“Con đường kháng chiến”- Con đường tự chủ và sáng tạo của đảng ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước - Đoàn Thị Yến

KẾT LUẬN Đặt cách mạng Việt Nam những năm đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vào bối cảnh quốc tế lúc đó mới thấy được những khó khăn mà chúng ta phải trải qua: khó khăn xuất phát từ nội tình đất nước ( Giơneve đến trước năm 1960 được coi là thời kỳ đen tối của cách mạng Việt Nam), khó khăn do phải chống lại một kẻ thù lớn mạnh về quân sự lẫn kinh tế, hơn nữa lại gặp phải sự bất đồng trong mối quan hệ giữa các nước xã hội chủ nghĩa anh - em. Vượt lên trên tất cả những khó khăn, bất lợi đó, Đảng ta đã đề ra được đường lối cách mạng độc lập, tự chủ, độc đáo và sáng tạo chưa từng có trong tiền lệ lịch sử. Đó là điều kiện tiên quyết để dân tộc ta đánh Mỹ và thắng Mỹ

pdf6 trang | Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 355 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu “Con đường kháng chiến”- Con đường tự chủ và sáng tạo của đảng ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước - Đoàn Thị Yến, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đoàn Thị Yến Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 55 - 59 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 55 “CON ĐƯỜNG KHÁNG CHIẾN”- CON ĐƯỜNG TỰ CHỦ VÀ SÁNG TẠO CỦA ĐẢNG TA TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC Đoàn Thị Yến* Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta là một cuộc kháng chiến mang tầm vóc thời. Có được chiến thắng vĩ đại đó là do nhân dân Việt Nam đã nhận được sự giúp đỡ, ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới, (đặc biệt là sự giúp đỡ của hai đồng minh chiến lược Xô – Trung), trong đó quan trọng nhất là sự lãnh đạo của Đảng ta. Từ bối cảnh phức tạp trong quan hệ quốc tế những năm đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng ta đã đề ra được đường lối cách mạng kịp thời, đúng đắn. Đó là đường lối kết hợp đồng thời hai nhiệm vụ: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Nơi gặp nhau của hai cuộc cách mạng này đã tạo thành con đường kháng chiến. Đó là con đường đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta đến thắng lợi cuối cùng, thể hiện bản lĩnh độc lập, tự chủ và sáng tạo trong đường lối đối ngoại của Đảng. Từ khóa: cách mạng xã hội chủ nghĩa, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, kháng chiến chống Mỹ MỞ ĐẦU  “Nhiều hoạn nạn là nền dựng nước. Lắm lo toan là kế trị vì. Biến cố nhiều thì suy nghĩ sâu. Mọi việc lo trước sẽ thành công lớn”(Phú Chí Linh - Nguyễn Trãi). Đặc thù của một dân tộc nhỏ bé có hơn nửa đời mình phải ứng phó với chiến tranh xâm lược đã giúp cha ông chúng ta rút ra được những chiêm nghiệm quý báu như thế. Thế kỷ XX, dân tộc ta đã phải đương đầu với cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ - đế quốc hùng mạnh nhất thời đại. Do đó, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam là cuộc kháng chiến mang tầm vóc thời đại. Bởi vì đương đầu với đế quốc Mỹ, nhân dân Việt Nam không chỉ chiến đấu cho khát vọng hòa bình, độc lập tự do, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mình mà còn đảm nhận sứ mệnh quan trọng là đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Chính vì vậy mà cuộc kháng chiến của dân tộc ta đã nhận được sự ủng hộ rất lớn về chính trị, tinh thần, vật chất của các lược lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới, của các nước XHCN, đặc biệt là từ hai đồng minh chiến lược Xô - Trung. Tuy nhiên, không phải bao giờ, không phải lúc nào chúng ta cũng nhận được sự hậu thuẫn đó, nhất là trong bối cảnh quốc tế cuối năm 1959, đầu năm 1960 đầy phức tạp, khó khăn - thời điểm mà mâu thuẫn  Tel: 0916 050 720; Email: doanyen.dhkh@gmail.com Xô – Trung bắt đầu diễn ra gay gắt. Trong bối cảnh đó, Đảng ta đã kịp thời đề ra được con đường cách mạng độc lập, tự chủ và đầy sáng tạo, để từng