Đặc điểm hình thái và phân bố của trùn chỉ (limnodrilus hoffmeisteri claparede, 1862) trong ao nuôi thủy sản nước ngọt - Nguyễn Đình Mão

VI. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Trong tổng số trùn chỉ quan sát về đặc điểm hình thái thì có 46,7% con trưởng thành. Chiều dài cơ thể dao động từ 14-40 mm, trung bình 21,34±5,76 mm/con. Cơ thể phân đốt rõ ràng với số lượng đốt dao động từ 47-85, trung bình 60 ± 10 đốt/con. Giun ít tơ phân bố ở hầu hết các ao ngoại trừ ao nuôi cá trê phi sử dụng lòng thức ăn là ruột gà công nghiệp. Tỷ lệ phần trăm loài L.hoffmeisteri trên tổng số giun ít tơ có trong ao cao, biến động từ 28,44 ± 4,25% đến 42,06 ± 8,36%. 2. Kiến nghị Nên nuôi ghép các loài cá ăn đáy với nhóm cá ăn nổi ở trong ao nuôi bằng thức ăn chế biến để tận dụng triệt để nguồn thức ăn tự nhiên sẵn có trong ao, từ đó nâng cao được hiệu quả kinh tế trong nuôi trồng thủy sản. Tiếp tục nghiên cứu khả năng phân bố của trùn chỉ ở các dạng thủy vực nước ngọt khác. Từ đó có khuyến cáo ban đầu về chất lượng nước của thủy vực. Bởi vì, trùn chỉ làm một trong những loài động vật không xương sống làm sinh vật chỉ thị cho môi trường ô nhiễm chất hữu cơ.

pdf6 trang | Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 697 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm hình thái và phân bố của trùn chỉ (limnodrilus hoffmeisteri claparede, 1862) trong ao nuôi thủy sản nước ngọt - Nguyễn Đình Mão, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016 NHA TRANG UNIVERSITY • 85 ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI VÀ PHÂN BỐ CỦA TRÙN CHỈ (Limnodrilus hoffmeisteri Claparede, 1862) TRONG AO NUÔI THỦY SẢN NƯỚC NGỌT MORPHOLOGICAL CHARACTERISTICS AND DISTRIBUTION OF OLIGOCHAETE (Limnodrilus hoffmeisteri Claparede, 1862) IN FRESHWATER AQUACULTURE PONDS Nguyễn Đình Mão1, Đinh Thế Nhân2, Trương Thị Bích Hồng1, Nguyễn Thị Thúy1 Ngày nhận bài: 13/01/2016; Ngày phản biện thông qua: 25/5/2016; Ngày duyệt đăng: 15/12/2016 TÓM TẮT Nghiên cứu này xác định đặc điểm hình thái và sinh khối của trùn chỉ, loài đóng vai trò là thức ăn tự nhiên trong ao nuôi thủy sản, góp phần đề xuất giải pháp sử dụng hiệu quả nguồn thức ăn này. Nghiên cứu được thực hiện ở các ao nuôi cá của trại thực nghiệm Ninh Phụng- Ninh Hòa. Chiều dài của các cá thể thu được dao động từ 14-40mm, trung bình 21.34 ± 5,76mm, cơ thể phân đốt rõ ràng. Số lượng đốt của các cá thể dao động từ 47-85 đốt, trung bình là 60±10 đốt/cá thể. Trùn chỉ phân bố ở hầu hết các ao nuôi ngoại trừ ao cá trê phi. Mật độ loài L. hoffmeisteri trên tổng mật độ giun ít tơ thấp nhất (28,44 ± 4,25%) ở ao nuôi ghép, cao nhất ở ao ương giống cá rô phi bằng thức ăn chế biến chiếm 42,06 ± 8,36%. Từ khoá: ao nuôi thủy sản, giun ít tơ, trùn chỉ (L. hoffmeisteri) ABSTRACT This study determined morphological characteristics and biomass of L.hoffmeisteri that played the role as a natural food in aquaculture pond, contributing to propose solution to effi cient use this source of food. The study was carried out in the fi sh ponds of empirical farm at Ninh Phung -Ninh Hoa. The length of collected individuals varied from 14 to 40 mm, being average at 21.34 ± 5.76 mm, with clearly segmented body. The segment of individuals varied from 47 to 85, being average at 