Cuộc đấu tranh của hai phe chủ chiến - Chủ hòa và những tác động đối với cuộc đấu tranh chống pháp xâm lược (1858 – 1888)

CUỘC ĐẤU TRANH CỦA HAI PHE CHỦ CHIẾN - CHỦ HÒA VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (1858 – 1888) I. MỞ ĐẦU 1. Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, nhà Nguyễn là triều đại ở vị trí rất đặc biệt, đó là điểm giao thời từ Việt Nam độc lập sang nước Việt Nam nô lệ. Nhà Nguyễn tồn tại 143 năm (1802 – 1945) trong thời kì đất nước có nhiều biến động, là nhà nước phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Hiếm có triều đại nào thu hút nhiều sự chú ý của các nhà nghiên cứu lịch sử như triều Nguyễn. Một nguyên nhân quan trọng vì đây là thời kì gần với lịch sử hiện đại Việt Nam, còn lưu giữ được nhiều những tư liệu thành văn nhưng phần khác là ở triều Nguyễn luôn tồn tại hai mảng sáng tối đan xen với nhau, dễ gây nên sự tranh luận của các nhà khoa học, trong đó nội dung được đề cập nhiều là cuộc đấu tranh chống Pháp xâm lược (1858 – 1885) và nguyên nhân để mất nước ta vào tay thực dân Pháp. Đa số các học giả cho rằng, nguyên nhân quan trọng để mất độc lập, chủ quyền là do nhà Nguyễn thiếu quyết tâm đánh Pháp đến cùng, sai lầm trong đường lối chỉ đạo chiến lược, từ bỏ vai trò lãnh đạo của người đại diện cho lợi ích dân tộc nên biến việc mất nước từ chỗ không tất yếu thành tất yếu. Nhưng cũng có ý kiến đánh giá nguyên nhân mất nước của dân tộc ta hồi nửa cuối thế kỉ XIX là do tình trạng lạc hậu và yếu kém so với phương Tây gây nên, do đó để mất nước vào tay người Pháp là điều khó tránh khỏi. Chia sẻ quan điểm của các nhà nghiên cứu lịch sử trên đây, chúng tôi nhận thấy cần đi sâu phân tích những mâu thuẫn, xung đột trong nội bộ triều đình nhà Nguyễn nhằm làm sáng tỏ những mâu thuẫn về tư tưởng trong lực lượng quan lại Việt Nam cuối thế kỉ XIX. Đó là cuộc đấu tranh nhằm xác định đường lối chiến lược kháng Pháp giữa hai phe chủ chiến và chủ hòa. Qua đây, chúng tôi mong muốn góp phần lí giải rõ thêm nguyên nhân để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp từ yếu tố chủ quan ở bên trong cơ quan chỉ huy cao nhất cuộc đấu tranh chống xâm lăng. Điều này không chỉ giúp cho sinh viên năm thứ hai khoa Việt Nam học có thể hiểu rõ hơn về nhà Nguyễn và lịch sử Việt Nam những năm cuối thế kỉ XIX mà còn có được cách nhìn nhận và đánh giá sự kiện lịch sử, biến cố lịch sử và vấn đề lịch sử đưới góc nhìn đa diện, nhiều chiều. Nghiên cứu những xung đột giữa hai phe chủ chiến và chủ hòa trong nội bộ nhà Nguyễn thời kì đấu tranh chống Pháp xâm lược (1858 - 1885) không những rất cần thiết để hiểu về quá khứ mà còn có ý nghĩa quan trọng trong thời kỳ hiện nay, nhất là ở thời điểm chúng ta đang thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, tiến vào hội nhập cùng khu vực và thế giới. Cuộc đấu tranh nội bộ đó đã để lại bài học sâu sắc về vấn đề xây dựng sự đoàn kết nhất trí trong chính quyền nhà nước, là nhân tố quan trọng của thành công cũng như thất bại. Bài học về đoàn kết trong lực lượng lãnh đạo, đại đoàn kết toàn thể nhân dân là bài học lớn trong suốt tiến trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta và nó chính là thứ di sản quý giá của dân tộc cần được chú trọng và tiếp tục vận dụng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 2. Cho tới nay, cuộc đấu tranh giữa hai phe chủ chiến và chủ hòa trong cuộc đấu tranh chống Pháp xâm lược ở nửa cuối thế kỉ XIX đã thu hút được nhiều sự chú ý, quan tâm của các nhà khoa học. Sự phân hoá, chia rẽ trong nội bộ triều Nguyễn thành hai phe chủ chiến và chủ hoà chính là hệ quả của cuộc đụng độ giữa Việt Nam và Pháp và nó cũng chứng tỏ sự bất ổn, sự yếu kém của triều Nguyễn trong cuộc đấu tranh chống Pháp. Trong cuốn Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II, NXB Giáo dục – 2000, các tác giả Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ đã khẳng định: “ phe chủ chiến muốn dựa vào phong kiến Trung Quốc để đánh đuổi Pháp. Tiêu biểu cho phái này có Tô Linh, Phan Hữu Nghị, Hồ Sĩ Tuấn, phe này chủ trương “phải giữ và đánh thủ để công và công để thủ, rồi quét sạch địch””. Phái chủ hoà thì lập luận khác khi họ khăng khăng bảo vệ quan điểm “chiến không bằng hoà, chống giặc duy thủ là hơn” [5; 20]. Lập luận của phe chủ hoà bị phái chủ chiến và nhân dân lên án kịch liệt bởi tư tưởng hoà lúc này là đồng nghĩa với đầu hàng giặc. Lập luận phái chủ chiến được nhân dân ủng hộ và hưởng ứng bởi tư tưởng đó là có trách nhiệm với quốc gia, dân tộc trong lúc nguy nan. Đây là nhận định đúng đắn và có cơ sở khoa học giúp chúng tôi định hướng trong quá trình đặt vấn đề và giải quyết vấn đề. Nhà sử học Dương Kinh Quốc trong cuốn Việt Nam những sự kiện lịch sử (1858 – 1918), NXB Giáo dục – 2006, thì có ý kiến khác. Ông cho rằng khi thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam thì cũng là lúc trong triều đình nhà Nguyễn có sự phân hóa sâu sắc khi có đến năm loại ý kiến khác nhau về chiến lược chống ngoại xâm. - Lấy thế thủ làm chính vì có giữ vững thì sau mới có thể bàn đến chuyện hoà hay chiến được. Đại biểu ý kiến này là Viện Cơ mật gồm Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản, Lưu Lượng. - kế chống giữ lâu dài làm chính vì thuyền tàu, súng đạn là cái sở trường của giặc, giặc muốn đánh mau, thắng mau, ta không nên chống lại với sở trường của chúng mà phải kiên trì chống và giữ để đợi khi chúng mệt mỏi, cần giảng hoà, lúc đó ta sẽ tuỳ cơ ứng phó. ý kiến này của các đại thần như Trương Quốc Dụng, Trần Văn Chung, Lâm Duy Hiệp, Chu Phúc Minh, Phan Huy Vịnh, Pham Chi Hương, Nguyễn Xuân Huân, Nguyễn Hữu Thành, Nguyễn Luận, Lê Đức, Vũ Xuân Sán. - Quyết tâm giữ đất, tấn công giặc, quyết không nghị hoà với giặc. Cụ thể là ở Quảng Nam, địch đã tiến sâu vào nội địa bằng đường sông ta phải dụ chúng lên bộ để tiêu diệt chúng. ở Gia Định ta nên hợp quân các tỉnh lại để nhất loạt tiến công, đốt phá, tiêu diệt địch. ý kiến này của các quan lại cấp Nha như: Tô Trân, Phạm Hữu Nghị, Trần Văn Vy, Lê Hiếu Hữu, Nguyễn Đăng Điều, Hồ Sĩ Tuấn. - Hoà có mức độ: Nếu giặc chỉ yêu cầu tự do truyền đạo và thông thương mua bán thì nên hoà, nếu đó chỉ là những yêu sách giả dối thì ta phải cố giữ. Đây là ý kiến của Vũ Đức Nhu. - Nên hoà ngay. Ý kiến của Lê Trí Tín, Đoàn Thọ, Tôn Thất Thường, Tôn Thất Dao, Nguyễn Hào [7; 16]. Tựu chung năm ý kiến là có hai luồng tư tưởng rõ ràng: chiến hay hòa. Có thể nói, đây chính là một trong những nguồn tư liệu quý cho thấy sự dao động, thiếu nhất quán ngay từ đầu trong đường lối chống Pháp của lực lượng vua quan nhà Nguyễn - những người đại diện cao nhất cho lợi ích của toàn dân tộc. Từ đây, chúng tôi có thêm những căn cứ quan trọng để có thể đánh giá thái độ và trách nhiệm của nhà nước phong kiến Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào tay Pháp.

