Phương ngữ Quảng Bình có những khác biệt về ngữ âm so với TPT. Sự khác
biệt này xuất hiện ở cả ba bộ phận của âm tiết: âm đầu, phần vần và thanh điệu,
phân bố trong phạm vi toàn tỉnh, tuy nhiên tính chất, mức độ khác biệt không
giống nhau trong từng thổ ngữ, được phản ánh rõ nét qua cứ liệu địa danh ở
các địa phương trong tỉnh
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm ngữ âm tiếng địa phương Quảng Bình khảo cứu qua lớp từ địa danh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 55 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________
82
ĐẶC ĐIỂM NGỮ ÂM TIẾNG ĐỊA PHƯƠNG QUẢNG BÌNH
KHẢO CỨU QUA LỚP TỪ ĐỊA DANH
NGUYỄN ĐÌNH HÙNG*
TÓM TẮT
Bài viết trình bày những đặc điểm về ngữ âm tiếng địa phương trên tư liệu địa danh
Quảng Bình. Những đặc điểm này được thể hiện ở sự biến âm các phụ âm đầu, phần vần,
thanh điệu; đồng thời đặc điểm này cũng được thể hiện ở sự phân chia các vùng thổ ngữ
trong tỉnh. Đặc điểm đó cho thấy sự tương đồng và khác biệt giữa tiếng Quảng Bình so với
tiếng Việt phổ thông về mặt ngữ âm, làm cơ sở cho những nghiên cứu sâu hơn về ngữ âm
lịch sử tiếng Việt và sự phản ánh đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa trong địa danh của một
vùng lãnh thổ, cụ thể là vùng địa lí Quảng Bình.
Từ khóa: ngữ âm, vùng thổ ngữ, tiếng địa phương, Quảng Bình, địa danh.
ABSTRACT
Phonological characteristics of Quang Binh local dialect: A survey based
on the documentation of Quang Binh’s place names
Based on the documentation of Quang Binh’s place names, the article presents
phonological characteristics of Quang Binh local dialect, namely sound-change of the
initial consonant, the rhyme, the tone pattern and the division of the areas of sub-dialect in
the province. In doing so, the article simultaneously highlights the similarities and
differences of Quang Binh dialet and standard Vietnamese, which serves both as a
contribution to more intensive investigation of historical Vietnamese phonology and as a
reflection of Quang Binh province in terms of language and culture, particularly in place
names.
Keywords: phonology, area of sub-dialect, local dialect, Quang Binh, place name.
1. Mở đầu
Quảng Bình, vùng đất hẹp ở miền
Trung Việt Nam, là nơi có một nền văn
hóa phong phú đa dạng do sự giao thoa,
tiếp biến nhiều luồng văn hóa, có sự tiếp
xúc ngôn ngữ của các lớp dân cư đã từng
hiện diện trên địa bàn trong tiến trình lịch
sử phát triển đầy biến động của vùng đất.
Ngôn ngữ người Việt ở Quảng Bình là
một biến thể của tiếng Việt, được các nhà
Việt ngữ học xem là một phương ngữ
trong vùng phương ngữ Trung, bao gồm
* ThS, Trường Đại học Quảng Bình
các phương ngữ Thanh Hóa, Nghệ An,
Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và
Thừa Thiên - Huế. Phương ngữ, xét về
mặt địa lí, là biến thể địa phương có địa
bàn phân bố trên một phạm vi rộng gồm
một hoặc nhiều tỉnh. [10, tr.1397]
Đã từng có nhiều công trình khoa
học nghiên cứu về phương ngữ Bắc
Trung Bộ trên các bình diện ngữ âm, từ
vựng, ngôn ngữ và văn hóa. Đầu thế kỉ
XX, L. Cadière đã đề cập sự tương ứng
ngữ âm giữa tiếng Việt phổ thông (TPT)
và các thổ ngữ vùng này [13]. H.Maspero
cũng đã có những nghiên cứu về phương
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Đình Hùng
_____________________________________________________________________________________________________________
83
ngữ Bắc Trung Bộ, góp phần vào việc
nghiên cứu các thổ ngữ ở vùng Bình trị
Thiên [14]. Nguyễn Tri Niên và Nguyễn
Phan Cảnh [7] đã khảo sát và cho thấy
nhiều thổ ngữ ở Quảng Bình, Vĩnh Linh
(Quảng Trị) vẫn còn phát âm phân biệt
d/gi. Đáng chú ý hơn cả là các công trình
của Trần Trí Dõi [4], [5]. Các công trình
này đã giải thích hiện tượng có 4-5 thanh
điệu trong một vài phương ngữ Việt. Tác
phẩm Phương ngữ Bình Trị Thiên của Võ
Xuân Trang [12] nghiên cứu về một vùng
phương ngữ được coi là còn giữ nhiều nét
“cổ” nhất của tiếng Việt, tuy nhiên giữa
lối miêu tả thành một hệ thống âm vị và
lối miêu tả từng nét đặc trưng qua nhiều
hệ thống, tác giả đã chọn cách thứ hai,
khiến cho công trình nặng về tư liệu hơn
là về lí thuyết. Các công trình của Hoàng
Thị Châu [2], [3] cũng đã công bố nhiều
tư liệu về các thổ ngữ ở vùng Bình Trị
Thiên. Trong những công trình trên, tuy
không miêu tả chi tiết, song các tác giả
đều nói đến một phần đặc điểm ngữ âm
tiếng Quảng Bình trong sự đối sánh với
các vùng thổ ngữ, phương ngữ khác trong
khu vực miền Trung hoặc với TPT.