60±10 segments/individual. This species was distributed in most of the ponds except catfi shes ones. Density of the species devided by oligochaete density was lowest (28.44 ± 4,25%) in polyculture ponds, highest in tilapia nursing ponds by processed food, taking 42.06 ± 8,36%. Keyword: aquaculture ponds, oligochaete, L. hoffmeisteri 1 Viện Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang 2 Trường Đại học Nông Lâm Tp. HCM THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC I. ĐẶT VẤN ĐỀ Trùn chỉ không chỉ là thức ăn tự nhiên và yêu thích của hầu hết các loài cá ăn đáy mà chúng còn đóng vai trò rất quan trong trong quá trình chuyển hoá hợp chất hữu cơ dư thừa, cải tạo nền đáy, tiêu diệt mầm bệnh gây hại cho đối tượng nuôi thuỷ sản sống ở nền đáy ao. Bởi vì, giun đốt nói chung, trùn chỉ nói riêng có sức tiêu hóa lớn. Một tấn trùn có thể phân hủy được 70-80 tấn rác hữu cơ, hoặc 50 tấn gia súc trong một quý [3]. Thêm vào đó, trong quá trình ăn bùn đáy, trùn ăn và tiêu diệt luôn cả các tác nhân gây bệnh có trong bùn. Phân của chúng là môi trường tốt cho các loại vi sinh vật hữu ích phát triển [2]. Ngoài ra, trùn chỉ còn là sinh vật chỉ thị sinh học rất tốt. 86 • NHA TRANG UNIVERSITY Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016 Chúng thường phân bố ở khu vực nền đáy có hàm lượng chất hữu cơ cao. Mật độ của trùn chỉ tăng cao khi thuỷ vực trở lên ô nhiễm hữu cơ. Do đó, thu mẫu xác định sinh khối của trùn chỉ trong ao nuôi thuỷ sản có thể biết được chất lượng nước ao nuôi. Từ đó có biện pháp điều chỉnh lượng thức ăn hoặc thả nuôi ghép các đối tượng khác nhau để vừa sử dụng hiệu quả nguồn thức ăn đưa vào trong ao nuôi, vừa khai thác được nguồn thức ăn tự nhiên có sẵn trong ao, đồng thời quản lý được chất lượng nước của thuỷ vực. Mặc dù, trùn chỉ có vai trò rất lớn đối với ao nuôi thuỷ sản nước ngọt nhưng có rất ít nghiên cứu về khả năng phân bố của chúng trong các dạng thuỷ vực này. Duy nhất, tác giả Thái Trần Bái cho thấy, trùn chỉ phân bố tự nhiên và có thể kết với nhau tạo thành búi màu hồng trong ao nuôi trồng thủy sản nói chung [1]. Vì vậy, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đặc điểm hình thái và khả năng phân bố, mật độ của trùn chỉ ở các ao nuôi thuỷ sản nhằm xác định nguồn lợi thức ăn tự nhiên trong ao, từ đó đề xuất giải pháp tận dụng nguồn thức ăn này để giảm lượng thức ăn đưa vào ao nuôi, giảm chi phí sản xuất góp phần nâng cao lợi nhuận trong nuôi trồng thủy sản các đối tượng nước ngọt. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu: Limnodrilus hoffmeisteri Claparede, 1862 2. Địa điểm nghiên cứu Đặc điểm hình thái và phân tích các yếu tố môi trường sinh thái được tiến hành tại phòng thí nghiệm sinh thái thuộc khu Công nghệ cao trường Đại học Nha Trang. Trùn chỉ được thu mẫu trong các ao nuôi thủy sản ở trại thực nghiệm Nuôi trồng thủy sản – Viện nuôi trồng thủy sản tại Ninh Hòa - Khánh Hòa. 3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Thu mẫu Mẫu nước ở tầng giữa của thủy vực được thu bằng Batomet, sau đó dùng ống nhựa hút nước vào chai nút mài 125ml và chai nhựa 500ml, cố định mẫu đưa về phòng thí nghiệm để phân tích các thông số môi trường nước. Trên mỗi chai mẫu đều được dán nhãn ghi rõ thông tin loại mẫu, ngày, giờ và địa điểm thu