docx17 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 8256 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cuộc đấu tranh của hai phe chủ chiến - Chủ hòa và những tác động đối với cuộc đấu tranh chống pháp xâm lược (1858 – 1888), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CUỘC ĐẤU TRANH CỦA HAI PHE CHỦ CHIẾN - CHỦ HÒA VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (1858 – 1888)  I. MỞ ĐẦU 1. Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, nhà Nguyễn là triều đại ở vị trí rất đặc biệt, đó là điểm giao thời từ Việt Nam độc lập sang nước Việt Nam nô lệ. Nhà Nguyễn tồn tại 143 năm (1802 – 1945) trong thời kì đất nước có nhiều biến động, là nhà nước phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Hiếm có triều đại nào thu hút nhiều sự chú ý của các nhà nghiên cứu lịch sử như triều Nguyễn. Một nguyên nhân quan trọng vì đây là thời kì gần với lịch sử hiện đại Việt Nam, còn lưu giữ được nhiều những tư liệu thành văn nhưng phần khác là ở triều Nguyễn luôn tồn tại hai mảng sáng tối đan xen với nhau, dễ gây nên sự tranh luận của các nhà khoa học, trong đó nội dung được đề cập nhiều là cuộc đấu tranh chống Pháp xâm lược (1858 – 1885) và nguyên nhân để mất nước ta vào tay thực dân Pháp. Đa số các học giả cho rằng, nguyên nhân quan trọng để mất độc lập, chủ quyền là do nhà Nguyễn thiếu quyết tâm đánh Pháp đến cùng, sai lầm trong đường lối chỉ đạo chiến lược, từ bỏ vai trò lãnh đạo của người đại diện cho lợi ích dân tộc nên biến việc mất nước từ chỗ không tất yếu thành tất yếu. Nhưng cũng có ý kiến đánh giá nguyên nhân mất nước của dân tộc ta hồi nửa cuối thế kỉ XIX là do tình trạng lạc hậu và yếu kém so với phương Tây gây nên, do đó để mất nước vào tay người Pháp là điều khó tránh khỏi. Chia sẻ quan điểm của các nhà nghiên cứu lịch sử trên đây, chúng tôi nhận thấy cần đi sâu phân tích những mâu thuẫn, xung đột trong nội bộ triều đình nhà Nguyễn nhằm làm sáng tỏ những mâu thuẫn về tư tưởng trong lực lượng quan lại Việt Nam cuối thế kỉ XIX. Đó là cuộc đấu tranh nhằm xác định đường lối chiến lược kháng Pháp giữa hai phe chủ chiến và chủ hòa. Qua đây, chúng tôi mong muốn góp phần lí giải rõ thêm nguyên nhân để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp từ yếu tố chủ quan ở bên trong cơ quan chỉ huy cao nhất cuộc đấu tranh chống xâm lăng. Điều này không chỉ giúp cho sinh viên năm thứ hai khoa Việt Nam học có thể hiểu rõ hơn về nhà Nguyễn và lịch sử Việt Nam những năm cuối thế kỉ XIX mà còn có được cách nhìn nhận và đánh giá sự kiện lịch sử, biến cố lịch sử và vấn đề lịch sử đưới góc nhìn đa diện, nhiều chiều. Nghiên cứu những xung đột giữa hai phe chủ chiến và chủ hòa trong nội bộ nhà Nguyễn thời kì đấu tranh chống Pháp xâm lược (1858 - 1885) không những rất cần thiết để hiểu về quá khứ mà còn có ý nghĩa quan trọng trong thời kỳ hiện nay, nhất là ở thời điểm chúng ta đang thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, tiến vào hội nhập cùng khu vực và thế giới. Cuộc đấu tranh nội bộ đó đã để lại bài học sâu sắc về vấn đề xây dựng sự đoàn kết nhất trí trong chính quyền nhà nước, là nhân tố quan trọng của thành công cũng như thất bại. Bài học về đoàn kết trong lực lượng lãnh đạo, đại đoàn kết toàn thể nhân dân là bài học lớn trong suốt tiến trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta và nó chính là thứ di sản quý giá của dân tộc cần được chú trọng và tiếp tục vận dụng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 2. Cho tới nay, cuộc đấu tranh giữa hai phe chủ chiến và chủ hòa trong cuộc đấu tranh chống Pháp xâm lược ở nửa cuối thế kỉ XIX đã thu hút được nhiều sự chú ý, quan tâm của các nhà khoa học. Sự phân hoá, chia rẽ trong nội bộ triều Nguyễn thành hai phe chủ chiến và chủ hoà chính là hệ quả của cuộc đụng độ giữa Việt Nam và Pháp và nó cũng chứng tỏ sự bất ổn, sự yếu kém của triều Nguyễn trong cuộc đấu tranh chống Pháp. Trong cuốn Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II, NXB Giáo dục – 2000, các tác giả Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ đã khẳng định: “… phe chủ chiến muốn dựa vào phong kiến Trung Quốc để đánh đuổi Pháp. Tiêu biểu cho phái này có Tô Linh, Phan Hữu Nghị, Hồ Sĩ Tuấn, phe này chủ trương “phải giữ và đánh thủ để công và công để thủ, rồi quét sạch địch””. Phái chủ hoà thì lập luận khác khi họ khăng khăng bảo vệ quan điểm “chiến không bằng hoà, chống giặc duy thủ là hơn” [5; 20]. Lập luận của phe chủ hoà bị phái chủ chiến và nhân dân lên án kịch liệt bởi tư tưởng hoà lúc này là đồng nghĩa với đầu hàng giặc. Lập luận phái chủ chiến được nhân dân ủng hộ và hưởng ứng bởi tư tưởng đó là có trách nhiệm với quốc gia, dân tộc trong lúc nguy nan. Đây là nhận định đúng đắn và có cơ sở khoa học giúp chúng tôi định hướng trong quá trình đặt vấn đề và giải quyết vấn đề. Nhà sử học Dương Kinh Quốc trong cuốn Việt Nam những sự kiện lịch sử (1858 – 1918), NXB Giáo dục – 2006, thì có ý kiến khác. Ông cho rằng khi thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam thì cũng là lúc trong triều đình nhà Nguyễn có sự phân hóa sâu sắc khi có đến năm loại ý kiến khác nhau về chiến lược chống ngoại xâm. - Lấy thế thủ làm chính vì có giữ vững thì sau mới có thể bàn đến chuyện hoà hay chiến được. Đại biểu ý kiến này là Viện Cơ mật gồm Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản, Lưu Lượng. - kế chống giữ lâu dài làm chính vì thuyền tàu, súng đạn là cái sở trường của giặc, giặc muốn đánh mau, thắng mau, ta không nên chống lại với sở trường của chúng mà phải kiên trì chống và giữ để đợi khi chúng mệt mỏi, cần giảng hoà, lúc đó ta sẽ tuỳ cơ ứng phó. ý kiến này của các đại thần như Trương Quốc Dụng, Trần Văn Chung, Lâm Duy Hiệp, Chu Phúc Minh, Phan Huy Vịnh, Pham Chi Hương, Nguyễn Xuân Huân, Nguyễn Hữu Thành, Nguyễn Luận, Lê Đức, Vũ Xuân Sán. - Quyết tâm giữ đất, tấn công giặc, quyết không nghị hoà với giặc. Cụ thể là ở Quảng Nam, địch đã tiến sâu vào nội địa bằng đường sông ta phải dụ chúng lên bộ để tiêu diệt chúng. ở Gia Định ta nên hợp quân các tỉnh lại để nhất loạt tiến công, đốt phá, tiêu diệt địch. ý kiến này của các quan lại cấp Nha như: Tô Trân, Phạm Hữu Nghị, Trần Văn Vy, Lê Hiếu Hữu, Nguyễn Đăng Điều, Hồ Sĩ Tuấn. - Hoà có mức độ: Nếu giặc chỉ yêu cầu tự do truyền đạo và thông thương mua bán thì nên hoà, nếu đó chỉ là những yêu sách giả dối thì ta phải cố giữ. Đây là ý kiến của Vũ Đức Nhu. - Nên hoà ngay. Ý kiến của Lê Trí Tín, Đoàn Thọ, Tôn Thất Thường, Tôn Thất Dao, Nguyễn Hào [7; 16]. Tựu chung năm ý kiến là có hai luồng tư tưởng rõ ràng: chiến hay hòa. Có thể nói, đây chính là một trong những nguồn tư liệu quý cho thấy sự dao động, thiếu nhất quán ngay từ đầu trong đường lối chống Pháp của lực lượng vua quan nhà Nguyễn - những người đại diện cao nhất cho lợi ích của toàn dân tộc. Từ đây, chúng tôi có thêm những căn cứ quan trọng để có thể đánh giá thái độ và trách nhiệm của nhà nước phong kiến Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào tay Pháp. Gần đây nhất, khi xuất bản cuốn Khoa học xã hội thành phố Hồ Chí Minh - những vấn đề nghiên cứu, NXB Tổng hợp TP.HCM – 2007, tác giả Xuân Biên khẳng định: khi tiếng súng thực dân Pháp bùng nổ, giai cấp phong kiến Việt Nam phân ra hai phe chủ hoà và chủ chiến. Phái chủ hoà phần đông bọn đại phong kiến và quan lại với Tự Đức đứng đầu nhanh chóng câu kết với thực dân Pháp để làm tay sai cho chúng đàn áp và bóc lột nhân dân cả nước. Tác giả đã xác định rõ phe chủ hòa chính là bọn phong kiến phản động chóp bu. Ý kiến này tiếp tục khẳng định sự phân chia hai phe chủ chiến và chủ hòa xuất hiện ngay từ khi cuộc đấu tranh chống