Hóa chất
Axit sunfuric (H2SO4-98 vol.%), axit flohydric,
NaOH có nguồn gốc Trung Quốc; FeCl3.6H2O
được cung cấp bởi Công ty Merck; nước khử ion
(Deionized-DI) được sử dụng trong quá trình tổng
hợp chất hấp phụ. KBr (cung cấp bởi Công ty
Merck) được sử dụng trong các phân tích đặc
trưng phổ hồng ngoại của vật liệu rắn. Dung dịch
chứa phốt phát: các mẫu nước và dung dịch chuẩn
chứa PO43- được chế từ muối KH2PO4 (được cung
cấp bởi Công ty Merck).
2.2 Tổng hợp vật liệu hấp phụ
2.2.1 Tổng hợp chất mang từ tro trấu
Tro trấu thô (có màu đen) được thu nhận từ các lò
đốt gạch tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Tro
trấu tươi (nguyên liệu cho quá trình sản xuất chất
mang) thu được bằng cách rửa tro trấu thô (vài lần
với nước DI) và sấy khô ở nhiệt độ 110 oC qua
đêm. Quá trình hoạt hóa tro trấu được thực hiện
bằng phương pháp ăn mòn hóa học với dung dịch
axit HF có nồng độ 10% theo thể tích. Cụ thể là
một hỗn hợp gồm 20 gam tro trấu tươi và 800 mL
dung dịch HF 10% thể tích được khuấy trộn liên
tục ở nhiệt độ phòng. Sau 30 phút khuấy trộn,
chất rắn được tách ra bằng cách lọc và rửa nhiều
lần với nước DI. Tro trấu đã hoạt hóa thu được
bằng cách sấy chất rắn này ở nhiệt độ 110 oC qua
đêm.
2.2.2 Tổng hợp vật liệu FexOy/RHA hoặc
FexOy/AC
Các hạt nano oxit sắt được gắn lên bề mặt của
RHA (hoặc AC) bằng phương pháp tẩm. Ở đây,
FeCl3.6H2O được sử dụng làm nguyên liệu cho
quá trình tổng hợp các hạt nano oxit sắt. Phương
pháp có thể được mô tả cơ bản như sau: đối với
mẫu có hàm lượng sắt được tẩm là 5% theo khối
lượng (5 KL.% (FeCl3)-FexOy/RHA), 100 mL hỗn
hợp huyền phù được tạo thành từ dung dịch
(83,23 mg) FeCl3.6H2O và (~ 950 mg) RHA
(hoặc AC), được khuấy trộn liên tục ở nhiệt độ 70
oC. Sản phẩm rắn thu được ở cuối quá trình bốc
hơi nước này. Tiếp theo, mẫu rắn này được sấy ở
110 oC qua đêm. Cuối cùng vật liệu FexOy/RHA
(hoặc AC) thu được sau quá trình nung 4 giờ ở
450 oC. Các vật liệu FexOy/RHA (hoặc AC) được
lưu giữ trong bình hút ẩm.
2.3 Xác định hàm lượng sắt
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 61 – 69
63
Hàm lượng sắt trong các mẫu FexOy/RHA và
FexOy/AC được xác định bằng phương pháp phát
xạ ngọn lửa với máy ICP (Industively Coupled
Plasma; iCap-6000, Thermal). Các dung dịch sắt
chuẩn được cung cấp từ Công ty Merck để xây
dựng đường chuẩn của sắt phục vụ cho việc xác
định hàm lượng sắt.
2.4 Phân tích đặc trưng của mẫu
Các phổ nhiễu xạ tia X của các mẫu được thực
hiện với máy D2 Phaser (model: XRD 300W,
Đức), bước góc quay là 0,05o, bước thời gian 30 s
sử dụng nguồn phát xạ là Cu Kα (λ= 1,5406 Å).