bước đưa cách mạng nước ta đến thắng lợi cuối cùng. NỘI DUNG Từ mâu thuẫn Xô - Trung Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta diễn ra trong một bối cảnh mà quan hệ giữa các nước lớn trong phe xã hội chủ nghĩa có những bất đồng sâu sắc, gây bất lợi cho cách mạng nước ta. Liên Xô từ sau Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ XX (1952), N.Khơrútxốp chính thức lên nắm chính quyền, đưa ra kế hoạch nhanh chóng xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa cộng sản trong vòng 20 năm. Để thực hiện mục tiêu đó, N.Khơrútxốp chủ động đề nghị với Mỹ giảm bớt chạy đua vũ trang, giữ nguyên hiện trạng của châu Âu; chấp nhận sự tồn tại của hai nhà nước Tây Đức và Đông Đức; đồng thời N.Khơrútxốp đưa ra khẩu hiệu: “chung sống hòa bình” để tập trung lực lượng xây dựng kinh tế. Đối với phong trào cách mạng thế giới, Liên Xô chủ trương đấu tranh giành chính quyền bằng phương pháp hòa bình. Để hiện thực hóa đường lối “chung sống hòa bình”, N.Khơrútxốp chủ trương đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao nhằm thiết lập mối quan hệ gần gũi với các nước phương Tây: kí hòa Đoàn Thị Yến Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 55 - 59 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 56 ước Tây Đức; đón phó tổng thống Mỹ R.Níchxơn (7.1959); thăm Mỹ (9.1959). Mặt khác, N.Khơrútxốp còn tìm cách thuyết phục các Đảng Cộng sản ở các nước khác đi theo chiều hướng đó. Những việc làm đó của Liên Xô đã gặp phải sự phản ứng mạnh mẽ từ phía Trung Quốc. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn Xô - Trung trong giai đoạn này. Việt Nam trong những năm cuối thập niên 50 của thế kỷ XX không phải là khu vực được Liên Xô ưu tiên quan tâm. Nếu như một số nước châu Á (Ấn Độ, Inđônêxia), châu Phi (Ai Cập), châu Mỹ (Cuba) nhận được sự viện trợ của Liên Xô - vì Liên Xô coi những nước này là những đồng minh chiến lược quan trọng - thì với Việt Nam, Liên Xô tự đặt ví trí cho mình chỉ là một quan sát viên vì vai trò này giúp Liên Xô phục vụ cho chiến lược “chung sống hòa bình”, tránh đụng đầu với Mỹ. Hơn nữa, với tư cách là Chủ tịch Hội nghị Giơnevơ năm 1954 về vấn đề Đông Dương nhưng Liên Xô hầu như không có phản ứng gì trước sự phá hoại nghiêm trọng của Mỹ - Diệm với các điều khoản chính trị của Hội nghị. Đặc biệt với vị trí là thành viên thường trực Hội đồng bảo an, Liên Xô đề nghị kết nạp cả hai miền của Việt Nam vào Liên hiệp quốc. Đối với Trung Quốc: Việt Nam ngay từ đầu đã được xác định là một mắt xích trọng yếu để thực thi chiến lược của Bắc Kinh. Mặc dù Trung Quốc tự nhận mình là thủ lĩnh của “Thế giới thứ ba” nhưng Trung Quốc thực sự ở thế yếu trước cường quốc Xô – Mỹ. Để khẳng định vị thế “thủ lĩnh” của mình, một mặt Trung Quốc tích cực tham gia vào các diễn đàn chính trị quốc tế: giải quyết vấn đề Triều Tiên (1953), vấn đề chiến tranh Đông Dương (1954); mặt khác tập trung vào vấn đề xây dựng kinh tế với tham vọng sẽ đuổi kịp và vượt Liên Xô và Mỹ. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, Trung Quốc đã lên tiếng ủng hộ, và giúp đỡ. Việc giúp đỡ Việt Nam của Trung Quốc có thể xem như một đòn phản công vào người anh em Xô Viết khi đó đang chủ trương hòa hoãn với Mỹ và thân với phương Tây. Hơn thế nữa, giúp đỡ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ thực chất là Trung Quốc muốn tạo ra khu đệm an toàn ở biên giới phía Nam và đẩy chiến tranh ra xa vùng biên của mình. Việc Trung Quốc công kích Liên Xô đã đặt Việt Nam vào tình thế vô cùng khó xử trong mối quan hệ với Liên Xô. Hơn lúc nào hết, nhân dân Việt Nam cần đến sự ủng hộ, giúp đỡ rộng rãi của phe xã hội chủ nghĩa mà trong đó Liên Xô đóng vai trò trụ cột. Điều đó đã đặt Việt Nam vào tình thế phải chịu sức ép rất lớn trong hoàn cảnh vừa thiếu về thực lực, lại vừa có nhu cầu nhận được viện trợ, giúp đỡ toàn diện của cả Liên Xô và Trung Quốc. Nhất là khi mối quan hệ này thường xuyên bị tác