Pháp xâm lược bắt đầu, đồng thời nhấn mạnh trách nhiệm của triều đình nhà Nguyễn mà đứng đầu là vua Tự Đức với vận mệnh quốc gia dân tộc. Nhìn chung, các ý kiến này đều thừa nhận sự phân hoá sâu sắc trong nội bộ triều Nguyễn thành hai phái chủ chiến và chủ hoà. Nhưng các tác giả này đều chỉ dừng lại ở sự liệt kê mà chưa có sự phân tích và đánh giá sâu sắc về sự phân hoá đó. Ở bài viết này, chúng tôi sẽ đi vào phân tích sự phân hoá và đấu tranh của hai phe này khi đối mặt với âm mưu xâm lược của thực dân Pháp. Chúng tôi hy vọng góp phần làm rõ hơn bức tranh nội các nhà Nguyễn khi đối diện với thực dân Pháp và coi đó là nguyên nhân chủ quan quan trọng dẫn đến kết cục không có hậu của cuộc đấu tranh chống Pháp xâm lược do nhà Nguyễn tổ chức và lãnh đạo. 3. Đề tài tập trung tìm hiểu các lực lượng chủ chiến và chủ hoà dưới triều Nguyễn cùng những mâu thuẫn và xung đột của hai phe này trong suốt tiến trình đấu tranh chống Pháp xâm lược đồng thời làm sáng rõ thêm một trong những nguyên nhân thất bại của cuộc đấu tranh chống Pháp xâm lược cuối thế kỉ XIX. Đề tài tập trung phân tích cuộc đấu tranh của hai lực lượng chính trong nội các triều Nguyễn là chủ hoà và chủ chiến trong thời kỳ đấu tranh chống Pháp xâm lược từ 1858 đến 1885. Đề tài làm phải giải quyết những nội dung sau: Thứ nhất: Cần làm rõ bối cảnh lịch sử dẫn đến sự hình thành của hai phe chủ chiến và chủ hòa. Thứ hai: Xác định lực lượng của hai phe chủ chiến, chủ hòa; quan điểm đường lối và cuộc đấu tranh của hai phe này trong thời kì chống Pháp xâm lược, bảo vệ độc lập chủ quyền. Ba là: Đánh giá những tác động của sự phân hóa này đối với cuộc đấu tranh chống Pháp xâm lược hồi nửa cuối thế kỉ XIX và rút ra bài học cần thiết đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay. 4. Xuất phát từ đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu đề ra, trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, đó là: phương pháp luận sử học mácxit, phương pháp nghiên cứu lịch sử kết hợp với phương pháp lôgic để làm rõ quá trình phân hóa và đấu tranh của hai phe chủ chiến – chủ hòa. Bên cạnh đó, chúng tôi sử dụng các phương pháp phân tích, phương pháp so sánh để làm rõ các bước phát triển khác nhau của hai lực lượng trong quá trình tiến hành cuộc đấu tranh chống Pháp cũng như tác động của nó đến kết quả của cuộc đấu tranh này. II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Phát súng lệnh xâm lược đầu tiên của thực dân Pháp ở Sơn Trà (Đà Nẵng) đã nhanh chóng làm chia rẽ nội bộ triều Nguyễn thành hai phe chủ chiến và chủ hoà. Từ đó trong quá trình đấu tranh chống Pháp, hai luồng tư tưởng này luôn đối chọi nhau, nhằm tiêu diệt lẫn nhau. Chỉ khi thực dân Pháp hoàn thành kế hoạch xâm lược Việt Nam thì sự phân hoá này mới chấm dứt với phần thắng nghiêng về phe chủ hoà. Cuối cùng phe chủ hoà đã câu kết với Pháp cùng bóc lột và cai trị nhân dân ta. 1. Hoàn cảnh lịch sử 1.1. Cuối thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Vấn đề tìm kiếm thị trường và thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc đang trở thành vấn đề bức thiết nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của nền sản xuất đại công nghiệp. Là một nước tư bản phát triển, Pháp nhanh chóng vươn lên thành một cường quốc trong hệ thống chủ nghĩa đế quốc. Bấy giờ trên thế giới, châu Á vẫn đang chìm đắm trong chế độ phong kiến nghèo nàn, lạc hậu nên đã trở thành “mảnh đất hứa” của chủ nghĩa đế quốc. Pháp nhanh chóng nhận thấy châu Á và Đông Nam Á là thị trường cần được mở rộng. Việt Nam nhanh chóng trở thành mục tiêu thôn tính của thực dân Pháp. Đầu thế kỉ XX, liên quân 8 nước đế quốc nhảy vào xâu xé Trung Quốc. Pháp là nước đi đầu và cũng gặt hái được khá nhiều lợi nhuận. Sau khi hoàn thành xong việc phân chia Trung Quốc, Pháp bắt đầu tiến hành xâm lược Việt Nam. Thực chất từ lâu Pháp đã có quan hệ với Việt Nam. Đó là thời điểm Nguyễn Ánh chạy trốn quân Tây Sơn, gặp được Bá Đa Lộc và cho con trai theo Bá Đa Lộc sang Pháp cầu cứu viện. Sau khi lập nên nhà Nguyễn, Nguyễn Ánh nhiều lúc muốn cắt đứt quan hệ với người Pháp vì ông đã phần nào nhận thấy dã tâm của người Pháp đối với đất nước này nhưng thực dân Pháp vẫn không ngừng nhòm ngó Việt Nam. Pháp đã để lại cố đạo Bá Đa Lộc nhằm làm nội ứng cho cuộc xâm lược sau này. Giai đoạn đầu, Pháp tổ chức các đội truyền giáo và thương nhân xâm nhập vào Việt Nam. Lực lượng này dưới danh nghĩa truyền đạo và buôn bán nhưng thực chất bên trong là điều tra và thống kê tình hình nước ta báo cáo về Pháp để dọn đường cho kế hoạch xâm lược. Phản ứng đầu tiên của nhà Nguyễn là ngăn cấm những giáo sĩ truyền đạo và cấm thông thương buôn bán với thương nhân Pháp. Về sau quyết liệt hơn nhà Nguyễn đã thi hành chính sách cấm đạo, giết đạo. Để hạn chế sự hoạt động của các giáo sĩ nhà Nguyễn đã ra 24 đạo dụ nhằm cấm truyền đạo vào Việt Nam. Sự cấm đoán đó của triều Nguyễn đã không những không mang lại kết quả mà còn làm cho quá trình truyền đạo diễn ra rộng hơn và sâu hơn. Những cuộc tàn sát dã man của nhà Nguyễn đã đẩy một bộ phận nhân dân ta tiến dần về phía kẻ thù và mâu thuẫn trong nước ngày càng trở nên sâu sắc. Lực lượng giáo sĩ truyền đạo đang hoạt động ngày càng tích cực nhằm phục vụ âm mưu xâm lược sắp được tiến hành. 1.2. Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, chế độ phong kiến đang trên con đường khủng hoảng trầm trọng. Thời Tự Đức cao trào nông dân khởi nghĩa đã làm chế độ phong kiến lung lay tới nền móng. Theo thống kê chưa đầy đủ, chỉ từ năm 1848 (khi Tự Đức lên ngôi) đến năm 1862 (là năm thực dân Pháp cướp trắng ba tỉnh miền đông Nam Kỳ) đã có 40 cuộc khởi nghĩa. Để duy trì nền thống trị của mình, phong kiến nhà Nguyễn đã ra sức củng cố xã hội bằng mọi cách. Về đối nội thì đàn áp khốc liệt các cuộc khởi nghĩa nông dân. Các cuộc hành quân liên miên đã khiến lực lượng quân đội triều đình suy yếu dần, khả năng chiến đấu giảm sút. Lòng dân oán thán, chia lìa, khối đoàn kết dân tộc rạn nứt. Tình hình trên đã gián tiếp tạo điều kiện thuận lợi cho Pháp thôn tính nước ta. Phong trào nông dân khởi nghĩa đã khẳng định rằng, vào lúc thực dân Pháp chuẩn bị nổ súng xâm lược nước ta là lúc mâu thuẫn giữa nông dân và phong kiến trở nên hết sức sâu sắc. Lợi dụng sự khốn cùng của quần chúng nhân dân lao động, các giáo sĩ phương Tây ra sức thu phục tín đồ. Lực lượng này tìm mọi cách khoét sâu mâu thuẫn giáo – lương. Các giáo sĩ Pháp lúc này hoặc trực tiếp tổ chức hoặc đứng sau những vụ khởi loạn chống triều đình, chuẩn bị cơ sở chính trị cho cuộc xâm lăng sắp tới. Song song với những chính sách đối nội thiển cận, phong kiến Nguyễn đã cho thi hành một đường lối đối ngoại sai lầm: đẩy mạnh các cuộc xâm lược Campuchia và Lào. Từ năm 1827 đến 1847, trong vòng 20 năm, nhà Nguyễn đã gây chiến tranh với người Miên, người Xiêm và người Lào, khiến cho nhân dân vô cùng khốn khổ. Đi đánh giặc Lạp, giặc Lào, giặc Xiêm là ác mộng của nhân dân miền Trung và miền Nam trong thời gian đó. Kết quả của 20 năm theo đuổi chính sách xâm lược tai hại đã khiến cho tài lực và nhân lực bị hao mòn, hiềm thù ngày càng khoét sâu giữa các nước láng giềng với nhau, trong lúc bọn thực dân đang nhòm ngó ngoài cửa ngõ. Trên đây là một nét cơ bản về