Hình dạng và kích thước hạt của FexOy/RHA
được chụp ảnh bằng kính hiển vi điện tử truyền
qua (TEM). Đặc trưng thành phần hóa học bề mặt
của các mẫu được thực hiện bằng phương pháp
quang phổ hồng ngoại (FTIR) với máy Bruker
(model: Alpha, Đức).
2.5 Thực nghiệm hấp phụ phốt phát
Quá trình hấp phụ phốt phát được thực hiện ở
điều kiện tĩnh với các thông số cố định như: 250
mL dung dịch phốt phát có nồng độ 2 mg/L, 50
mg vật liệu 5 KL.% (FeCl3) FexOy/RHA (trừ thí
nghiệm khảo sát ảnh hưởng của hàm lượng sắt),
60 phút tiếp xúc (đối với thí nghiệm khảo sát ảnh
hưởng của pH), nhiệt độ môi trường hấp phụ là 30
0C và điều kiện pH phù hợp (được xác định trong
thí nghiệm khảo sát ảnh hưởng của pH). Sau thời
gian hấp phụ, dung dịch qua lọc được xác định
hàm lượng phốt phát với phương pháp đo phổ
dùng amoni molipdat được mô tả theo TCVN
6202:2008.
Xác định khả năng hấp phụ phốt phát của vật liệu:
V
m
CCq eo ×−=
(1)
Trong đó, Co và Ce lần lượt là nồng độ phốt phát
ban đầu (2 mg/L) và sau khi tiếp xúc với dung
dịch phốt phát trong một khoảng thời gian thích
hợp đối với FexOy/RHA hoặc FexOy/AC; V là thể
tích của dung dịch phốt phát được sử dụng trong
nghiên cứu hấp phụ (250 mL); m là khối lượng
của vật liệu hấp phụ được sử dụng (50 mg).
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Các đặc trưng của vật liệu FexOy/RHA
Tro trấu thô được thu gom từ các lò đốt trấu (sản
xuất gạch) dùng làm nguyên liệu cho quá trình sản
xuất chất mang. Ở đây chất mang được sản xuất
bằng phương pháp ăn mòn hóa học dựa vào phản
ứng cơ bản giữa HF và SiO2 như đã được trình
bày trong nghiên cứu trước đây (Nguyễn Trung
Thành và cs., 2010). Các đặc trưng cơ bản của
chất mang – tro trấu sau khi hoạt hóa (RHA) đã
được nghiên cứu và công bố trong công trình gần
đây của Phan Phước Toàn và cs. (2016). Kết quả
cho thấy, RHA có những đặc trưng rất tốt có thể
đáp ứng các yêu cầu cần thiết của chất mang như
diện tích bề mặt riêng lớn (~ 410 m2/g) và có thể
tạo ra lực liên kết mạnh giữa chất mang và oxit sắt
bởi thành phần oxit silic chứa trong tro trấu.
Ngoài ra, ảnh chụp hiển vi điện tử quét (SEM)
cũng cho thấy bề mặt của RHA có cấu tạo gồ ghề
và tồn tại nhiều lỗ xốp hơn so với tro trấu ban đầu
(Phan Phước Toàn và cs., 2016).
Trong nghiên cứu này, các hạt oxit sắt được gắn
lên trên bề mặt của RHA bằng phương pháp tẩm.
Hình ảnh của các mẫu vật liệu được thể hiện trong
Hình 1. Từ Hình 1 cho thấy, màu sắc của các mẫu
thay đổi từ màu đen đồng nhất của RHA (chưa
tẩm sắt) sang màu nâu đỏ đến màu màu nâu có
ánh đen khi hàm lượng FeCl3 tẩm thay đổi từ 5
KL.%(FeCl3) đến 20 KL.%(FeCl3). Điều này có
thể do sự khác nhau về sản phẩm sau quá trình
oxit hóa đối với muối sắt. Kết quả phân tích xác
định hàm lượng ion sắt thực tế trên bề mặt RHA
không khác nhiều so với hàm lượng sắt được sử
dụng trong quá trình tổng hợp mẫu FexOy/RHA
tính trên cơ bản FeCl3. Lấy ví dụ đối với mẫu 5
KL.%(FeCl3) FexOy/RHA; hàm lượng sắt được
xác định là 0,017 g Fe/g vật liệu tương ứng là
0,05142 g FeCl3/g vật liệu.