mẫu. Mẫu nền đáy được thu bằng gầu Petersen có độ mở rộng của miệng 0,02 m2. Mỗi vị trí khảo sát thu 5 gầu theo mặt cắt ngang của thủy vực. Sau đó mẫu vật nền đáy được cho vào các túi nilon có ghi nhãn để đưa về phòng thí nghiệm xác định mật độ trùn chỉ và phân tích nền đáy. 3.2. Phân tích mẫu Nhiệt độ được đo bằng nhiệt kế thủy ngân, pH được đo bằng test pH tại điểm khảo sát thu mẫu. Xác định nồng độ oxy hòa tan trong nước theo phương pháp Winkler, nhu cầu oxy hòa tan (BOD), oxy hóa học (COD) theo phương pháp Permanganat, tổng lượng chất rắn lơ lửng trong nước (TSS), chất đáy theo phương pháp sa lắng cơ học, hàm lượng chất hữu cơ trong đất (OM) theo tài liệu của Nguyễn Đình Trung (2004) [5] trong phòng thí nghiệm. Mật độ loài được tính theo công thức N=10ΣXi. Trong đó: N mật độ (cá thể.m -2); Xi số lượng cá thể. Định loại các loài giun ít tơ có trong mẫu theo tài liệu phân loại học của Đặng Ngọc Thanh và ctv, (1980)(4). Xác định đặc điểm hình thái, đếm số lượng đốt và đo chiều dài 30 cá thể trùn chỉ (L.hoffmeisteri). Trùn chỉ thu về được cố định và bảo quản trong dung dịch cồn 70%, sau đó lấy mẫu để đo.chiều dài cơ thể bằng thước nhựa có chia vạch tới mm. Đặc điểm hình thái, số đốt được quan sát và đếm dưới kính hiển vi quang học hai mắt hiệu Olympus BX41, sản xuất taị Nhật Bản, gắn máy chụp ảnh Olympus C-7070, sản xuất tại Nhật Bản. Số liệu đã thu thập được xử lý sơ bộ với chương trình Excel và xử lý thống kê bằng phần mềm SPSS 18, so sánh sự khác biệt giữa các nghiệm thức (ANOVA) sau đó sử dụng phép thử Duncan để kiểm chứng. Toàn bộ số liệu trong các bảng được trình bày dưới dạng giá trị trung bình (Mean)± độ lệch chuẩn (SD). Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016 NHA TRANG UNIVERSITY • 87 III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 1. Đặc điểm hình thái Trùn chỉ (L. hoffmeisteri) phân bố ao nuôi thủy sản có chiều dài dao động từ 14-40 mm, trung bình là 21,34±5,76 mm/con. Cơ thể trùn chỉ phân đốt rõ ràng với số lượng đốt dao giao động từ 47-85, trung bình 60 ± 10 đốt/con. Kết quả nghiên cứu ít có sự sai khác với quần thể trùn chỉ ở sông Chao Phraya Thái Lan. Chiều dài trung bình (25,52 ±3,29 mm), số đốt trung bình/cá thể (64,8±13,34) [6]. Số đốt của trùn chỉ dao động lớn vì trong quá trình phát triển ở hậu môn còn giữ vùng sinh trưởng và vùng này tạo dần các đốt từ trước ra sau, trước tiên là tách các đôi túi thể xoang về phía trước rồi phân đốt phía ngoài. Các đốt cứ tiếp tục nhân lên cho đến khi đạt số đốt trưởng thành [1]. Phần trước miệng ở đầu bị tiêu giảm, tấm trước miệng vắn kết với tua quanh miệng tạo thành hình tam giác, tiết diện cắt ngang đuôi là hình tròn. Tơ lưng và tơ bụng đều có cùng một kiểu tơ hình chữ S. Răng đỉnh thanh hơn và hơn ngắn hơn so với răng gốc. Mỗi một chùm tơ trước đốt sinh đốt sinh dục thường có từ 4-8 lông cứng. Sau đốt sinh dục số lượng lông cứng của các chùm tơ giảm xuống, các đốt cuối cơ thể chỉ còn 2-3 tơ cứng/1 chùm tơ (Hình 1). Hình 1. Chùm tơ cứng trước đốt sinh dục và cuối cơ thể: chùm tơ cứng trước đốt sinh dục (a); chùm tơ cứng cuối cơ thể (b) Trong số các mẫu vật quan sát được có 46,7% con trưởng thành, cho phép nhìn thấy được ống kitin phía trong cơ thể. Đường kính của ống không đều mà hơi thon nhỏ ở vị trí 1/3 tính từ mép ngoài. Mép ngoài của ống kitin cong dạng hình loa kèn. Túi nhận tinh hình túi, bầu của túi nhận tinh hình trứng. Một số mẫu vật còn quan sát được bó tinh trùng hình chùy trong túi nhận tinh (Hình 2). Số trùn chỉ chưa trưởng thành chiếm 53,3%, trong đó 33,3% mẫu vật ở giai đoạn tiền trưởng thành, đốt sinh dục bắt đầu phát triển, đốt sinh dục đã lớn hơn các đốt khác nhưng chưa thấy màu trắng của túi tinh, ống kitin ở phân đốt sinh dục (đốt XI). Trùn chỉ chưa trưởng thành chiếm 20%, đốt sinh dục chưa phình to, màu sắc toàn bộ cơ thể đồng nhất. Kết quả này tương tự như mẫu thu từ sông Chao Phraya Thái Lan trùn chưa trưởng thành chiếm ưu thế trong quần thể trùn chỉ [8]. Hình 2. Ống dẫn tinh, túi nhận tinh và bó tinh: ống dẫn tinh bằng kitin (a), bó tinh hình chùy trong túi nhận tinh (b) 88 • NHA TRANG UNIVERSITY Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016 2. Sinh thái phân bố 2.1. Yếu tố môi trường Thông số môi trường tự nhiên, giá trị trung bình cộng với độ lệch chuẩn của ao nuôi thủy sản đều nằm trong khoảng thích hợp cho sự phát triển của thủy sinh vật: nhiệt độ biến động từ 27,7ºC đến 34,5ºC, pH dao động từ 6,5 đến 8,0 Oxy 4,16 - 5,28 mg/L, COD dao động 5,66 đến 10,35 (mgO2/L), BOD5 dao động từ 1,51 đến 6,43 (mgO2/L), TSS dao động từ 0,11 đến 0,47 mg/L (Bảng 1). Bảng 1. Các yếu tố môi trường ở dạng thủy vực nước tĩnh có mực nước cao Thủy vực dạng ao Nhiệt độ (ºC) pH DO (mg/L) COD (mgO2/L) BOD5 (mgO2/L) TSS (mg/L) Tự nhiên 32,33±0,58 6,8-7,8 4,16±0,55 9,45±0,66 3,21±1,67 0,17±0,88a Cá trê 33,50±0,76 6,8-7,0 4,59±0,40 10,35±0,69 2.79±0,86 0,23±0,07ab Nuôi ghép 31,83±0,76 6,9-7,5 4,87±0,4 8,23±0,69 2,79±0,86 0,11±0,09ab Cá tra dầu 33,00±0,5 6,9-7,5 5,28±0,67 5,66±0,47 1,51±0,36 0,47±0,08ab rô phi giống 27,50±0,05 6,5-7,3 4,68±0,45 8,97±0,96 6,43±0,33 0,29±0,01b Cá rô đồng 34,50±0,05 7,0-8,0 5,72±0,11 7,41±0,33 1,29±0,10 0,26±0,17c Số liệu trình bày trên bảng là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn. Số liệu cùng một cột có các chữ cái khác nhau thể hiện sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05) Thủy vực tự nhiên và hầu hết các ao nuôi cá có màu nước trong xanh, phù hợp với sự phát triển của thủy sinh vật. Duy nhất, ao nuôi cá trê phi, thức ăn sử dụng trong quá trình nuôi cá là nội tạng gia cầm nên nước bị ô nhiễm, có màu xanh lam. Nền đáy của toàn bộ ao thu mẫu là cát bùn hoặc bùn cát đều thích hợp cho sự phát triển của các loài động vật không xương sống ở nền đáy. Hàm lượng chất hữu cơ của các ao có sự khác biệt rõ rệt. Ao tự nhiên, không có sự tác động của con người có hàm lượng chất hữu cơ thấp nhất 4,52 ± 0,96 %. Ao nuôi cá trê, sử dụng thức ăn sống và thường bị dư (khi thu mẫu có thức ăn thừa nổi trên bề mặt nước) có hàm lượng chất hữu cơ cao nhất 17,83 ±1,01%. Các ao nuôi cá còn lại được cung cấp thức ăn công nghiệp (ao nuôi cá tra dầu, cá rô đồng), thức ăn chế biến (ao nuôi ghép, ao ương cá rô phi) có hàm lượng chất hữu cơ trung bình từ 7,2 đến 10,47%, sự sai khác này có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Bảng 2. Tính chất và hàm lượng chất hữu cơ nền đáy ở dạng thủy vực nước chảy Thủy vực Đặc điểm của thủy vực Tính chất nền đáy Hàm lượng chất hữu cơ (OM%) Ao tự nhiên Nước trong, lục bình phát triển che phủ 1/3 diện tích mặt