Tuy nhiên, vẫn chưa có công trình
nào chuyên về miêu tả ngữ âm tiếng địa
phương Quảng Bình, đặc biệt từ cứ liệu
địa danh. Địa danh, sản phẩm của tư duy
con người thông qua ngôn ngữ của một
hay nhiều dân tộc, chịu sự tác động mạnh
mẽ của quy luật ngôn ngữ. Ngôn ngữ tạo
ra địa danh có thể thay đổi nhưng địa
danh vẫn bảo tồn nguyên vẹn những giá
trị ngôn ngữ học của nó như thuở ban đầu
mới đặt tên. Vì vậy, địa danh là nguồn
ngữ liệu quý giá để nghiên cứu ngôn ngữ
trên phương diện xã hội - ngôn ngữ học
đặc thù. Chính các yếu tố ngôn ngữ trong
địa danh, đặc biệt là các yếu tố thuộc
tiếng địa phương đã làm nên màu sắc,
diện mạo và những đặc trưng văn hóa của
một vùng đất.
Bên cạnh sự thống nhất là chủ yếu
so với TPT, ngôn ngữ người Việt ở
Quảng Bình vẫn có những sự khác biệt.
Để thấy được những sự khác biệt đó như
một “bản sắc” riêng của phương ngữ
Quảng Bình, bài viết này giới thiệu một
số đặc điểm riêng về ngữ âm, sự biến âm
tiếng địa phương Quảng Bình phản ánh
qua địa danh, trong đó chú trọng đến âm
đầu, phần vần và thanh điệu. Người viết
chủ yếu đề cập các âm vị và các biến thể
ngữ âm không có trong TPT, vì những
đặc điểm chung về ngữ âm - âm vị học có
trong TPT đã được miêu tả chi tiết trong
các công trình nghiên cứu ngữ âm và
phương ngữ tiếng Việt của các nhà Việt
ngữ học. Đối với một số hiện tượng ngữ
âm lạ, chúng tôi đã điều tra tìm hiểu từ tư
liệu điền dã, kết hợp khảo cứu qua lớp từ
địa danh địa phương để phần nào chính
xác hóa chúng, làm cơ sở cho việc so
sánh ngữ âm tiếng địa phương Quảng
Bình với TPT. Về cách phiên âm, chúng
tôi dựa vào bảng IPA và bảng quy ước
các dấu phụ của Vũ Đức Nghiệu và
Nguyễn Văn Hiệp [8, tr.135-138].
2. Nội dung
Cũng giống như âm tiết TPT, âm
tiết tiếng địa phương Quảng Bình gồm
có: âm đầu, phần vần và thanh điệu;
trong đó, phần vần bao gồm âm đệm, âm
chính, âm cuối. Các thành tố của âm tiết
sắp xếp từng lớp theo thứ bậc như cách
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 55 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________
84
phân chia của Đoàn Thiện Thuật [11].
Khảo sát cứ liệu địa danh thu thập được ở
Quảng Bình, chúng tôi nhận thấy tiếng
địa phương Quảng Bình, ngoài những nét
chung về mặt ngữ âm giống với TPT còn
có sự khác biệt, sự biến âm ở cả âm đầu,
phần vần và thanh điệu.