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 61 – 69
64
Hình 1. Hình ảnh các mẫu vật liệu, gồm có: tro trấu tươi; RHA; 5 KL.%(FeCl3)-FexOy/RHA; 10
KL.%(FeCl3)-FexOy/RHA; 15 KL.%(FeCl3)-FexOy/RHA và 20 KL.%(FeCl3)-FexOy/RHA
Ngoài ra, mẫu 5 KL.%(FeCl3) FexOy/AC (than
hoạt tính) cũng được tổng hợp với phương pháp
tương tự như tổng hợp FexOy/RHA. Trong nghiên
cứu này mẫu 5 KL.%(FeCl3) FexOy/AC được sử
dụng như mẫu đối chứng nhằm thấy được ảnh
hưởng của chất mang đến khả năng hấp phụ phốt
phát của oxit sắt.
3.1.1 Đặc trưng TEM
Các đặc trưng hình học của FexOy/RHA được
quan sát bằng kính hiển vi điện truyền qua (TEM)
và được thể hiện trong Hình 2.
Hình 2. Ảnh TEM của vật liệu 5 KL.%(FeCl3) FexOy/RHA
Từ ảnh TEM của mẫu cho thấy rằng, các hạt oxit
sắt đã được gắn lên trên bề mặt của RHA. Nhìn
chung, các hạt oxit sắt có kích thước khoảng 20
nm đến 50 nm và phân tán đều trên bề mặt các
chất mang.
3.1.2 Đặc trưng phổ FTIR
Phổ FTIR của các vật liệu FexOy/RHA được thể
hiện trong Hình 3. Kết quả cho thấy có sự thay
đổi đáng kể của các peak ở các vị trí số sóng 630;
1000; 1188; 1700 cm-1. Đối với peak ở số sóng
630 cm-1 tương ứng với dao động Fe-O-Fe (Shen
và cs., 2012), các peak ở số sóng 1000 và 1188
cm-1 tương ứng với dao động của SiO2 (Shen và
cs., 2012) được tìm thấy đối với mẫu có nồng độ
tẩm sắt cao (15 và 20 KL.%(FeCl3)). Tuy nhiên,
peak này không được tìm thấy đối với các mẫu có
nồng độ tẩm sắt thấp (0; 5 và 10 KL.%(FeCl3)).
Điều này cần nhiều kỹ thuật phân tích tiên tiến để
giải thích vấn đề này. Đối với peak ở số sóng
1700 cm-1 tương ứng với dao động –OH (Sharma
& Jeevanandam, 2013), cường độ peak tăng dần
tương ứng với hàm lượng sắt (FeCl3) được tẩm
tăng từ 0 ÷ 20 KL.% (FeCl3). Điều này có thể do
quá trình hydroxit hóa của các oxit sắt.