nước. Cát bùn 4,52 ± 0,96a Ao nuôi cá Trê Phi Nước keo có màu xanh lam, cung cấp nội tạng gia cầm làm thức ăn cho cá. Bùn cát 17,83 ±1,01b Ao nuôi ghép (Mè, Trôi, trắm, chép) Nước trong, xung quanh bờ ao có rau muống bò lan, không cho ăn. Bùn cát 9,68 ±0,65c Ao nuôi cá tra dầu (cá được 1 tuổi) Nước trong, sử dụng thức ăn công nghiệp Bùn cát 9.20 ± 0.03c Ao nuôi cá rô phi giống Nước trong xanh, sử dụng thức ăn chế biến. Bùn cát 10,47 ±1,40c Ao nuôi cá rô đồng Nước trong, sử dụng thức ăn công nghiệp Cát bùn 7.20 ±0,10d Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016 NHA TRANG UNIVERSITY • 89 Số liệu trình bày trên bảng là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn. Số liệu cùng một cột có các chữ cái khác nhau thể hiện sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05) 2.2. Cấu trúc thành phần loài trùn chỉ trong nuôi thủy sản Kết quả nghiên cứu, trong sáu ao thu mẫu có duy nhất các ao nuôi cá ăn đáy (cá trê phi) không tìm thấy sự phân bố của lớp giun ít tơ. Đối với các ao còn lại thì ao nuôi cá rô đồng bằng thức ăn công nghiệp có mật độ giun ít tơ cao nhất (367±76 con/m2). Ao nuôi ghép các loài cá ăn tầng mặt, tầng giữa và tầng đáy bằng thức ăn tự nhiên có mật độ giun ít tơ thấp nhất (117 ± 29 con/m2). Tỷ lệ loài L.hoffmeisteri xuất hiệt khá cao ở tất cả các ao có giun ít tơ phân bố. Phần trăm loài L.hoffmeisteri/tổng số cá thể giun ít tơ có trong thủy vực ở các ao biến động từ 28,44 ± 4,25% đến 42,06 ± 8,36%. Ao nuôi cá có sử dụng thức ăn chế biến (ao nuôi cá rô phi giống) có tỷ lệ L. hoffmeisteri cao nhất 42,06 ± 8,36%, tiếp đến là các ao nuôi sử dụng thức ăn công nghiệp (ao nuôi cá tra dầu, ao nuôi rô đồng 34,72 ± 2,41% và 321,75 ± 2,75% tương ứng). Tỷ lệ L.hoffmeisteri thấp nhất ở ao nuôi ghép 28,44 ± 4,25% (Hình 3). Hình 3. Biến động mật độ và tỷ lệ phần trăm loài L.hoffmeisteri/tổng giun ít tơ trong ao Sự có mặt của L.hoffmeisteri trong ao tự nhiêu và các ao nuôi cá khẳng định khả năng phân bố của trùn chỉ trong các thủy vực nước tĩnh dạng ao. Khả năng phân bố của L.hoffmeisteri trong thủy vực không chỉ phụ thuộc vào loại thức ăn nuôi cá mà còn phụ thuộc vào tập tính ăn của các loài cá được nuôi. Ao nuôi cá bằng thức ăn chế biến độ bền trong nước kém nên thức ăn dư thừa nhiều tạo điều kiện cho trùn chỉ phát triển tốt nhất. Thức ăn công nghiệp có độ bền trong nước cao hơn, mức dư thừa thức ăn thấp, trùn chỉ phát triển kém hơn. Ao nuôi ghép và ao tự nhiên việc tận dụng thức ăn của các nhóm cá tầng mặt, tầng giữa và tầng đáy tốt, sản phẩm dư thừa lắng đọng nền đáy thấp nên trùn chỉ kém phát triển hơn cả. Đặc biệt ở ao nuôi toàn cá ăn đáy (trê phi), không có thức ăn thừa lắng xuống nền đáy, thức ăn thừa thường nổi trên mặt nước, thêm vào đó cá nuôi có tập tính sục bùn tìm kiếm thức ăn dưới nền đáy nên không thấy sự phân bố của giun ít tơ nói chung cũng như trùn chỉ nói riêng. Trùn chỉ phân bố trong các ao nuôi thủy sản cũng như ao tự nhiên đã được ghi nhận bởi nhiều tác giả khác nhau. Loài L.hoffmeisteri và Branchiura sowerbyi thường sống xen kẽ với nhau ở đáy các ao nuôi cá. Loài L.hoffmeisteri có thể kết với nhau tạo thành búi màu hồng trong ao nuôi trồng thủy sản [1]. Nghiên cứu sự phân bố và mật độ của giun ít tơ trong thủy vực dạng ao ở huyện Thiruvananthapuram