2.1. Âm đầu
Trên cơ sở tổng kết tư liệu của
những người đi trước, kết hợp với tư liệu
mà chúng tôi điều tra thêm một số điểm ở
các huyện Quảng Trạch, Lệ Thủy, Tuyên
Hóa, Bố Trạch, có thể xác định hệ thống
phụ âm đầu tiếng địa phương Quảng
Bình gồm 21 phụ âm: /ʈ, ş, ʐ, m, b, v, t,
ŋ, d, c, j, n, s, l, k, t’, ɣ, h, ph, kh, ʔ/. Điều
khác biệt với TPT là phụ âm [ɲ] không
có trong tiếng Quảng Bình. Phụ âm này
nhập với phụ âm xát, hữu thanh, mặt lưỡi
[j]. Ví dụ: yếu tố nha trong địa danh động
Phong Nha ở huyện Bố Trạch được phát
âm là [ja], nhoong trong đập Nhoong
(huyện Minh Hóa) phát âm [jɔ:ŋ].
Trong địa danh Quảng Bình, hiện
tượng biến âm các phụ âm đầu của âm
tiết rất phổ biến, có tính hệ thống theo sự
tương ứng được phân bố với sự xuất hiện
của các âm, cụ thể như sau:
- Âm /b-/ trong TPT tương ứng âm
/m-/ trong tiếng Quảng Bình. Đây là hiện
tượng biến âm theo thế tương ứng của hai
phụ âm môi /m/ - /b/ trong ngôn ngữ Việt
- Mường, được bảo lưu trong địa danh
Quảng Bình. Chẳng hạn như trong các
địa danh: cồn Mùa Cua (huyện Bố Trạch)
là cồn có cây mận quân/bồ quân mọc (ở
Quảng Trạch có vùng gọi là mận quân
theo tiếng Nghệ Tĩnh). Từ bồ quân tương
ứng bồ cun – mùn cun - mùa cua trong
tiếng Quảng Bình.
- Âm /k-/ trong TPT tương ứng âm
/ɣ-/ như trong địa danh sân bay Khe Gát
(Bố Trạch). Ở đây có sự tương ứng âm
cát - gát.
- Âm /c-/ tương ứng âm /ʈ-/. Ví dụ:
nương Cổ Trày (Quảng Trạch) chỉ vùng
đất trồng trọt có hình dáng eo thắt giống
cái chày giã gạo. Trong địa danh này, yếu
tố chày tương ứng trày. Địa danh lèn
Trúc ở Tuyên Hóa không phải là lèn mọc
nhiều cây trúc, mà là lèn có dáng
chúc/nghiêng xuống (chúc tương ứng
trúc).
- Âm /ş-/ trong TPT tương ứng / t’/
hoặc /ʈ/ trong tiếng Quảng Bình. Ví dụ:
roọng Đất Théc (Quảng Trạch) là loại
ruộng đất sét (théc - sét), cồn Trèng
(Đồng Hới) là cồn đất còn dấu tích nhiều
mảnh sành, sứ gần làng Cấy Đôộc (Mỹ
Cương - Đồng Hới). Trèng ở đây tương
ứng với sành - sèng.
- Âm /ʐ-/ trong TPT tương ứng âm
/z-/ ở một số vùng huyện Quảng Trạch.
Ví dụ: địa danh vùng Ròon (Quảng
Trạch) được phát âm là vùng Giòon, sông
Ranh phát âm là sông Gianh (Quảng
Trạch).
- Âm /t-/ trong TPT tương ứng âm
/ʈ-/ trong tiếng Quảng Bình: đầm Trít
(Lệ Thủy) là đầm Tịt (đầm kín, không
thoát nước ra ngoài. Ở đây có sự tương
ứng tịt - trít.
- Âm /t’/ trong TPT tương ứng /l-/.
Ví dụ: bàu Lủng (Quảng Trạch) là bàu
nước trước đây có đáy thông qua bàu
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Đình Hùng
_____________________________________________________________________________________________________________
85
khác. Trong trường hợp này, từ thủng
được người Quảng Bình phát âm lủng.
- Âm /v-/ TPT tương ứng /b-/ theo
kiểu bun - vun, bai - vai, biền - viền, bọt -
vọt. Ví dụ: đồông Biền (huyện Quảng
Trạch) là đồng ở ngoài viền làng, dốc Vọt
(Quảng Trạch) phát âm là dốc Bọt [bɔt].