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 61 – 69
65
Hình 3. Phổ FTIR của các vật liệu FexOy/RHA
3.1.3 Đặc trưng phổ nhiễu xạ tia X (XRD)
Các phổ nhiễu xạ tia X của các vật liệu
FexOy/RHA với các nồng độ sắt thay đổi từ 0 đến
20 KL.% (FeCl3) được thể hiện trong Hình 4. Kết
quả phân tích cho thấy rằng, các oxit sắt trên chất
mang RHA thu được là hỗn hợp của các oxit sắt
(II) và oxit sắt (III). Lưu ý rằng, trong nghiên cứu
này FeCl3 được sử dụng là nguồn nguyên liệu để
tổng hợp oxit sắt. Như vậy trong quá trình gắn kết
các oxit sắt lên bề mặt của RHA các ion Fe3+ đã bị
khử thành các ion Fe2+. Điều này có thể là ở nhiệt
độ cao (450 oC được sử dụng trong quá trình nung
để tạo oxit sắt) dẫn đến sự đứt gãy các nhóm Si-H
(được thể hiện trong phổ FTIR) trên bề mặt tro
trấu sau khi hoạt hóa và tiến hành khử các oxit sắt
(III) thành các oxit sắt (II) (Chanéac, 1995). Đồng
thời, kết quả XRD cũng xác nhận sự tồn tại của
hợp chất Fe2SiO4. Đây là một dạng spinel của hỗn
hợp hai oxit sắt (II) và SiO2. Vị trí peak XRD của
Fe2SiO4 được xác nhận ở vị trí 2θ - 32o (Chanéac,
1995). Điều này có thể là các ion sắt (III) khuếch
tán và thay thế các vị trí silic trong nút mạng phân
tử (do các nguyên tử silic đã phản ứng với HF) và
cuối cùng bị khử bởi sự đứt gãy liên kết Si-H ở
nhiệt độ cao. Cường độ peak XRD của Fe2SiO4
(2θ - 32o) giảm dần khi hàm lượng sắt được tẩm
càng cao. Tuy nhiên các hiện tượng này không
được tìm thấy đối với mẫu FexOy/cacbon (Geng
và cs., 2014).
Hình 4. Phổ nhiễu xạ tia X của RHA và FexOy/RHA. Trong đó, SiO2-JCPDS-No.2:01-089-1668; Fe2O3-
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 61 – 69
66
JCPDS-No.2:00-043-1312 và FeO-JCPDS-No.2:01-0862316
3.2 Khả năng hấp phụ phốt phát của vật liệu
FexOy/RHA
3.2.1 Ảnh hưởng của pH đến hiệu quả hấp phụ
Kết quả khảo sát ảnh hưởng pH ban đầu của dung
dịch đến hiệu quả hấp phụ phốt phát được thể hiện
trong Hình 5 (pH được điều chỉnh bằng dung dịch
NaOH và HCl). Từ Hình 5 cho thấy, vật liệu
FexOy/RHA có khả năng hấp phụ cao đối với các
ion phốt phát trong môi trường nước; trong đó,
khoảng pH cho hiệu quả hấp phụ phốt phát cao
nhất là 4 đến 6, tại đây ion phốt phát tồn tại chủ
yếu ở dạng H2PO4-. Khi pH tăng từ 7 đến 9 thì
hoạt tính hấp phụ giảm đi, nguyên nhân là do ở
khoảng pH cao, nồng độ ion OH- tồn tại trong
nước tăng lên, dẫn đến sự cạnh tranh hấp phụ giữa
ion phốt phát và ion OH- đối với tâm hấp phụ của
vật liệu. Kết quả này cũng tương tự đối với các
nghiên cứu loại bỏ phốt phát bằng vật liệu hấp
phụ trước đây (Bùi Quốc Thắng & Trần Quốc Trị,
2011). Để thuận lợi cho nghiên cứu, các thí
nghiệm tiếp theo được thực hiện ở pH∼5.
Hình 5. Ảnh hưởng giá trị pH ban đầu của dung dịch
đến khả năng hấp phụ phốt phát của vật liệu
FexOy/RHA
Hình 6. Ảnh hưởng của thời gian tiếp xúc đến khả
năng hấp phụ phốt phát của vật liệu FexOy/RHA
3.2.2 Ảnh hưởng của thời gian tiếp xúc đến hiệu
quả hấp phụ
Kết quả khảo sát ảnh hưởng của thời gian tiếp xúc
đến hiệu quả hấp phụ phốt phát được thể hiện
trong Hình 6. Từ Hình 6 cho thấy rằng, khả năng
hấp phụ phốt phát của vật liệu FexOy/RHA diễn ra
nhanh trong khoảng 30 phút đầu, sau đó giảm dần
và thay đổi không đáng kể từ mốc 60 phút trở đi.