tình hình của Việt Nam giữa thế kỉ XIX trước khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, nổi bật lên là sự khủng hoảng của chế độ phong kiến. Nhà nước phong kiến Nguyễn đang đứng trước một thử thách to lớn: + Một là, cần phải cải cách để đáp ứng nhu cầu lịch sử, xây dựng một triều đại tiến bộ, một nhà nước có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh mẽ hơn, có khả năng duy tân đất nước và bảo vệ nền độc lập dân tộc. Vấn đề này đã được không ít các quan lại cao cấp đương triều như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ… đề xuất nhưng vì điều kiện chủ quan và khách quan khác nhau mà mọi đề nghị cải cách nhà nước đều bị các vua nhà Nguyễn chối từ. + Hai là, nước Việt Nam bị xâm lược và bị biến thành một nước thuộc địa của tư bản phương Tây. Thực tế lịch sử cho thấy, khả năng thứ nhất không xảy ra, còn khả năng thứ hai thì liền kề. Khi thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam thì cũng là lúc chế độ phong kiến Việt Nam đi vào phân hoá và chia rẽ sâu sắc với hai phe chủ chiến và chủ hoà. Nhà Nguyễn đã không tìm ra sách lược hữu hiệu với kẻ thù, luôn bị động và bất đồng về đường lối, do đó nhà Nguyễn luôn tỏ ra lúng túng khi đối đầu với thực dân Pháp và cuối cùng là đầu hàng từng bước rồi để mất cả nước ta vào tay Pháp, biến quá trình mất nước không tất yếu trở thành tất yếu. 2. Quá trình hình thành và các đấu tranh giữa phe chủ chiến và chủ hoà 2.1. Quá trình hình thành hai phe chủ chiến - chủ hòa trong nội bộ triều đình Huế Sự xâm lược của thực dân Pháp đã nhanh chóng hình thành nên hai luồng tư tưởng chủ chiến và chủ hoà trong nội bộ triều Nguyễn. Hành động xâm lược của thực dân Pháp đã làm cho nội bộ triều Nguyễn vốn đã phức tạp, rối ren nay càng trở nên lúng túng bị động khi đối phó với thực dân Pháp. Sự hình thành hai luồng tư tưởng này là hệ quả của cuộc xâm lược mà Pháp tiến hành. Đó là phản ứng đầu tiên của nhà Nguyễn. Sự phân hoá thành hai phe: chủ chiến và chủ hoà trong nội bộ nhà Nguyễn diễn ra khá sớm ngay từ khi thực dân Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà. Tiêu biểu cho phe chủ hoà có Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản, Lưu Lượng, Trần Văn Trung, Lâm Duy Hiệp, Võ Xuân Hãn. Phe chủ chiến có Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường, Phạm Hữu Nghị, Trần Văn Vi, Lê Hiểu Hữu, Nguyễn Đăng Điều. Phe chủ hoà chủ trương: “Chiến không bằng hoà, nhưng phải cố thủ rồi sau mới bàn. Kẻ địch vốn cậy quyền bền súng mạnh làm sở trường, họ ở ngoài sóng gió mặt bể, thế ta khó thắng với họ. Thượng kế bây giờ nên lấy giữ (thủ) làm chính, giữ vững rồi sau mới có thể nói đánh, cũng có thể nói đến hoà. Bằng không trước lo việc giữ thì đánh cũng không được mà hoà cũng không xong” [4; 43]. Đây là tư tưởng được Tự Đức cho là hợp lẽ phải. Sở dĩ phe chủ hoà chủ trương như vậy là bởi họ lý giải là nên nuôi sức chọn thời châm chước đối phó. Mặt khác Tự Đức và những người trong phe chủ hoà cho rằng mục đích tấn công vào thực dân Pháp chỉ là truyền đạo và buôn bán, chứ không làm gì tổn hại đến ta. Cái nhìn đó của vua quan nhà Nguyễn là thiển cận, bó hẹp trong phạm vi một quốc gia đang cố duy trì nềnn tảng của chế độ phong kiến, không mở rộng ra thế giới nên thiếu hiểu biết về bản chất của đế quốc nói chung và thực dân Pháp nói riêng. Hơn nữa, không ít người trong số vua quan nhà Nguyễn vốn sớm mang tư tưởng hoang mang lo sợ giặc khi chúng ngấp nghé ngoài cửa ngõ nên dao động sinh ra chủ hoà nhằm bảo vệ quyền lợi ích kỉ của giai cấp mình. Lập trường của phe này tỏ ra phản động và không hợp lòng dân. Đối lập với phe chủ hoà, phe chủ chiến chủ trương công thủ. Họ cho rằng: “Quảng Nam, Gia Định địa thế, địch tính đại đồng mà tiểu dị, địch ở ngoài xa khơi thì khó đánh, địch vào nội địa càng dễ đánh, dễ bị tiêu diệt. Phải giữ và đánh, thủ để công, công để thủ, quét sạch địch, bằng nay hoà với họ thì sẽ bắt ta bỏ tấn và thông thương, xây nhà thờ, mở phố xá, rồi trăm sự xảo quyệt đều do một chữ hoà mà ra cả”[4; 44]. Phái chủ chiến ngay từ đầu đã có tinh thần chống giặc triệt để. Bởi theo họ hoà lúc này nghĩa là đầu hàng giặc. Tuy thế giặc mạnh nhưng quan quân một lòng đánh giặc thì thực dân Pháp cũng không phải là đáng lo ngại. Đối lập với đường lối của phe chủ hoà, phe chủ chiến đã lường trước được âm mưu của thực dân Pháp. Đó là nhu cầu mở rộng thuộc địa chứ không chỉ đơn giản là truyền đạo và thông thương. Chủ trương này xem ra đúng đắn, hợp lòng dân nhưng đa số đình thần không nghe theo. Bởi họ đã sớm mang tư tưởng sợ giặc và chủ hoà. Cuối cùng, khi tiếng súng của giặc đã nổ bên tai mà triều đình vẫn còn bận tranh cãi nghị luận lung tung, người đánh, kẻ hoà, trên dưới không nhất trí, đánh hoà không ngã ngũ, do đó dẫn đến lúng túng bị động trước những đợt tấn công của thực dân Pháp. Cơ sở và chỗ dựa của phái chủ chiến là các lực lượng chống Pháp trong nhân dân. Còn chỗ dựa của phái chủ hoà là thực dân Pháp, vì thế mâu thuẫn, xung đột giữa hai phe thường xuyên xảy ra. Trong khi phái chủ hoà ngày càng gắn bó với thực dân Pháp, nhất nhất làm theo mệnh lệnh của chúng thì phái chủ chiến cũng tìm cách đối phó. Về đường lối, phe chủ hoà chủ chương mềm dẻo, đàm phán để đấu tranh với địch, còn phe chủ chiến thì sử dụng bạo lực, chiến tranh để tiêu diệt địch. Hai chủ chương này hoàn toàn đối lập nhau và cuối cùng đều đi đến thất bại. 2.2. Sự phân hoá sâu sắc và cuộc đấu tranh giữa hai phe chủ chiến và chủ hoà Khi thực dân Pháp bắt đầu nổ súng xâm lược Việt Nam, nội bộ triều đình Huế đã sớm bị phân hoá. Trong suốt quá trình Pháp xâm lược Việt Nam, hai phe này mâu thuẫn sâu sắc với nhau, tìm cách loại bỏ nhau. Cuối cùng công cuộc xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp kết thúc và phe chủ hoà đã giành được thắng lợi. Từ đó, phe chủ hoà câu kết chặt chẽ và bắt tay với Pháp cùng chia sẻ quyền lợi. 2.2.1. Giai đoạn 1858 – 1883 từ khi Pháp bắt đầu xâm lược đến khi Tự Đức mất (17/7/1883) Từ chiều ngày 31/8/1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha đã kéo tới cửa biển Đà Nẵng. Kế hoạch của địch là đánh nhanh thắng nhanh để chiếm lấy Đà Nẵng làm căn cứ bàn đạp tấn công nội địa, tiêu diệt sinh lực của triều đình Huế tại đây, rồi vượt đèo Hải Vân đánh lên Huế bóp chết kháng chiến của phong kiến triều Nguyễn tại chỗ và buộc phải đầu hàng. Mờ sáng ngày 1/9/1858, Pháp đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà. Triều đình Huế vội phái quân tới tăng cường cho lực lượng phòng thủ. Nguyễn Tri Phương được cử làm tổng chỉ huy tại mặt trận Quảng Nam để lo việc chống giặc. Nhưng ông không chủ động tiến công giặc mà chỉ án binh bất động, chủ chương bao vây địch ngoài mé biển, nếu địch đánh vào mới chống lại. Còn về phía Pháp lúc này, trên mặt trận duy nhất sát cạnh kinh thành Huế chỉ có 3000 quân chính quy. Điều này đủ nói lên sự thiếu hụt quân số của thực dân Pháp. Hơn nữa khó khăn của chúng ngày càng tăng lên do không hợp khí hậu nên binh linh địch bị ốm đau và chết khá nhiều. Trước những khó khăn của giặc Pháp, ta thấy cơ hội phòng thủ và tấn công địch trên mặt trận Đà Nẵng không phải là ít. Nhưng triều đình đã bỏ mất thời cơ thuận lợi để chiến thắng quân thù. Trong nội bộ triều đình Huế lúc này các