- Âm /ʈ-/ ngoài cách phát âm giống
TPT còn được phát âm là [ʈl] và có khi là
[tl]. Cách cấu âm của tổ hợp phụ âm này
bao gồm một yếu tố tắc vô thanh, đầu
lưỡi quặt [ʈ] với một yếu tố bên-vang [l],
trước khi thể hiện yếu tố bên-vang [l],
đầu lưỡi quặt cản trở luồng hơi gây nên
tiếng tắc. Âm này tương ứng với âm [ʈ]
trong TPT. Võ Xuân Trang [12] cũng cho
rằng ở tiếng địa phương Quảng Bình có
tổ hợp phụ âm [ʈl]. Về mặt lí thuyết, có
thể thấy, phụ âm ʈ < *ʈl hoặc ʈ < *ʈl, *bl,
*ml, *kl. Theo tư liệu của Hoàng Thị
Châu [2], ở một số vùng Bình Trị Thiên
có [tl] chứ không phải là tổ hợp [ʈl] như
cách nghe ghi của Võ Xuân Trang. Tư
liệu của chúng tôi ở xã Quảng Thủy
(Quảng Trạch) và xã Đại Trạch (Bố
Trạch) cho thấy, tổ hợp phụ âm được coi
là [ʈl] được xác nhận là đúng hơn và có
thực.
Ví dụ: /ʈɔ/ [ʈlɔ/tlɔ] tró trong địa
danh bàu Tró (Đồng Hới), /ʈu/ [ʈlu/tlu]
trâu trong chợ Tru (Minh Hóa), /ʈen/
[ʈlen/tlen] trên trong đôồng Trên (Bố
Trạch), /ʈε/ [ʈlε/tlε] tre trong đôồng Bụi
Tre Một (Quảng Trạch).
Khảo sát cho thấy ở các thổ ngữ
Quảng Thủy (huyện Quảng Trạch) và Đại
Trạch (huyện Bố Trạch) đang có quá
trình chuyển biến từ ʈl > ʈ. Trong nhiều
trường hợp, người nói có thể sử dụng [ʈl]
~ [ʈ] mà không ảnh hưởng gì đến giao
tiếp. Như vậy, chỉ có thể chọn một trong
hai biến thể [ʈl] hoặc [ʈ]. Trong trường
hợp này, trên bình diện đồng đại, ta nên
coi [ʈ] là tiêu thể đại diện chứ không nên
coi [ʈl] là đặc điểm chung, phổ biến của
tiếng địa phương Quảng Bình. Đây là
biến thể bảo lưu cách phát âm cổ. Cách
phát âm [ʈl/tl] thể hiện khá rõ ở lớp người
già trong một số ít thổ ngữ và đang có xu
hướng rơi rụng dần.
- Âm đầu /z-/ trong TPT, khảo sát
qua địa danh Quảng Bình, có những
trường hợp biến âm sau:
+ /z-/ tương ứng /d-/: rú Dẻ (Bố
Trạch) phát âm là rú Đẻ, dốc Dôn (Bố
Trạch) phát âm là đốôc Dôn, đồng Dưới
(Quảng Ninh) tương ứng đồông Đưới.
+ /z-/ tương ứng /c-/ và có một số
trường hợp là /ş-/. Chẳng hạn như:
rọong Chiếng Chùa (Quảng Trạch) là
ruộng gần giếng Chùa, xóm Nại Chứa
(Đồng Hới) là xóm làm muối có nhiều
dứa dại mọc, cồn Soi (Quảng Ninh) chỉ
cồn doi ra bờ sông, độông Choi (Bố
Trạch) là núi doi ra mép biển.
+ /z-/ tương ứng với /ʐ-/ như: cồn
Ràng (Lệ Thủy) chỉ cồn Giàng, nơi thờ
cúng trời đất, cồn Râu (Quảng Ninh) là
sự biến âm của cồn Dâu, nơi mọc nhiều
cây dâu dại, đôồng Rài (Quảng Ninh)
tương ứng với đồng Dài.
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 55 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________
86
+ /z-/ tương ứng /ʈ-/ như: dồng
Trữa (Quảng Ninh) chỉ dồng đất có vị trí
ở giữa. Xóm Trữa (Quảng Trạch) là xóm
nằm giữa làng.
+ /z-/ tương ứng [d / nd/
ndr]. [d] là phụ âm tắc thanh hầu, hữu
thanh, tiền thanh hầu hóa theo cách gọi
của Đoàn Văn Phúc [9], hoặc là phụ âm
tắc, hữu thanh, thở (breathy voice stop
consonant) theo Nguyễn Văn Lợi [6].