Sự tiến nhanh đến trạng thái cân bằng cho quá
trình hấp phụ hóa học phốt phát lên bề mặt nano
oxit sắt có thể do diện tích tiếp xúc lớn giữa các
cấu tử phốt phát trong nước và tâm hấp phụ trên
bề mặt vật liệu; điều này có thể đạt được do kích
thước nano của các oxit sắt và diện tích bề mặt
riêng lớn của chất mang tro trấu sau quá trình hoạt
hóa bằng axit HF. Ngoài ra, sự tiến nhanh đến
trạng thái cân bằng cũng có thể do tích điện tích
dương trên bề mặt oxit sắt, được tạo ra từ tương
tác mạnh giữa RHA và oxit sắt, điều này sẽ được
giải thích ở phần tiếp theo. Do đó, các thí nghiệm
so sánh/đánh giá hiệu quả hấp phụ phốt phát cho
các điều kiện khác sẽ được thực hiện với mốc thời
gian 60 phút.
3.2.3 Ảnh hưởng của hàm lượng FeCl3 được tẩm
Trong quá trình chế tạo chất hấp phụ, việc xác
định hàm lượng FexOy thích hợp được tẩm trên bề
mặt chất mang RHA là rất quan trọng và ảnh
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 61 – 69
67
hưởng trực tiếp đến hiệu quả hấp phụ phốt phát
trong nước. Trong nghiên cứu này, các mẫu vật
liệu hấp phụ được tẩm với hàm lượng sắt oxit
khác nhau (có khối lượng tương ứng với hàm
lượng FeCl3 thay đổi từ 0 ÷ 20 KL.% (FeCl3)).
Các kết quả thực nghiệm cho thấy rằng, sự biến
thiên của dung lượng phốt phát bị hấp phụ tính cơ
bản trên một đơn vị vật liệu hấp phụ phụ thuộc rất
lớn đến hàm lượng FexOy (hay FeCl3) được tẩm.
Lưu ý rằng, RHA hầu như không có hiệu quả
trong quá trình hấp phụ phốt phát (kết quả không
thể hiện trong báo cáo này). Kết quả quan sát ảnh
hưởng của hàm lượng FeCl3 được tẩm đến hiệu
quả hấp phụ phốt phát được thể hiện trong Hình 7.
Hình 7. Ảnh hưởng của hàm lượng sắt được tẩm đến hoạt tính hấp phụ phốt phát của vật liệu FexOy/RHA
Từ Hình 7 cho thấy khi tính trên một đơn vị khối
lượng ion sắt được tẩm thì hoạt tính hấp phụ phốt
phát của các vật liệu FexOy/RHA có thể sắp xếp
theo trật tự sau: 5 KL.% (FeCl3)-FexOy/RHA > 10
KL.% (FeCl3)-FexOy/RHA > 15 KL.% (FeCl3)-
FexOy/RHA > 20 KL.% (FeCl3)-FexOy/RHA. Trật
tự này có thể là do sự giảm tương tác điện tử của
chất mang và các hạt nano oxit sắt. Như đã biết,
sự tương tác này được hình thành từ lực tương tác
mạnh giữa oxit trong chất mang (SiO2 trong tro
trấu) và oxit sắt (Durnesic và cs., 1981). Chính
tương tác này đã tích điện dương trên bề mặt các
oxit sắt (các electron dịch chuyển từ các hạt oxit
sắt về SiO2 chất mang) như được minh họa trong
Hình 8. Nhưng lực tương tác giữa chất mang và
oxit sắt sẽ giảm khi bề dày của lớp oxit sắt (hàm
lượng oxit sắt) trên bề mặt chất mang tăng.