ý kiến vẫn còn bàn cãi, chưa ngã ngũ. Phe chủ chiến chủ trương trước sau tấn công địch. Nhưng người đứng đầu Tự Đức lúc này lại do dự, hoang mang, thiếu đường lối rõ ràng nên dẫn tới việc chỉ đạo chiến trường chưa triệt để và mang nặng tư tưởng cầm cự bị động. Sau năm tháng bị sa lầy trên mặt trận Đà Nẵng, tháng 2/1859 Pháp chuyển hướng tấn công Gia Định. Âm mưu của địch lần này kéo vào Gia Định so với lúc đánh Đà Nẵng có nhiều điểm khác. Chúng muốn cắt đứt đường tiếp tế của triều đình Huế, đánh Sài Gòn xong sẽ theo đường sông Cửu Long ngược lên đánh chiếm luôn Cao Miên. Trước sức tấn công mạnh mẽ của địch, bọn quan lại triều đình chịu trách nhiệm ở đây đã không có những hành động cứng rắn kịp thời để bóp chết ngay từ đầu ý chí xâm lăng của địch. Quân triều đình chỉ chống đỡ vài trận, rồi bỏ thành chạy dài. Trấn thủ thành Gia Định là Võ Duy Ninh thắt cổ tự vẫn để trốn tránh trách nhiệm, mở đầu cho một chuỗi tự sát của những bầy tôi bất lực dưới một triều đình phong kiến đã suy tàn. Như vậy, từ thất bại ở Đà Nẵng đến Gia Định ta nhận thấy quan quân nhà Nguyễn đều mang nặng tư tưởng thất bại chủ nghĩa nên sớm đầu hàng địch. Trong khi thực dân Pháp đang đánh chiếm Gia Định thì triều đình Huế vẫn còn đang nghị luận. Phe chủ chiến và chủ hoà đều có lập trường riêng để bảo vệ chính kiến của mình. Nhưng Tự Đức đã nghiêng về phe chủ hoà. Còn phe chủ chiến vẫn theo đường lối cứng rắn. Do có chỗ dựa vững chắc là quần chúng nhân dân nên phe chủ hoà và Tự Đức không thể loại trừ phe chủ chiến. Sau khi chiếm được Gia Định, quân Pháp lo sợ vấp phải sức chiến đấu quyết liệt của nghĩa quân nên chúng không dám đóng quân trên bộ mà phải rút xuống tàu giữa sông rộng. Trong khi đó, tướng lĩnh triều đình vẫn ngồi yên mà không hành động. Lúc này, phần lớn quân Pháp đã tiếp viện cho số quân đang bị khốn đốn ở Đà Nẵng nên phải dàn mỏng lực lượng trên một phòng tuyến dài hơn mười cây số. Đây là một thời cơ thuận lợi để tiến công địch nhưng triều đình vẫn hay biết gì. Nguyễn Tri Phương từ lúc vào làm Tổng đốc quân vụ đại thần phụ trách mặt trận Gia Định (tháng 3/1860) cũng chỉ biết đôn đốc quân dân hết đào hầm lại đắp luỹ để bao vây địch mé ngoài, thực hiện triệt để chiến thuật án binh bất động. Quân triều đình tuyệt nhiên không hề có một lần nào chủ động tiến công địch. Tai hại hơn nữa, chính tình trạng trên dưới ý kiến không thống nhất, nội bộ giai cấp phong kiến phân hoá phức tạp nên triều đình đã bỏ lỡ nhiều dịp nghị hào với Pháp với những điều kiện nghị hoà có lợi cho ta. Lần thứ nhất khi vừa đánh Đà Nẵng xong (từ 1859 - 1860), Pháp muốn nghị hoà. Các điều khoản chúng đưa ra như hai nước Pháp – Nam giao hảo lâu dài, khoan sá những người cộng tác với Pháp, không truy nã người theo đạo và thả giáo sĩ, tự do thông thương, tự do giảng đạo và đặc biệt là điều khoản cuối cùng ký hoà ước xong là Pháp lập tức rút chiến thuyền khỏi Gia Định, xét ra không phải là quá đáng. Trong tình hình đo, thái độ đúng đắn của triều đình là phải tranh thủ thời cơ hoà hoãn để xây dựng kháng chiến về sau. Nhưng triều đình không nhận ra cơ hội hoà hoãn nên đã bỏ lỡ. Kết quả là cuộc điều đình bị thất bại. Chính thái độ đánh không ra đánh, hoà không ra hoà này của triều đình Huế kéo dài đã có lợi cho Pháp. Lần thứ hai, sau khi kết thúc chiến sự ở Trung Quốc, điều ước Bắc Kinh được ký kết (7/2/1861) đã giải quyết những khó khăn, lúng túng của Pháp, chúng dồn toàn bộ lực lượng mở rộng cuộc chiến tranh, xâm lược Việt Nam. Sau khi đã chiếm được Gia Định, Pháp âm mưu chiếm lấy Nam Kỳ. Quân Pháp với vũ khí và trang bị hiện đại nên hành động nhanh. Ngày 23/3/1862, chúng chiếm xong ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ: Định Tường, Biên Hoà, Vĩnh Long. Dựa trên thắng lợi quân sự, Pháp buộc triều đình ký hiệp ước đầu hàng. Để cứu vãn quyền lợi giai cấp triều đình Huế vội vã ký hàng ước ngày 5/6/1862 nhượng đứt ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ và đảo Côn Lôn cho giặc Pháp. Về phía địch mặc dù đánh thắng và chiếm đất nhưng chúng nhận thấy sớm nghị hoà ngày nào hay ngày ấy. Thực tế trên chiến trường Nam Kỳ, Pháp không đủ binh lực để chiếm rộng ra và bình định các nơi đã chiếm được. Dư luận nước Pháp lúc đó đối với việc xâm lược Việt Nam vẫn chưa nhất trí. Cuộc nghị hoà đã được tiến hành rất nhanh chóng. Hoà ước được ký kết tại Sài Gòn giữa Bôna – đại diện cho chính phủ Pháp với hai phái viên triều đình là Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp. Hai người này là lực lượng mang tư tưởng chủ hoà nên đã nhanh chóng đáp ứng những yêu cầu của Pháp. Với điều ước Nhâm Tuất (5/6/1862), triều đình Huế không những đã mở lối thoát khỏi tình trạng bế tắc cho phép mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho Pháp giữ vững những vùng đất đã chiếm ở miền Đông Nam Kỳ, mở rộng xâm lược miền Tây Nam Kỳ. Mặt khác, với điều ước Nhâm Tuất triều đình Huế đã thoả hiệp và bắt tay với thực dân Pháp đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân Bắc Kỳ và Trung Kỳ, tạo thêm khó khăn nặng nề cho phong trào kháng chiến của nhân dân. Trong lúc triều đình Huế hoang mang dao động, ký hàng ước thì phong trào đấu tranh của quần chúng vẫn diễn ra sôi nổi. Trong năm 1862, phong trào chống Pháp dâng cao ở hầu hết các nơi, nhất là ở các tỉnh Định Tường và Gia Định. Điển hình có các cuộc nổi dậy của Trương Định, Đỗ Trinh Thoại, Nguyễn Thông, Phạm Văn Đạt, Hồ Huân Nghiệp, Võ Duy Dương…, đặc biệt là cuộc nổi dậy của Trương Định dưới ngọn cờ Bình Tây đại nguyên soái. Nghĩa quân đã phối hợp với Nguyễn Tri Phương tại mặt trận Gia Định gây cho địch nhiều khó khăn và tổn thất. Qua sự phân tích trên, ta thấy cơ hội cho nhân dân ta chống Pháp là có. Chính triều đình Huế đã bỏ lỡ cơ hội đó. Họ đã rũ bỏ trách nhiệm với dân tộc. Về phía phe chủ chiến vẫn một mặt tích cực đấu tranh trong triều đình. Mặt khác ra sức ủng hộ và hậu thuẫn cho phong trào đấu tranh của nhân dân. Còn Tự Đức vốn mang nặng tư tưởng chủ hoà nên đã làm ngơ trước mọi cơ hội kháng chiến của nhân dân ta. Sau khi hoà ước được kí kết, triều đình Huế lại mắc thêm sai lầm nữa. Họ không chủ động tấn công nhằm ngăn chặn bước tiến của quân Pháp mà lại mải mê thoả hiệp để chuộc đất. Tháng 8/1862, triều đình Huế cử phái bộ Phan Thanh Giản cầm đầu sang Pháp với nhiệm vụ xin sửa lại hoà ước 1862 và chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Xu hướng chung của đình thần là nhượng bộ nên chỉ thị cho phái bộ rất mơ hồ: “… phần lớn nên theo sở nguyện của họ. Ý muốn của Phan Thanh Giản trong chuyến này là “hoà nghị đã thành, có thể ung dung mà đưa nước nhà đến cõi phú cường”” [8; 26]. Theo đó, mục tiêu của Phan Thanh Giản là nhượng bộ để nước không mất rồi tranh thủ thời cơ mà chấn chỉnh nước nhà, tăng cường tiềm lực quốc gia để đấu tranh với Pháp. Phải thừa nhận rằng đây là một ý kiến không phải không có lý nhưng âm mưu của giặc Pháp là lớn và sâu, chúng đâu để cho triều đình thực hiện được ý nguyện canh tân đất nước, làm cho dân giàu nước mạnh để rồi chống lại chúng. Kết quả chuyến đi của Phan Thanh Giản là nhà Nguyễn không những không chuộc được đất mà còn bị Pháp gây sức ép với những điều khoản nặng nề hơn năm 1862. Chiếm xong 3 tỉnh miền Đông, Pháp mở rộng đánh chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Sáng ngày 20/6/1867, Pháp cho quân dàn trận trước thành Vĩnh Long đưa tối hậu thư đòi Phan Thanh Giản nộp thành. Kết quả là Phan Thanh Giản nộp thành Vĩnh Long cho Pháp và còn ra lệnh cho các quan cầm đồn 2 tỉnh còn lại ở miền Tây cũng phải nộp thành theo lệnh của Pháp ngày 24/6/1867 mà không có sự chống cự nào. Lấy xong 3 tỉnh miền Tây, thực dân Pháp cho người ra Huế báo sự việc đã rồi. Triều đình không hề phản ứng, mà chỉ xin đổi 3 tỉnh miền Tây mới mất để lấy lại tỉnh Biên Hoà nhưng không được Pháp chấp nhận. Còn Phan Thanh Giản thì uống thuốc độc tự vẫn vì lo sợ trách nhiệm với triều đình. Nhưng tại sao Phan Thanh Giản lại nộp thành nhanh như vậy? Sự thật thì khi giao nộp thành cho Pháp ông không chỉ hành động theo ý mình mà đã làm đúng ý Viện Cơ mật của triều đình. Như vậy, nguyên nhân để mất thành của Phan Thanh Giản là một phần bị chi phối bởi tư tưởng chủ hoà của triều đình, không có một đường lối minh bạch cho tình thế nước ta lúc đó. Trong thời kỳ này, phe chủ hoà với sự hậu thuẫn của Tự Đức vẫn đang chiếm ưu thế. Về phía phe chủ chiến dưới sự lãnh đạo của Tôn Thất Thuyết đang bí mật bố trí trận địa kinh thành Huế để chuẩn bị ngày đối phó với giặc Pháp. Sau khi để mất ba tỉnh miền Tây, phong trào kháng chiến trong nhân dân nổ ra mạnh mẽ. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh do Trương Quyền, Phan Tam, Phan Ngũ, Nguyễn Trung Trực.v.v. lãnh đạo. Các phong trào này kết thành cao trào chống Pháp, nhưng tất cả các cuộc kháng chiến đều bị thất bại do chính sách đàn áp đẫm máu của triều đình Huế. Điều này chứng tỏ lúc này triều đình hoàn toàn đối lập với nhân dân không đoàn kết thống nhất cùng nhân dân chống giặc ngoại xâm. Chiếm xong Nam Kỳ, thực dân Pháp thực hiện âm mưu chiếm cả Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Ngày 5/11/1873, đội tàu chiến của Gácniê ra tới Hà Nội. Trần Đình Túc được cử ra Bắc bố cáo cấm nhân dân buôn bán giao thiệp với người Pháp, vạch rõ trách nhiệm của Gácniê ra Bắc chỉ là xử lý và đuổi tên Đuypuy, việc xong là phải rút lui. Ngày 20/11/1873, Pháp nổ súng đánh thành Hà Nội. Nguyễn Tri Phương trực tiếp chỉ huy cuộc chiến đấu và hy sinh anh dũng. Hà Nội bị Pháp chiếm. Do tình hình cấp bách, triều đình cử quân ra Bắc nhưng xu hướng chủ yếu vẫn là điều đình thương thuyết. Mặc dù thành Hà Nội bị giặc chiếm, quan quân triều đình tan rã nhanh chóng, nhân dân Hà Nội vẫn tiếp tục duy trì cuộc chiến đấu. Tiêu biểu là cuộc phối hợp chiến đấu của quân triều đình do Hoàng Tá Viêm lãnh đạo với quân Cờ đen thiện chiến của Lưu Phúc Vĩnh đã làm nên chiến thắng Cầu Giấy lần thứ nhất ngày 21/12/1873. Kết quả là Gácniê tử trận, thành Hà Nội được trả lại triều đình Huế. Trong khi chiến thắng Cầu Giấy lần thứ nhất đang làm nức lòng nhân dân ta thì triều đình Huế lại bỏ lỡ cơ hội đánh Pháp, không dám hiệu triệu quan quân thừa thắng xông lên. Triều đình ra lệnh cho Hoàng Tá Viêm lui binh về Sơn Tây vì sợ quân Pháp trả thù. Kết quả là một điều ước được ký ngày 15/3/1874 tại Sài Gòn với những điều khoản rất có hại cho ta. Triều đình Huế chính thức thừa nhận chính quyền của Pháp ở cả 6 tỉnh Nam Kỳ, nền ngoại giao Việt Nam lệ thuộc Pháp. Phần đất còn lại bị Pháp chi phối cả nội trị và ngoại giao. Không thực hiện được đầy đủ âm mưu xâm lược Bắc Kỳ lần thứ nhất, thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị tiến công ra Hà Nội lần thứ hai vào năm 1882. Lấy cớ triều đình Pháp vi phạm hiệp ước 1874, chính phủ Pháp tăng cường quân đội cho Bắc kỳ. Chủ chương của thực dân Pháp lúc này là sự suy yếu của triều đình Huế để dùng lực lượng quân sự làm áp lực buộc phải công nhận nền bảo hộ Pháp trong cả nước. Chủ trương của triều đình Huế lần này cũng không khác gì lần trước. Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu một mặt tích cực tổ chức phòng thủ, mặt khác cấp báo về Huế, xin tăng viện. Kết quả là triều đình không tán thành, cho phòng thủ như vậy là không phải lúc, địch sẽ lấy cớ gây sự thêm. Sau khi chiếm thành Hà Nội lần thứ 2, thừa cơ triều đình Huế tự hãm mình trong thế bị động, thương thuyết, quân Pháp mở rộng đánh chiếm nhiều tỉnh vùng đồng bằng. Nhưng ngay từ ngày đầu đánh chiếm, quân Pháp gặp phải sức kháng cự mạnh mẽ của quân dân Hà Nội và khắp nơi ở Bắc Kỳ. Tiêu biểu là trận Cầu Giấy lần thứ 2 (19/5/1883). Chiến thắng Cầu Giấy lần thứ 2 làm cho quân dân cả nước vô cùng phấn khởi, sẵn sàng xông lên tiêu diệt địch. Nghĩa quân các nơi quy tụ ngày càng đông dưới ngọn cờ chống Pháp của các quan lại chủ chiến. Trong khi đó triều đình Huế vẫn tiếp tục hãm mình trong thế bị động thương thuyết, hạ lệnh triệt hết quân để tỏ rõ tín nghĩa với quân Pháp và với hoà ước Giáp Tuất (1874). Về phía Pháp, lợi dụng thời cơ thuận lợi nên đã đẩy mạnh ý đồ xâm chiếm toàn bộ nước ta. Giữa tháng 7/1883 Pháp tiến hành họp bàn kế hoạch đánh lên Huế. Muốn đánh Huế phải lấy pháo đài Thuận An. Thái độ và hành động của nhà Nguyễn đã thể hiện rõ sự suy yếu, mất lòng dân nhưng lại luôn ý thức đến quyền lợi của giai cấp mình. Do suy yếu mà sợ giặc mà mất lòng dân nên sợ cả dân. Có điều là sợ Pháp thì Nhà nước Nguyễn bắt tay hoà hoãn Pháp đi đến đầu hàng Pháp, phản bội quyền lợi dân tộc. Còn sợ dân thì nhà Nguyễn chống lại dân, từ bỏ vai trò lãnh đạo, bỏ rơi thậm chí ngăn cản, phá hoại phong trào đấu tranh chống Pháp của nhân dân. Giữa lúc thực dân Pháp chuẩn bị âm mưu đánh Huế thì ngày 17/7/1883 vua Tự Đức băng hà sau 35 năm trị vì. Triều đình Huế đang đứng trước một thách thức mới: nội bộ rơi vào tình trạng lục đục, chia rẽ trong vấn đề tôn vương do Tự Đức không có con. Tình hình này đã tạo thêm cơ hội thuận lợi cho Pháp. Vậy, trong quá trình cầm quyền Tự Đức là người đứng đầu chèo lái con thuyền dân tộc chống chọi với cơn bão táp xâm lược của thực dân Pháp. Nhưng tàu nhỏ, sóng lớn nên con thuyền đó đã bị chìm, nhưng nhân dân thì không chìm giống nó mà vẫn hiên ngang bất khuất trước thách thức kẻ thù. Trong suốt thời gian cầm quyền, Tự Đức là người đứng đầu phe chủ hoà trong nội bộ Huế nên đã hoàn toàn lấn áp phái chủ chiến. Hành động của ông không ngoài gì khác là luôn tự hãm mình trong thế bị động thương thuyết với Pháp để chuộc lại đất sau khi đã cắt nhượng cho Pháp trong mỗi lần thua cũng như thắng. Kết quả là đã đẩy nước ta ngày càng lệ thuộc vào Pháp. 2.2.2. Giai đoạn 1883 – 1888 từ sau khi Dục Đúc lên ngôi đến khi lãnh tụ phong trào Cần Vương bị bắt Chớp thời cơ thuận lợi, triều đình Huế đang rối ren khi vua Tự Đức qua đời, Pháp đánh thẳng vào Huế buộc triều đình đầu hàng. Sáng ngày 18/8/1883, hạm đội Pháp do đô đốc Courbet (Cuốc bê) chỉ huy tiến vào cửa biển Thuận An đưa tối hậu thư buộc triều đình dao tất cả các pháo đài phòng thủ bờ biển cho chúng. Quân ta kháng cự quyết liệt. Cuộc đấu pháo kéo dài 3 ngày liền. Tối chiều ngày 20/8, quân Pháp mới đổ bộ lên được Thuận An. Được tin Thuận An mất vào tay Pháp, triều đình vội xin đình chiến. Phụ chính đại thần Trần Tiễn Thành đến tìm giám mục Caspard (Cố Lộc) làm trung gian để điều đình. Harmand (Hác măng) đòi các đồn phải giải giới từ cửa Thuận An lên Huế. Sau đó Harmand đi ngay Huế buộc triều đình ký vào bảng điều ước đã được thảo sẵn gồm 27 khoản rất nặng. ở