miền nam Ấn Độ ghi nhận có 10 loài thuộc lớp giun ít tơ, trong đó có hai loài thuộc họ trùn ống là 90 • NHA TRANG UNIVERSITY Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016 L.hoffmeisteri và Tubifex tubifex phân bố trong ao. Mật độ của T.tubifex cao nhất vào cuối mùa mưa (120 con/m3) và thấp nhất (40con/m3) vào mùa đầu mùa mưa. Mật độ của L.hoffmeisteri thu được cao nhất (160 con/m3) trong suốt khoảng thời gian trước mùa khô, giảm xuống thấp nhất (40con/m3) vào đầu mùa mưa [7]. Công trình nghiên cứu về vòng đời của một số loài động vật không xương sống trong ao có diện tích nhỏ trong thời gian 3 năm của Johnstone O.Young kết luận nhóm loài phong phú nhất trong ao nuôi là Phaenocora typhlops, L.hoffmeisteri và Chaoborus crystallinus. Con non của loài L.hoffmeisteri nở vào cuối mùa xuân đầu mùa hè, mật độ tăng cao từ tháng tư đến tháng bẩy hoặc tháng tám. Chúng trưởng thành và thục sinh dục vào tháng 8, tạo kén lần đầu tiên vào tháng hai hoặc tháng ba năm sau [6]. VI. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Trong tổng số trùn chỉ quan sát về đặc điểm hình thái thì có 46,7% con trưởng thành. Chiều dài cơ thể dao động từ 14-40 mm, trung bình 21,34±5,76 mm/con. Cơ thể phân đốt rõ ràng với số lượng đốt dao động từ 47-85, trung bình 60 ± 10 đốt/con. Giun ít tơ phân bố ở hầu hết các ao ngoại trừ ao nuôi cá trê phi sử dụng lòng thức ăn là ruột gà công nghiệp. Tỷ lệ phần trăm loài L.hoffmeisteri trên tổng số giun ít tơ có trong ao cao, biến động từ 28,44 ± 4,25% đến 42,06 ± 8,36%. 2. Kiến nghị Nên nuôi ghép các loài cá ăn đáy với nhóm cá ăn nổi ở trong ao nuôi bằng thức ăn chế biến để tận dụng triệt để nguồn thức ăn tự nhiên sẵn có trong ao, từ đó nâng cao được hiệu quả kinh tế trong nuôi trồng thủy sản. Tiếp tục nghiên cứu khả năng phân bố của trùn chỉ ở các dạng thủy vực nước ngọt khác. Từ đó có khuyến cáo ban đầu về chất lượng nước của thủy vực. Bởi vì, trùn chỉ làm một trong những loài động vật không xương sống làm sinh vật chỉ thị cho môi trường ô nhiễm chất hữu cơ. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Thái Trần Bái, 2005. Động vật học không xương sống. NXB Giáo dục 2. Nguyễn Lân Hùng, 2006. Một số đặc điểm của trùng đất. NXB Nông nghiệp 3. Trương Thị Bích Hồng, 2014. Vai trò của giun đốt (Annenida) trong nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và lâm nghiệp. Tạp chí Khoa học – Công nghệ thủy sản. 4. Đặng Ngọc Thanh, Trần Thái Bái, Phạm Văn Miên, 1980. Định loại động vật không xương sống nước ngọt Bắc Việt Nam. NXB Khoa học Kỹ thuật Hà Nội 5. Nguyễn Đình Trung, 2004. Quản lý chất lượng nước trong nuôi trồng thủy sản. NXB Nông nghiệp. Tiếng Anh 6. Johnstone O.Young, 1974. Lif e-cycles of some invertebrate taxa in a small pond together with changes in their numbers over a period of three years. Hydrobiologia. 7. Ragi M.S., Lava D.S., 2014. Distribution and Diversity of Oligochaetes in Selected Ponds of Thiruvananthapuram District, Kerala, South India, Ecology. 8. Warucha Kanchana - Aksorn, 2011. Study on Limnodrilus hoffmeisteri Population Response to Different Organic Enrichment in Laboratory Condition.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfso_4_2016_nguyen_dinh_mao_dinh_the_nhan_truong_thi_bich_hong_7891_2024474.pdf
Tài liệu liên quan