Trong đa số trường hợp, đây là phụ âm
[d]. Phụ âm này có tương ứng với [z] ở
TPT. Tuy nhiên ở xã Quảng Thủy
(Quảng Trạch) và xã Đại Trạch (Bố
Trạch) có phụ âm [d] trong một số từ, và
có tương ứng với các từ có phụ âm đầu
[d] của vùng khác và [z] của TPT. Chẳng
hạn ở Quảng Thủy và Đại Trạch có
những địa danh như:
[ dɯɤ] dưa (roọng Dưa)
[ dew] diều (đôồng Cánh Diều)
[daj] dài (thác Dài)
[ dɤj] dơi (cồn Dơi)
Ở Đại Trạch, một số từ có phụ âm
[d] có biến thể địa phương đặc biệt [nd],
và có khi nghe như [ndr]:
[ nd aw / ndr aw] dao
[nd εp / ndr εp] dép
[ nd ăj / ndr ăj] dạy
[nd ăj / ndr ăj] dày
Đây chính là các yếu tố có liên
quan đến các phụ âm tiền mũi [*mb, *nd]
mà Nguyễn Tài Cẩn [1] đã từng nhắc đến
trong Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng
Việt. Hiện tượng ngữ âm này sẽ rất thú vị
đối với việc nghiên cứu ngữ âm lịch sử
tiếng Việt, đặc biệt trong việc tái lập hệ
thống phụ âm đầu ngôn ngữ Tiền Việt
Mường (proto Viet-Muong) cũng như sự
cách tân của chúng đến các ngôn ngữ
Việt Mường hiện nay.
Theo Đoàn Văn Phúc [9], ở các thổ
ngữ An Lộc và Thịnh Lộc (huyện Can
Lộc, Hà Tĩnh), ở huyện Quảng Trạch và
một số xã thuộc Quảng Bình, Vĩnh Linh
(Quảng Trị) có phụ âm [d/dr] tương tự,
nhưng không có hiện tượng tiền mũi như
ở xã Đại Trạch. Như vậy, có lẽ âm [d]
mà một số người ghi là [dj/d’] tương ứng
với [d] và [z] trong TPT. Phải chăng quá
trình biến đổi từ các phụ âm tắc > xát ở
một số thổ ngữ vùng Bắc Trung Bộ chưa
hoàn thành nên trong hệ thống âm đầu
còn có phụ âm [d/nd/ndr] tồn tại song
song với phụ âm [d]. Tuy nhiên, phụ âm
[d/dr] này không phải là tiêu biểu, đại
diện cho hệ thống âm đầu tiếng Quảng
Bình trên bình diện đồng đại, bởi lẽ [d]
phổ biến hơn chứ không phải là [d/dr]
như đã khảo sát ở một vài xã của huyện
Bố Trạch.
- Các phụ âm tắc, bật hơi, vô thanh
/ph/ và tắc, gốc lưỡi, vô thanh, bật hơi /kh/
đều là phụ âm đầu có cách phát âm cổ
còn được lưu giữ lại ở tiếng Quảng Bình.
Tuy nhiên chúng tôi chưa tìm thấy sự
biến âm của chúng phản ánh qua địa danh
Quảng Bình, ngoại trừ một số từ ở vùng
thổ ngữ huyện Quảng Trạch, Bố Trạch
như: [phăt] (ăn) vặt, [phɔŋ] bỏng, [khun]
khôn, [khɔt] gọt
Cùng với những biến thể [nd /ndr]
của phụ âm /d/, đây sẽ là những cứ liệu
quý giá đối với việc nghiên cứu ngữ âm
lịch sử tiếng Việt.
2.2. Phần vần
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Đình Hùng
_____________________________________________________________________________________________________________
87
Phần vần là yếu tố đoạn tính của âm
tiết, vần bao gồm trong đó các đơn vị: âm
đệm, âm chính và âm cuối. Trong phương
ngữ Quảng Bình, giống như phụ âm đầu,
phần vần cũng có các loại vần không có
trong TPT, nó có những đặc điểm riêng
mà các địa phương khác không có. Cứ
liệu địa danh cho thấy kết quả như sau:
2.2.1. Âm đệm /w/ trong tiếng địa phương
Quảng Bình về cơ bản có cách phát âm
giống như TPT, khảo cứu qua tư liệu địa
danh không thấy có sự biến âm.