ngôi vua lúc này là Hiệp Hoà. Công việc của Viện Cơ mật hầu như chỉ do hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết đảm nhận (phái chủ chiến), phụ chính Trần Tiễn Thành (phái chủ hoà) vì hai chân đau buốt khó đi lại nên xin miễn không phải vào chầu. Mọi việc của Viện Cơ mật đều do hai phụ chính (phe chủ chiến) quyết định. Hai ông này chủ trương lấy tấn công làm phòng thủ ở cửa Thuận An Khi Thuận An thất thủ, vua liền ngả hoàn toàn theo phái chủ hoà vì lo sợ giặc. Lúc này trong các quan của Viện Cơ mật và Bộ binh, người chiếm ưu thế lại chính là Trần Tiễn Thành và bên cạnh ông ta còn có một người mang nặng tư tưởng chủ hoà khác ấy là Thượng thư bộ lại Nguyễn Trọng Hợp, người mới được Hiệp Hoà bổ sung vào Viện Cơ mật. Hiệp ước Harmand được kí kết ngày 25/8/1883. Theo điều ước này, Nam triều chính thức công nhận chịu quyền bảo hộ của nước Pháp, công việc ngoại giao do công sứ Pháp chủ trương, nước Pháp đặt một chức công sứ ở Huế, một chức Khâm sứ. Vua và các đại quan cai trị dân như cũ. Khoản 5 của hiệp ước định rằng: Nam triều phải cho thi hành việc đình chỉ mọi hoạt động quân sự, gọi các quan ở Bắc Kỳ về làm việc như cũ. Thuế thương chính nước Pháp thu, nước Pháp còn giữ việc ngoại giao của nước Nam. Xứ bộ Nam triều đề nghị nhượng cả xứ Bắc kỳ, từ tỉnh Ninh Bình ra bắc cho nước Pháp thuộc địa để lại cho nước Nam từ tỉnh Thanh Hoá cho đến hết tỉnh Bình Thuận tự chủ như cũ. Harmand không nghe buộc Nam Triều phải chấp nhận ký hoà ước. Điều ước Harmand được ký kết chứng tỏ triều đình không còn sức kháng cự. Hiệp ước là một nỗi đau xót nhục nhã nhất trong các hoà ước thừa nhận sự bảo hộ của Pháp. Sau khi hiệp ước được ký kết triều đình cử Nguyễn Trọng Hợp khâm sai đại thần ra Bắc Kỳ nhận lại các tỉnh, thành, triệt bãi các quan thứ, hiểu dụ nhân dân để thi hành thoả thuận với Pháp. Trong khi phe chủ hoà sớm kí hoà ước bắt tay với Pháp thì phe chủ chiến vẫn ra sức hoạt động, chuẩn bị lực lượng để chờ ngày sống mái với kẻ thù. Dựa vào quyền lực của mình, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết kiên quyết phế bỏ và trừ khử những ông vua và những thế lực thân Pháp. Chỉ trong vòng 6 tháng sau khi Tự Đức mất, liên tiếp có 3 ông vua bị phế, lập, đó là các vua Dục Đức, Hiệp Hoà, Kiến Phúc. Những ông vua này đều sớm có tư tưởng thân Pháp làm cản trở phe chủ chiến và phong trào đấu tranh của nhân dân. Đồng thời đệ nhất phụ chính đại thần Trần Tiễn Thành, người đúng đầu phe chủ hoà cũng bị giết. Lợi dụng sự sơ hở của hiệp ước Harmand (25/8/1883) không có khoản nào nói tới vấn đề quân sự của triều đình, Tôn Thất Thuyết đã cho tuyển mộ binh lính, thành lập và củng cố các sơn phòng. Tại kinh đô, Tôn Thấy Thuyết cho tổ chức và đổi mới việc huấn luyện hai đội quân Phấn Nghĩa và Đoàn Kết. Đội quân này do Đề đốc kinh thành Trần Xuân Soạn chỉ huy. Như vậy, Tôn Thất Thuyết sớm có tinh thần chuẩn bị để sẵn sàng đối phó với thực dân Pháp. Hành động loại bỏ phái chủ hoà của phái chủ chiến đã cho thấy trong nội các Huế chỉ còn phái chủ chiến cầm quyền và đối lập với Pháp. Không chỉ dừng lại ở đó, phái chủ chiến còn có những hành động khiến người Pháp tức giận. Ngày 31/7/1884, Kiến Phúc bị phế, Ưng Lịch lên ngôi lấy hiệu là Hàm Nghi mà không thông qua người Pháp. Người Pháp vô cùng tức giận nhưng không làm được gì. Hàm Nghi vẫn lên ngôi vua theo thể thức nước Nam. Tuy vậy, thực dân Pháp bắt đầu muốn loại bỏ phái chủ chiến nhằm đưa phái chủ hoà lên thay. Thực dân Pháp đang trên đà thắng thế nên ép triều đình Huế ký thêm một hoà ước nhằm có lợi cho Pháp. Hiệp ước Patơnốt được ký kết ngày 6/6/1884 gồm 19 khoản nhưng không nhẹ hơn hoà ước Harmand. Hoà ước này mở rộng quyền đóng quân của Pháp. Để bảo trợ Đại Nam Hoàng đế có trách nhiệm giữ lãnh thổ toàn hoả và dẹp hết các giặc, nước Pháp sẽ được đóng quân bất cứ chỗ nào nếu thấy xét là cần thiết. Hiệp ước Patơnốt đã đặt cở sở lâu dài và chủ yếu của Pháp ở Việt Nam. Đến đây giai cấp phong kiến Việt Nam đã hoàn toàn đầu hàng thực dân Pháp. Nhà nước phong kiến Việt Nam với tư cách là một nước độc lập có chủ quyền đã hoàn toàn sụp đổ. Nước Việt Nam đã trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Mặc dù triều Huế đã đầu hàng nhưng phái chủ chiến và nhân dân ta vẫn quyết tâm chống giặc đên cùng. Bên cạnh công tác tổ chức chuẩn bị chiến đấu lâu dài với kẻ thù, Tôn Thất Thuyết đã cho điều quân từ các nơi về đóng chặt kinh thành Huế, kể cả trong nội thành. Ông cho đặt 45 khẩu thần công ở trên mặt thành và ở đài Nam hướng về phía Toà sứ Pháp và đồn Mang Cá. Thấy thế thực dân Pháp lo ngại yêu cầu triều Huế phải loại bỏ ngay các khẩu pháo này. Mâu thuẫn giữa phái chủ chiến và thực dân Pháp ngày càng sâu sắc. Lực lượng Pháp coi Tôn Thất Thuyết là người cần loại bỏ để tránh hậu hoạ về sau. Quân Pháp muốn buộc Hội đồng phụ chính do Tôn Thất Thuyết đứng đầu phải từ chức để phái chủ chiến mất hỗ dựa trong triều đình. Được lệnh của Pari, Đờcuốcxy kéo theo lực lượng từ Hải Phòng vào thẳng Huế. Ý đồ của Đờcuốcxy là dùng áp lực quân sự loại trừ phái chủ chiến, giải tán quân đội và bắt cóc người cầm đầu phái chủ chiến Tôn Thất Thuyết. Đến Huế, Đờcuốcxy nhiều lần mời gặp Tôn Thất Thuyết nhưng đều bị từ chối. Trước thái độ bức bách của thực dân Pháp, Tôn Thất Thuyết chủ động tiến công Pháp. Ông ra lệnh gấp rút đào hào đắp lũy ngay trong thành Huế, chuyển gấp tài sản từ các kho ra Quảng Trị. Ông trực tiếp cùng Tôn Thất Lệ và Hồ Văn Hiển chỉ huy hai đạo quân Phấn Nghĩa, Đoàn Kiệt bố trí phòng thủ Hoàng thành. Nhằm giành thế chủ động, ngày 5/7/1885 Tôn Thất Thuyết quyết định tiến hành cuộc phản công quân Pháp ở Huế. Do bị bất ngờ, quân Pháp hoảng hốt bỏ chạy và co cụm trong doanh trại. Qua những giờ phút kinh hoàng quân Pháp ở đồn Mang Cá dưới sự chỉ huy của Pécnô bắt đầu tổ chức phản công quân ta. Cuối cùng Pháp chiếm được thành ngay ngày hôm đó. Lực lượng Tôn Thất Thuyết đã kịp thời rút ra ngoại thành. Trưa ngày 6/7/1885, Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi tới Quảng Trị. Sau sự kiện này trong nội bộ phái chủ chiến đã diễn ra cuộc phân hoá mới. Cuộc phân hoá cuối cùng, để rồi chỉ còn lại những phần tử trung kiên nhất cùng vua Hàm Nghi tiếp tục di chuyển ra Bắc tổ chức phong trào Cần Vương. Ngày 10/7/1885, vua đến Tân Sở. Đến ngày 17/7/1885 lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết phát dụ Cần Vương lần thứ nhất nhằm kêu gọi các văn thân, sĩ phu đứng lên cùng phe chủ chiến đánh đuổi giặc Pháp. Chiếu Cần Vương ban ra được nhân dân nhiệt tình hưởng ứng. ở Tân Sở một thời gian khoảng 4 - 5 tháng nghĩa quân quyết định chuyển căn cứ ra Quảng Bình rồi chủ trương tiến lên Thanh Hoá. Bởi căn cứ Tân Sở nhỏ hẹp dân nghèo lại bị cô lập nên khó có đường rút lui khi giặc Pháp tấn công. Thanh Hoá đất rộng người đông lại dễ dàng thông sang Trung Quốc khi có tình hình bất trắc xảy ra. Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết ra đến Hướng Hoá thì quân Pháp đã đổ bộ lên Đồng Hới. Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết lai phải lộn về Tân Sở lần thứ 2. Năm 1888, do sự phản bội của Trương Quang Ngọc, vua Hàm Nghi bị thực dân Pháp bắt. Đến đây phái chủ chiến trong triều đình coi như bị tan vỡ. Chỗ dựa của những người cầm đầu phái Cần Vương đã không còn những trọng quan trong triều đình nữa mà là quảng đại quần chúng yêu nước. Ngày 20/9/1885 tại sơn phòng ấu Sơn nhân danh vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết xuất chiếu Cần Vương lần thứ 2. Chiếu Cần Vương đã phản ánh tương đối đầy đủ và sâu sắc mâu thuẫn dân tộc. Nó có tác dụng thúc đẩy phong trào yêu nước của nhân dân, kịp thời vạch ra con đường chính nghĩa chống giặc đến cùng, đồng thời cũng nêu bật được ý thức tự chủ, kịp thời cô lập chính quyền bù nhìn mà Pháp thành lập ra ở Huế và ở các tỉnh. Hưởng ứng chiếu Cần Vương, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra suốt từ Bình Định ra Bắc. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, Ba Đình, Hũng Lĩnh và nhất cuộc khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng… Mặc dù thất bại nhưng phong trào đã nêu cao tinh thần yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc. Nó chứng tỏ phe chủ chiến không hề bị cô lập khi đối đầu với thực dân Pháp. Cuộc phản công của nhóm chủ chiến vào năm 1885 là sự vùng dậy cuối cùng của vương triều Nguyễn. Biến cố thất thủ kinh thành Huế (5/7/1885) đã mở đầu cho giai đoạn mới của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc: phong trào Cần Vương, đồng thời ưu thế lúc này đang thuộc về phái chủ hòa. Sau khi loại trừ được phái chủ chiến ra khỏi triều đình, thực dân Pháp dựng lên ông vua bù nhìn Đồng Khánh. Về phía Nguyễn Văn Tường ở lại triều đình sau vụ biến kinh thành Huế với một trách nhiệm nặng nề. Ông kiên trì thương thuyết nhưng do lực lượng yếu và phái chủ hòa chiếm ưu thế đã bắt tay chặt chẽ với Pháp nên Nguyễn Văn Tường đành bất lực, cuối cùng ông đã thất bại. 3. Một vài nhận định về kết quả và ý nghĩa Thất bại của phái chủ chiến đã kết thúc quá trình xâm lược của thực dân Pháp. Sau khi loại trừ được phái chủ chiến Pháp bắt đầu bước vào thời kì bình định Việt Nam. Từ đây, phái chủ hòa đã thắng thế và bắt tay với thực dân Pháp. Với chế độ phong kiến Việt Nam, kết quả của sự phân hóa này đã đưa chế độ phong kiến Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới - giai đoạn lệ thuộc và trở thành tay sai cho chính quyền thực dân cai trị nước ta. Đồng thời với thất bại phái chủ chiến đã chấm dứt thời kì chia rẽ trong nội các triều đình. Từ đây, triều đình Huế đi vào thống nhất nhưng đặt dưới sự chỉ đạo của thực dân Pháp. Sự thất bại của phái chủ chiến lúc bấy giờ là một tất yếu của lịch sử do con đường đấu tranh của lực lượng phong kiến không đủ sức giành thắng lợi trước âm mưu thâm độc và sức mạnh của chủ nghĩa thực dân phương Tây, thành trì phong kiến không chống nổi sức mạnh của đại bác tư bản. và bởi ngọn cờ đấu tranh phong kiến lúc này đã trở nên lạc hậu, không còn phù hợp với xu thế phát triển của dân tộc. Phái chủ chiến với sự hậu thuẫn của Pháp nên thắng thế. Mặc dù thất bại nhưng phong trào đã mang ý nghĩa to lớn và để lại nhiều bài học to lớn. Trước hết nó thể hiện tinh thần quyết tâm chống giặc của phái chủ chiến, họ đã nêu cao tinh thần yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc ta. Quyết tâm này đã làm thất bại kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của Pháp, gây ra cho chúng nhiều tổn thất nặng nề. Trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược, phái chủ chiến đã được hình thành và nhanh chóng trở thành chỗ dựa của quần chúng nhân dân. Đường lối chống giặc của phe chủ chiến đã vạch ra con đường chính nghĩa giải phóng dân tộc, phù hợp với truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta. Ngược lại, phái chủ hòa đã bộc lộ rõ bản chất phản động nên ngày càng đối lấp với nhân dân dẫn đến mâu thuẫn giữa nhân dân ta và thực dân Pháp cùng bè lũ tay sai phong kiến trở nên sâu sắc. Từ việc phân tích trên có thể rút ra kết luận về nguyên nhân dẫn đến sự hình thành luồng tư tưởng này: Thứ nhất, xuất phát từ nhận thức khác nhau của vua quan nhà Nguyễn phần lớn quan lại nhà Nguyễn đều nhận định sai lầm âm mưu thực dân Pháp xâm lược Việt Nam chỉ là muốn thông thương và truyền đạo. Chính sự ngây thơ mơ hồ này cũng là một nguyên nhân thúc đẩy triều đình Huế sớm có tư tưởng nghị hoà. Nhưng bên cạnh đó cũng có người nhận rõ dã tâm của thực dân Pháp nên kiên quyết chống giặc đến cùng Hai là, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam đúng vào lúc chế độ phong kiến đã đi vào giai đoạn suy tàn. Nước Việt Nam đã suy yếu về mọi mặt nên không còn khả năng chống đỡ trước sức tấn công của tư bản Phương Tây. Vì vậy mà nhà Nguyễn sớm có tư tưởng chủ hoà hoang mang sợ giặc. Cuối cùng dẫn tới thiếu quyết đoán, chỉ đạo đường lối sai lầm. Ba là, dân tộc ta sớm có truyền thống yêu nước chống ngoại xâm nên sự xâm lược của thực dân Pháp và sự phản bội của triều Nguyễn đã vấp phải phản ứng quyết liệt của nhân dân. Phe chủ chiến đã tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân mà gây áp lực với Pháp, cản trở phe chủ hoà câu kết với thực dân Pháp. Bốn là, trước sức tấn công của tư bản Pháp với tiềm lực hiện đại mạnh hơn ta nhiều lần thì sự phân hoá thành phe chủ chiến và chủ hoà dưới triều Nguyễn là một tất yếu của lịch sử. Đó là sự phân hoá của hai luồng tư tưởng: sợ giặc và kiên quyết chống Pháp đến cùng. Kẻ sợ giặc thì nhanh chóng đầu hàng còn người yêu nước thì chống Pháp đến cùng. Thực trạng phân hoá đó phản ánh đúng lịch sử cách mạng Việt Nam lúc đó. Khi đối mặt với cuộc chiến tranh của kẻ thù, triều đình luôn chậm trễ do dự và không có đường lối kháng chiến rõ ràng nên cuối cùng đầu hàng giặc từng bước. Nhà Nguyễn đã không thể phát động được một cuộc kháng chiến toàn dân toàn diện nên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội đánh thắng kẻ thù. III. KẾT LUẬN Qua sự phân hoá của hai luồng tư tưởng chủ chiến và chủ hoà đã cho thấy bức tranh phong kiến triều Nguyễn lúc giao thời. Đó là lúc triều đình rối ren lắm mối nhiều tơ còn người đứng đầu thì do dự bị động thiếu tính quyết đoán. Cuối cùng triều đình đã thất bại, chấp nhận chia sẻ quyền lợi với thực dân Pháp. Trong lịch sử Việt Nam không ít dẫn chứng về sách lược hoà trong chiến tranh mà không thiếu tính khôn khéo, sáng suốt, được sĩ dân cả nước đồng tình. Còn “hoà” của triều Tự Đức thực chất là thiên về đầu hàng, là từng bước nhượng bộ. Sự thất bại của triều Nguyễn đã để lại cho chúng ta nhiều bài học quý giá mà trước hết về phân hoá và nhận định đúng kẻ thù. Bài học này đã được chứng minh trong thực tế kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta sau này mà hiệp định sơ bộ (6/3/1946) và tạm ước (14/9/1946) là minh chứng cho thắng lợi đó. Bài học kinh nghiệm đắt giá hơn là bài học về đoàn kết và đại đoàn kết đã được lịch sử đúc rút qua nhiều biến cố trọng đại của dân tộc nhất là trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm. Tư tưởng đại đoàn kết đó đã được Hồ Chí Minh nối tiếp, vận dụng sáng tạo, linh hoạt và phát triển trên tầm cao mới, Người từng viết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công. Đó là những di sản quý giá đối với công cuộc xây dựng và phát triển nhà nước ta hiện nay.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxCuộc đấu tranh của hai phe chủ chiến - chủ hòa và những tác động đối với cuộc đấu tranh chống pháp xâm lược (1858 – 1888).docx