động, chi phối với đế quốc Mỹ. Mâu thuẫn đó được Mỹ tận dụng triệt để để khai thác nhằm phá vỡ phong trào cộng sản quốc tế, đồng thời trên cơ sở đó sẽ hạn chế được sự giúp đỡ của những nước này đối với Việt Nam – một nước đang đối đầu với Mỹ. Việt Nam đương nhiên trở thành điểm nóng của thế giới. Là nơi tập trung những mâu thuẫn của hai hệ thống xã hội Đến con đường kháng chiến Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cách mạng Việt Nam đã kế tục được những thành quả quan trọng: Nửa đất nước là miền Bắc được giải phóng, xây dựng trở thành hậu phương lớn; Chính quyền dân chủ nhân dân ngày càng được củng cố vững chắc hơn; Nhân dân miền Nam đã tích lũy được những kinh nghiệm trong chiến tranh chống Pháp. Khó khăn lớn nhất của chúng ta là kẻ thù rất hùng mạnh. Mặt khác, các cường quốc xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Trung Quốc đang có những bất đồng về lợi ích quốc gia nên xảy ra mâu thuẫn ngày một gay gắt, gây bất lợi cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc. Trong điều kiện đó, Đảng ta đã tiến hành đường lối cách mạng độc lập, tự chủ. Đường lối đó bắt đầu được đề ra trong bản Đề cương cách mạng miền Nam (8 - 1958) của Lê Duẩn, được phát triển, bổ sung trong Hội nghị Trung ương lần thứ 15 của Ban chấp hành Trung ương (1959) và Đại hội lần thứ III (1960) của Đảng Lao động Việt Nam với những nội dung cơ bản: Đoàn Thị Yến Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 55 - 59 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 57 Thứ nhất: Cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược song song là cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai cuộc cách mạng này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Thứ hai: Đánh đổ chế độ Mỹ - Diệm, giải phóng miền Nam Việt Nam là nhiệm vụ chung vì lợi ích và yêu cầu chung của nhân dân cả nước. Thứ ba: Con đường phát triển cơ bản của cách mạng ở Miền Nam là khở nghĩa bạo lực giành chính quyền về tay nhân dân. Thứ tư: Miền Nam cần có Mặt trận dân tộc thống nhất riêng cho phù hợp với tính chất, nhiệm vụ của cuộc đấu tranh chống Mỹ và tay sai. Điều đáng chú ý là trong chuyến sang thăm Liên Xô và Trung Quốc của Việt Nam vào đầu năm 1960 của đồng chí Lê Duẩn, “Đảng Cộng sản Liên Xô đã không đồng tình với chủ trương của Đảng ta về con đường cách mạng miền Nam nêu trong Nghị quyết 15” [5; Tr.587]. Phía Liên Xô cho rằng chúng ta phải xây dựng miền Bắc vững mạnh để thống nhất đất nước bằng con đường hòa bình. Điều này thể hiện tâm lý ngại Mỹ trong quan hệ đối ngoại của Liên Xô. Khi phái đoàn của ta sang Trung Quốc, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Đặng Tiểu Bình cho biết Trung Quốc đồng ý phương hướng chung của Đảng về cách mạng miền Nam đề ra trong Nghị quyết 15 nhưng phía Trung Quốc đề nghị ta hạn chế hoạt động vũ trang mà chỉ nên phát triển đến quy mô đại đội”[5; Tr.587]. Tại thời điểm này, mâu thuẫn Xô – Trung đã bộc lộ những gay gắt. Từ đó cho phép ta đặt ra giả thiết liệu rằng việc đồng ý với phương hướng đó của Trung Quốc bắt nguồn từ thiện chí của Trung Quốc hay là Trung Quốc muốn tạo thế đối trọng với Liên Xô?). Đường lối đó tiếp tục được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (9- 1960) thông qua. Đại hội III của Đảng trên cơ sở phân tích kỹ vấn đề thời đại, tình hình thế giới, tính chất xã hội của mỗi miền đã quyết định: “Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến lược: Một là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước” [1;Tr.916]. Hai cuộc cách mạng đó diễn ra đồng thời có mối quan hệ mật thiết với nhau, thúc đẩy lẫn nhau để nhằm thực hiện mục tiêu: "Thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới".[1;Tr.512]. “Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 và Nghị quyết của Đại hội toàn quốc lần thứ III Đảng lao động Việt Nam đã hoàn chỉnh đường lối chống Mỹ cứu của cách mạng Việt Nam” [2;Tr.118]. Sự sáng tạo của Đảng trong giai đoạn 1959 - 1960 là đã đề ra đường lối thực hiện đồng thời 2 cuộc cách mạng ở 2 miền Nam - Bắc: Miền Bắc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Xét về mặt lý luận (học thuyết Mác - Lênin) đã chỉ ra cho chúng ta thấy: các cuộc cách mạng là sự kế tiếp lẫn nhau. Sau khi hoàn thành căn bản cuộc cách mạng này sẽ tiến lên thực hiện cuộc cách mạng kế tiếp sau nó. Cuộc cách mạng trước đó sẽ tạo ra những mầm mống ở giai đoạn cuối cho cuộc cách mạng sau đó, cuộc cách mạng sau đó sẽ hoàn thành nhiệm vụ của cuộc cách mạng trước. Tiến trình cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến 1954, về cơ bản, đại thể là được soi sáng bởi nền tảng, lý luận nêu trên. Nhưng đến năm 1954, một thực tế lịch sử hoàn toàn mới được ra đời với cách mạng Việt Nam cả về lý luận lẫn thực tiễn: nửa nước ta là miền Bắc đã căn bản hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nửa nước ta là miền Nam chưa hoàn thành nhiệm vụ cơ bản của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Lý luận về cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin là phải thực hiện hai nhiệm vụ ở hai giai đoạn, hai thời gian khác nhau. Nhưng Việt Nam trong giai đoạn này lại thực hiện song song, đồng thời hai cuộc cách mạng đó. Đoàn Thị Yến Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 55 - 59 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 58 Nét độc đáo của cách mạng Việt Nam là: xét về mặt toán học hai đường thẳng song song không bao giờ gặp nhau. Tuy nhiên, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc thời kỳ 1954 - 1975 đã gặp nhau tại những điểm chung. Những điểm giao nhau của hai cuộc cách mạng đó đã tạo thành con đường kháng chiến. Chính sự gặp gỡ đó đã tạo nên sức mạnh to lớn không phải cấp số cộng mà là cấp số nhân để dân tộc ta đánh Mỹ và thắng Mỹ. Nét sáng tạo độc đáo trong đường lối kháng chiến chống Mỹ của Đảng Theo quy luật của chiến tranh, ai mạnh hơn người đó sẽ chiến thắng. Nhưng chiến tranh còn có một quy luật khác: ai thắng người đó mạnh hơn. Khi dân tộc ta bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, so sánh lực lượng, tiềm lực nhất là tiềm lực về kinh tế, quân sự, kỹ thuật, ta non kém hơn nhiều so với đế quốc Mỹ. Nhưng kết quả là ta đã thắng Mỹ. Sức mạnh to lớn mà chúng ta có được để thắng Mỹ trước hết xuất phát từ đường nét sáng tạo và độc đáo của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này. Nếu như trong cách mạng tháng Tám 1945, chúng ta chỉ cần sử dụng một hình thức bạo động của cách mạng là khởi nghĩa quần chúng. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) là chiến tranh thì đến cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam chúng ta phải huy động sức mạnh tổng hợp của cả hai hình thức bạo lực cách mạng: khởi nghĩa và chiến tranh; sức mạnh của cả hai cuộc cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Đó là chưa kể đến truyền thống dân tộc, tinh thần dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Trong cùng thời điểm lúc bấy giờ, nhiều nước có hoàn cảnh bị chia cắt như nước ta: Nước Đức bị chia cắt làm hai miền Đông - Tây với hai chế độ chính trị khác nhau (1949). Tây Đức theo thể chế tư bản. Những nhà lãnh đạo của Đông Đức nhận được sự hậu thuẫn của các nhà lãnh đạo Liên Xô, không chủ trương thống nhất Đức mà chủ trương chia cắt để đấu tranh đòi phương Tây công nhận sự tồn tại của Cộng hoà dân chủ Đức. Các nhà lãnh đạo đã không thấy được sự thống nhất là đòi hỏi khách quan của lịch sử. Phải đợi đến năm 1989, khi bức tường Béc - lin sụp đổ Đông Đức sáp nhập vào Tây Đức. Kết quả thống nhất thuộc về Tây Đức. Về vấn đề Triều Tiên: Sau chiến tranh Triều Tiên (1953), vĩ tuyến 38 được lấy làm ranh giới chia đôi đất nước. Những nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên chủ trương dùng chiến tranh để giải phóng Nam Triều Tiên và được sự hậu thuẫn của Liên Xô. Mỹ nhận được sự hậu