2.2.2. Sự biến âm ở các âm chính trong
địa danh Quảng Bình diễn ra phong phú,
thể hiện dấu vết bảo lưu của tiếng Việt cổ
từ nguồn gốc ngôn ngữ Việt - Mường. Cụ
thể như sau:
- Các nguyên âm [e, ε, o, ɔ ] sẽ có
trường độ dài hơn khi chúng đứng trước
các âm cuối mạc [-ŋ, -k]. Theo Hoàng
Thị Châu [3], những vần [-ê:ng -ê:k] (-
ênh - êch), [-e:ng -e:k] (-anh, -ach), [-
o:ng -o:k] (-ông, -ôc), [-o:ng -o:k], (ong,
oc) tương ứng với những vần trong
phương ngữ Bắc: -ênh -êch, -enh -ech, -
ôngm -ôkp, -ongm -ok. Ví dụ: roọng Cơn
Mưng (Quảng Ninh), roọng Cơn Thị (Lệ
Thủy) chỉ ruộng có cây mưng, cây thị
(tương ứng cây - cơn), Roọng Troong
(Bố Trạch) để phân biệt với roọng Ngoài
(trong tương ứng troong), suối Nước
Moọc (Bố Trạch) chỉ suối có nước đùn
lên (mọc - moọc), chợ Côộc (Quảng
Ninh) tương ứng chợ Gốc (gốc có nghĩa
là lớn/gốc rễ/gốc cây), cầu Bôộng (Đồng
Hới) chỉ cầu có hình cái bộng/có cái bộng
cho nước chảy (bộng theo tiếng Nghệ
Tĩnh tương ứng bôộng)
- Nguyên âm /ɤ/ ngắn khi kết hợp với
bán âm cuối /-u/ bị nhược hóa thành âm
zêro. Vì vậy, nhiều từ có vần âu tương
ứng vần u. Ví dụ: cồn Du (Lệ Thủy)
tương ứng cồn Dâu, hang Trù (Tuyên
Hóa) tương ứng với hang Trầu, Hà Su
(Bố Trạch) từ Hà Sâu, roọng Su (Lệ
Thủy) - ruộng Sâu
- Nguyên âm /ɯ/ tương ứng âm /i/.
Ở một số trường hợp, người Quảng Bình
phát âm nguyên âm /i/ > [ɨ] - một nguyên
âm ngắn hơi lùi về giữa ở các yếu tố:
/cin/ > [cɨn] chân, /dit/ > [dɨt] đứt như
trong địa danh lèn Đứt Chân (Tuyên
Hóa).
- Nguyên âm /u/: Ngoài cách phát âm
như TPT, người Quảng Bình phát âm /u/
> [ǔ], một nguyên âm ngắn và mở hơn
khi chúng đi sau âm cuối mạc.
Ví dụ: /vuŋ/ > [vǔŋ] vụng trong địa
danh vụng Chùa (Quảng Trạch), vụng Nổ
(Quảng Trạch).
- Âm /-o-/ tương ứng âm /u/ như:
đôộng Chủ (Đồng Hới) tương ứng đôộng
Chổi (động có nhiều cây chổi mọc, dùng
để nấu tinh dầu chổi).
- Âm /-εˇ-/ tương ứng âm /ε/ như:
ruộng Vành (ruộng chạy vòng quanh
đồi/cồn) - roọng Vèng (Quảng Ninh).
- Nguyên âm đôi /͜/ tương ứng âm
đơn /a/: ruộng Đường Quan (Quảng
Ninh) - roọng Đàng Quan.
Nguyên âm đôi /u͜o/ có cách biến âm
khá đa dạng trong địa danh Quảng Bình:
- /u ͜o/ tương ứng âm đơn /ɔ/ trong các
địa danh có thành tố chung ruộng- roọng,
rất phổ biến ở Quảng Bình.
- Tương ứng /-u͜o/ - /ɔ/ như: động
Rùa - đôộng Rò (Quảng Trạch).
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 55 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________
88
- /-u͜o/ tương ứng /u/ như: xóm Puôn
(xóm người Kinh gọi theo tiếng Nguồn)
tương ứng xóm Pun (Minh Hóa).
2.2.3. Âm cuối trong tiếng địa phương
Quảng Bình gồm có 6 phụ âm cuối /-m, -
p, -n, -t, -ŋ, -k/ và 2 bán nguyên âm /-w, -
j/. Các âm cuối được phân bố đều đặn sau
các nguyên âm, trừ một số trường hợp:
Các âm môi /-p, -m/ không xuất hiện sau
/ɯ/, bán nguyên âm /-w/ không xuất hiện
sau các nguyên âm dòng sau, bán nguyên
âm /-j/ không xuất hiện sau các nguyên
âm dòng trước. Khảo sát cho thấy hiện
tượng biến âm ở phụ âm cuối thể hiện ở
các địa danh tuy không nhiều như ở phụ
âm đầu, nhưng đã để lại dấu ấn đặc biệt
của tiếng Quảng Bình, phản ánh nét riêng
về văn hóa - ngôn ngữ của vùng đất này.