Hình 8: Mô tả tương tác mạnh giữa chất mang oxit và oxit sắt
(Francesco Arenaa và cs., 2005)
Trong nghiên cứu gần đây, RHA có khả năng hấp
phụ rất tốt các hợp chất hữu cơ như metyl da cam
(Phan Phước Toàn và cs., 2016), tuy nhiên trong
nghiên cứu này cho thấy rõ khả năng hấp phụ
phốt phát của RHA rất thấp (~ 0,3 mgPO43-/g vật
liệu RHA), nhưng khi RHA đóng vai trò là chất
mang và được gắn các hạt oxit sắt lên bề mặt thì
dung lượng hấp phụ phốt phát tăng lên đáng kể,
trên 62 mgPO43-/g vật liệu FexOy/RHA. Ngoài ra,
kết quả cũng cho thấy rằng, vật liệu 5% FeCl3-
FexOy/RHA có dung lượng hấp phụ phốt phát cao
hơn gấp 1,6 lần dung lượng hấp phụ phốt phát của
vật liệu 5% FeCl3-FexOy/AC khi tính trên một đơn
vị FeCl3 được tẩm (kết quả được trình bày trong
Bảng 1).
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 61 – 69
68
Bảng 1. Dung lượng hấp phụ phốt phát của các loại vật liệu 5% FeCl3-FexOy/A-RHA, A-RHA, 5%
FeCl3-FexOy/AC, AC
STT Vật liệu Dung lượng hấp phụ (mgPO43-/g FeCl3)
1 5% FeCl3-FexOy/RHA 62,10±0,07
2 5% FeCl3-FexOy/AC 38,93±0,29
3 RHA 00,00±0,00
4 AC 00,00±0,00
Ghi chú: Số liệu trình bày trong bảng là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn, với n = 3
4. KẾT LUẬN
Chất mang RHA và các vật liệu FexOy/RHA đã
được tổng hợp thành công và được đặc trưng bằng
các phân tích hiện đại như TEM, FTIR, XRD. Các
vật liệu FexOy/RHA cho hiệu quả hấp phụ cao đối
với phốt phát trong dung dịch; trong đó mẫu 5
KL.% (FeCl3)- FexOy/RHA cho hiệu quả hấp phụ
phốt phát cao nhất ở điều kiện pH ∼ 5 và thời gian
hấp phụ 60 phút. Đồng thời kết quả cũng cho
thấy, vai trò của tương tác giữa RHA (tro trấu sau
hoạt hóa) và các hạt nano oxit sắt trong việc nâng
cao hiệu quả hấp phụ phốt phát từ dung dịch.
Nghiên cứu này góp phần mở đường cho những
ứng dụng khác của tro trấu sau khi hoạt hóa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Addo Ntim, S. & S. Mitra. (2011). Removal of
Trace Arsenic To Meet Drinking Water
Standards Using Iron Oxide Coated Multiwall
Carbon Nanotubes. Journal of Chemical &
Engineering Data, 56(5), 2077-2083.
Bùi Quốc Thắng & Trần Quốc Trị. (2011).
Nghiên cứu tổng hợp vật liệu bentonite biến
tính, ứng dụng hấp phụ phốt pho trong nước.
Đại học Đồng Tháp.
Chanéac, C., E. Tronc, et al. (1995). Thermal
behavior of spinel iron oxide-silica
composites. Nanostructured Materials, 6(5–8),
715-718.
Chatterjee, A. D., B. K. Mandal, T. R.
Chowdhury, G. Samanta & D. Chakraborty.
(1995). Arsenic in ground water in six districts
of West Bengal, India: the biggest arsenic
calamity in the world. Part I. Arsenic species
in drinking water and urine of the affected
people. Analyst, 120, 643-656.
Chislock M.F., E. Doster, R.A. Zitomer & A.E.
Wilson. (2013). Eutrophication: Causes,
Consequences, and Controls in Aquatic
Ecosystems. Nature Education Knowledge,
4(4), 10.
Comotti, M., Wen-Cui Li, B. Spliethoff & F.
Schüth. (2005). Support Effect in High
Activity Gold Catalysts for CO Oxidation.
Journal of the American Chemical Society,
128(3), 917-924.
Conley D.J., H.W. Paerl, R.W. Howarth, D.F.
Boesch, S.P. Seitzinger, K.E. Havens, C.
Lancelot & G.E. Likens. (2009). Controlling
Eutrophication: Nitrogen and Phosphorus.