thuẫn của Liên hiệp quốc, cùng đồng minh can thiệp trực tiếp vào Triều Tiên khi quân Bắc Triều Tiên đánh sát biên giới phía Nam. Được sự hậu thuẫn của Liên Xô, Bắc Triều Tiên đánh trả. Kết quả của nó cuối cùng vẫn là sự trở về mốc biên giới ban đầu, trong khi đó sự hi sinh, mất mát cho cuộc chiến để sáp nhập lãnh thổ hai miền là quá lớn. Sự thật thì Nam Triều Tiên ngày càng giàu có, trở thành thanh nam châm lôi hút miền Bắc - ngược lại những gì mà miền Bắc mong muốn. Vấn đề Trung Quốc: Đài Loan được tách ra khỏi Trung Quốc do âm mưu của Tưởng Giới Thạch. Trung Quốc đại lục muốn dùng không quân, lục quân để giải phóng nhưng thất bại do Đài Loan nhận được sự hậu thuẫn của Mỹ. Đặng Tiểu Bình đưa ra lý luận: một đất nước, hai chế độ: cơ sở để Trung Quốc thu phục Đài Loan, tuy nhiên sự thu phục Đài Loan khác với Ma Cao và Hồng Kông nên kết quả đã không như sự mong muốn của Đại lục. Từ những dẫn chứng lịch sử cụ thể trên, ta kết luận: Nếu như Triều Tiên, Trung Quốc dùng một phương thức bạo lực cách mạng thì Việt Nam sử dụng cả hai phương thức: khởi nghĩa và chiến tranh, huy động sức mạnh của cả hai cuộc cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Điều đó một lần nữa khẳng định bản lĩnh chính trị vững vàng và sự sáng tạo của Đảng ta trong sự nghiệp thống nhất nước nhà. KẾT LUẬN Đặt cách mạng Việt Nam những năm đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vào bối cảnh quốc tế lúc đó mới thấy được những khó khăn mà chúng ta phải trải qua: khó khăn xuất phát từ nội tình đất nước (sau Hiệp định Đoàn Thị Yến Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 55 - 59 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 59 Giơneve đến trước năm 1960 được coi là thời kỳ đen tối của cách mạng Việt Nam), khó khăn do phải chống lại một kẻ thù lớn mạnh về quân sự lẫn kinh tế, hơn nữa lại gặp phải sự bất đồng trong mối quan hệ giữa các nước xã hội chủ nghĩa anh - em. Vượt lên trên tất cả những khó khăn, bất lợi đó, Đảng ta đã đề ra được đường lối cách mạng độc lập, tự chủ, độc đáo và sáng tạo chưa từng có trong tiền lệ lịch sử. Đó là điều kiện tiên quyết để dân tộc ta đánh Mỹ và thắng Mỹ. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [2]. Nguyễn Đình Bin (Cb) (2002), Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [3]. Một chặng đường nghiên cứu Lịch sử (2001 - 2006), Nxb Thế giới, Hà Nội. [4].Vũ Dương Ninh (2007), Việt Nam - Thế giới và hội nhập, Nxb Giáo dục, Hà Nội. [5].Việt Nam trong tiến trình thống nhất đất nước, đổi mới và hội nhập (2005), Nxb Đại học quốc gia, HN. SUMMARY “RESITANCE WAY”- THE INDEPENDEN, CREATIVE PATH OF VIETNAM COMMUNIST PARTY ON THE STRUGGLE AGAINST THE US ARMY Doan Thi Yen College of Sciences - TNU People’ Vietnamese resistance against US Army is stature agent. Vietnam has that great victory because we received assistance and support of progressive forces in the world, (especially from the help of two strategic allies – Soviet Union and China). But the most important is the leadership of the Vietnam Communist Party (VCP). From the complex context of International Relations on the first years of the struggle against the US Army, VCP has proposed the revolutionary way in time and properly. That was the way the contract two revolutions together: the socialist revolution in the North and the revolutionary people's democratic nation in the South. Where the two revolutions meet to make resistance way. That way to take People’ Vietnamese resistance against US Army to the final victory; showing consistent bravery politics of VCP. Key words: the resistance against US Army, the socialist revolution, revolutionary people's democratic nation Đoàn Thị Yến Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 55 - 59 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 60

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbrief_32771_36611_2282012141145559_0408_2052669.pdf