Cụ thể như sau:
- Các âm mạc /-k, -ŋ/ xuất hiện sau
nguyên âm /ɤ/ trong các địa danh như:
/mɤŋ/ [mɤŋ] mưng trong bàu Mưng (Lệ
Thủy), /bɤk/ [bɤk] bấc trong xóm Bấc
(Quảng Ninh)
- Yếu tố lách trong TPT tương ứng
với léc trong tiếng Quảng Bình. Ví dụ:
roọng Léc (Bố Trạch) tương ứng ruộng
Lách (lách trong từ lau lách), vùng Hà
Lẹc (Lệ Thủy) tương ứng Hà Lạch (lạch
nước). Yếu tố chếch tương ứng chếc:
đôộng Chếc (Bố Trạch) tương ứng động
Chếch. Cách phát âm cổ này tiêu biểu
cho phương ngữ Trung. Ở vùng Bắc Bình
Trị Thiên (giữa hai con sông Bến Hải và
sông Gianh) vẫn giữ [-ng, -k] sau nguyên
âm ngắn [-ing -ik], [-ênh, -êk], [-eng -ek].
[2, tr.174]
- Âm /-ɲ/ trong TPT tương ứng /-ŋ/.
Ví dụ như: đồi Quéng (Lệ Thủy) tương
ứng đồi Quanh (hình dáng đồi cong vòng
cung theo nghĩa chữ quanh). Đây cũng là
sự biến âm phổ biến trong tiếng Quảng
Bình theo kiểu: anh – eng, xanh – xeng,
canh – keng
- Âm /-ɲ/ trong TPT tương ứng /-n/
khi đứng sau nguyên âm /i/ > [ɨ] (một
nguyên âm ngắn hơi lùi về giữa), thể hiện
trong các địa danh như: giếng Đình
(Đồng Hới), động Chân Linh (Tuyên
Hóa).
2.3. Thanh điệu
Theo các nhà ngôn ngữ học,
phương ngữ Quảng Bình có 5 thanh điệu:
ngang, huyền, sắc, nặng, hỏi. Khác với
TPT, trong tiếng Quảng Bình không có
thanh ngã. Phần lớn thanh ngã nhập vào
thanh hỏi, có nơi nó nhập với thanh
huyền và thanh nặng [4], [12]. Ở một số
trường hợp, thanh hỏi và thanh ngã lại
nhập với các thanh khác tạo nên tình
trạng chỉ có 4 thanh điệu ở các xã Hương
Hóa, Thanh Hóa (huyện Tuyên Hóa) và
xã Hạ Trạch (huyện Bố Trạch) [5]. Đặc
điểm này thể hiện trong địa danh Quảng
Bình như sau:
- Thanh ngã nhập vào thanh nặng:
roọng Cộ (Bố Trạch) tương ứng ruộng
Cũ; bến Lụy (Đồng Hới) tương ứng bến
Lũy (một bến sông cạnh Lũy Thầy).
- Thanh sắc nhập vào thanh nặng:
roọng Miệu (Lệ Thủy) tương ứng ruộng
Miếu, lòi Miệu (Quảng Ninh) - lòi Miếu.
Yếu tố má tương ứng mạ trong địa danh
đồi Mạ Ca (Bố Trạch)
- Thành huyền nhập vào thanh nặng:
cồn Mộ (Đồng Hới) tương ứng cồn Mồ;
roọng Bợc Cụ Lại (Quảng Ninh) tương
ứng Ruộng Bờ Cụ Lại (bờ - bợc). Bờ ở
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Đình Hùng
_____________________________________________________________________________________________________________
89
đây có thể hiểu là bờ sông, bờ vùng, bờ
thửa, hoặc bờ ruộng, bờ vườn của một cá
thể nào đó.
- Thanh hỏi nhập vào thanh nặng:
yếu tố cựa tương ứng cửa trong địa danh
đôồng Cựa Hói (Quảng Ninh)
Điều thú vị là chúng tôi không tìm
thấy trong địa danh ở Quảng Bình có sự
biến thanh từ thanh ngã sang thanh hỏi,
mặc dù trong lời nói hàng ngày hiện
tượng lẫn lộn hỏi-ngã rất phổ biến. Điều
đó chứng tỏ cư dân Quảng Bình rất có ý
thức về viết chính tả đúng, không lẫn lộn
thanh hỏi và thanh ngã trong quá trình
sáng tạo địa danh.
3. Kết luận
Từ sự miêu tả trên về một số đặc
điểm ngữ âm tiếng địa phương Quảng
Bình phản ánh qua lớp từ địa danh, có thể
nhận thấy:
- Phương ngữ Quảng Bình có những
khác biệt về ngữ âm so với TPT. Sự khác
biệt này xuất hiện ở cả ba bộ phận của
âm tiết: âm đầu, phần vần và thanh điệu,
phân bố trong phạm vi toàn tỉnh, tuy
nhiên tính chất, mức độ khác biệt không
giống nhau trong từng thổ ngữ, được
phản ánh rõ nét qua cứ liệu địa danh ở
các địa phương trong tỉnh.