Science journal, 323, 1014-1015.
Dhar, R. K. B., B. K., G. Samanta, B. K. Madal,
D. Chakraborti & S. Roy. (1997).
Groundwater arsenic calamity in Bangladesh.
Curr. Sci., 1(73), 48-59.
Durnesic, C. R. F. L. a. J. A. (1981). Strong
Oxide-Oxide Interactions in Silica-Supported
Magnetite Catalysts. 1. X-ray Diffraction and
Miissbauer Spectroscopy Evidence for
Interaction. The Journal of Physical
Chemistty, 85(21), 3175-3180.
Francesco Arenaa, G. G., Gianmario Martrab,
Salvatore Colucciab, Lorenzo Stievanoc,
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 61 – 69
69
Lorenzo Spadarod, Pio Famularia, Adolfo
Parmalianaa. (2005). Structure and reactivity
in the selective oxidation of methane to
formaldehyde of low-loaded FeOx/SiO2
catalysts. Journal of Catalysis, 231, 365-380.
Geng, L., X. Zhang, et al. (2014). Highly
dispersed iron oxides on mesoporous carbon
for selective oxidation of benzyl alcohol with
molecular oxygen. Chemical Communications,
50(22), 2965-2967.
Ibrahim, D.M., S.A. El-Hemaly & F.M. Abdel-
Kerim. (1980). Study of rice-husk ash silica by
infrared spectroscopy. Thermochimica Acta,
37(3), 307-314.
Mondal, P. M., C. B. Mohanty. (2006).
Laboratory based approaches for arsenic
remediation from contaminated water: Recent
developments. j. Hazard. Mater., 1(137), 464-
479.
Navas Acien, A. S., E. K. Pastor-Barriuso, R. &
Guallar, E. (2008). Arsenic exposure and
prevalence of type 2 diabetes in US adults. j.
Am. Med. Assoc., 7(300), 814-822.
Nguyễn Trung Thành, Lâm Thành Trí, Hồ
Nguyễn Thy Thy & Lê Ngọc Hăng. (Tháng 7,
2010). Nghiên cứu ứng dụng tro trấu từ lò đốt
gạch thủ công làm chất hấp phụ metyl da cam.
Hội thảo quốc tế Giáo dục và Môi trường, An
Giang, Việt Nam.
Nguyễn Trung Thành, Võ Đan Thanh & Phan
Phước Toàn. (2014). Giải pháp thích hợp để
loại bỏ asen trong nước ngầm tại các vùng
nông thôn Việt Nam. Tạp chí Khoa học
Trường Đại học Cần Thơ, 33(A), 101-108.
Phan Phước Toàn, Nguyễn Trung Thành & Ngô
Thụy Diễm Trang. (2016). Đặc trưng và khả
năng hấp phụ metyl da cam của tro trấu hoạt
hóa. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần
Thơ, 42(A), 50-57.
Richardson, S. D. (2006). Environmental mass
spectrometry: Emerging contaminants and
current issues. Anal. Chem., 12(78), 4021-
4045.
Sharma, G. & P. Jeevanandam. (2013). Synthesis
of self-assembled prismatic iron oxide
nanoparticles by a novel thermal
decomposition route. RSC Advances, 3(1),
189-200.
Shen, M., H. Cai, et al. (2012). Facile one-pot
preparation, surface functionalization, and
toxicity assay of APTS-coated iron oxide
nanoparticles. Nanotechnology, 23(10),
105601.
Smedley, P. L. K. & D. G. (2002). A review of
the source, distribution and behaviour of
arsenic in natural waters. Appl. Geochem., 17,
517-568.
Zhang, M.H., R. Lastra & V.M. Malhotra. (1996).
Rice-husk ash paste and concrete: Some
aspects of hydration and the microstructure of
the interfacial zone between the aggregate and
paste. Cement and Concrete Research, 26(6),
963-977.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 07_nguyen_trung_thanh_0_0357_2024254.pdf