- Địa danh Quảng Bình, với chức
năng bảo tồn, được xem như những tấm
bia hóa thạch, đã lưu giữ và phản ánh
những giá trị ngôn ngữ - văn hóa của các
tộc người từng hiện diện trên địa bàn, thể
hiện sự biến âm của tiếng Quảng Bình so
với TPT, đồng thời cũng cho thấy sự bảo
lưu những nét cổ nhất của tiếng Việt, là
nguồn cứ liệu quý giá cho việc nghiên
cứu lịch sử tiếng Việt, đặc biệt là các quá
trình biến đổi ngữ âm của tiếng Việt qua
từng giai đoạn.
- Nghiên cứu cũng cho thấy việc
quốc ngữ hóa về cách viết địa danh ở
nước ta là cần thiết và có giá trị về mặt
tổng thể. Tuy nhiên, điều đó sẽ là khó
khăn cho việc nhận diện những đặc trưng
của ngữ âm địa phương phản ánh trong
địa danh, làm “mờ” đi nét nghĩa của địa
danh tiếng địa phương, nếu không nói là
làm sai lệch cách hiểu về nguồn gốc, ý
nghĩa các địa danh này đối với những
người không phải là chủ thể sáng tạo ra
các địa danh đó.
Vẫn rất cần có những nghiên cứu
tiếp theo, cần sự đào sâu, khai thác cơ
tầng văn hóa, vận dụng linh hoạt các quy
luật biến đổi ngữ âm lịch sử để bóc tách,
nhận diện các lớp trầm tích “hóa thạch”
trên địa danh. Có như vậy, địa danh học
mới thực sự “soi sáng” giá trị văn hóa,
lịch sử của từng vùng đất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Tài Cẩn (1995), Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (sơ thảo), Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
2. Hoàng Thị Châu (1989), Tiếng Việt trên các miền đất nước, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 55 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________
90
3. Hoàng Thị Châu (1989), “Về bốn phụ âm ngạc hóa còn lại trong tiếng Việt vùng Bắc
Bình Trị Thiên”, Tiếng Việt và các ngôn ngữ Đông Nam Á, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, tr.19-22.
4. Trần Trí Dõi (2006), “Thử giải thích hiện tượng có năm thanh điệu trong một vài
phương ngữ Việt”, Ngôn ngữ, 8(207), tr.13-21.
5. Trần Trí Dõi (2011), Một vài vấn đề Nghiên cứu so sánh - lịch sử nhóm ngôn ngữ
Việt Mường, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Lợi (2004), “Đặc điểm ngữ âm-âm vị học của phụ âm tắc, hữu thanh,
thở trong các ngôn ngữ Việt Nam và Đông Nam Á trên bình diện đồng đại và lịch
đại”, Những vấn đề Ngôn ngữ học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Nguyễn Tri Niên, Nguyễn Phan Cảnh (1961), “Sơ lược về tình hình phát âm phân
biệt Gi và D hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (8), Hà Nội.
8. Vũ Đức Nghiệu (chủ biên) (2009), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
9. Đoàn Văn Phúc (2005), “Vài đặc điểm âm đầu và thanh điệu các thổ ngữ An Lộc,
Thịnh Lộc với nghiên cứu lịch sử tiếng Việt”, Hội thảo Ngữ học trẻ 2005, Hội Ngôn
ngữ học Việt Nam, Hà Nội, tr.80-85.
10. Nguyễn Khắc Thái (chủ biên) (2007), Tổng tập địa chí Quảng Bình, Sở Khoa học và
Công nghệ Quảng Bình.
11. Đoàn Thiện Thuật (1977), Ngữ âm tiếng Việt, Nxb Đại học và Trung học chuyên
nghiệp, Hà Nội.
12. Võ Xuân Trang (1997), Phương ngữ Bình Trị Thiên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
13. Cadière L. (1902), Phonétique annamite, Dialecte du Haut-Annam, Paris.
14. Maspéro A. (1912), Etude sur la phonétique historique de la langue annamite,
BEFEO, XII, 1 Paris-Hanoi.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 29-11-2013; ngày phản biện đánh giá: 09-12-2013;
ngày chấp nhận đăng: 13-12-2014)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nguyen_dinh_hung_sua_cuoi_2095.pdf