Hiệu quả do PP dự án mang lại cho HS là vô cùng to lớn, đặc biệt việc hình thành cho HS cuối cấp các “kĩ năng mềm” – những kĩ năng thật sự cần thiết cho ngưỡng cửa vào đời; môn Địa lí, về bản chất khoa học, về chương trình, về nội dung là một môn học hội đủ các điều kiện để ứng dụng PP dự án, trong đó điển hình nhất là nội dung, chương trình Địa lí 12; việc giảm tải chương trình, yêu cầu đổi mới PPDH và hình thức kiểm tra đánh giá về chất, cơ sở vật chất đã được cải thiện tạo điều kiện và động cơ tốt cho việc dạy và học PP dự án.
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cơ sở khoa học của việc vận dụng phương pháp dự án vào dạy học Địa lí 12, THPT, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP
DỰ ÁN VÀO DẠY HỌC ĐỊA LÍ 12, THPT
NGUYỄNTHỊ KIM LIÊN
1. Giới thiệu
Cho đến nay, trên thế giới và tại Việt Nam, đã có khá nhiều công trình tìm hiểu, nghiên cứu về PP dự án. PP dự án đã được ứng dụng rộng rãi tại các trường đại học và phổ thông ở các nước phát triển. Giáo dục Việt Nam cũng được tiếp cận với PP dự án từ nhiều cách thức, bằng nhiều con đường, như thông qua dự án giáo dục Việt Bỉ, chương trình giáo dục của các tập đoàn Microsoft, Intel, Nhưng có thể nói, việc vận dụng PP dự án trong dạy học nói chung và trong dạy học Địa lí và Địa lí 12 nói riêng còn rất hạn chế, gần như chỉ mới dừng lại ở góc độ thực nghiệm cho một vài công trình nghiên cứu.
Có thể áp dụng PP dự án ở tất cả các môn học các bậc học hay chỉ ở một số môn, một số cấp, lớp? PP dự án chưa được áp dụng rộng rãi trong giáo dục Việt Nam vì sự không tương thích hay vì chưa hội đủ các điều kiện? Và tại sao phải là PP dự án? Bài viết sẽ cố gắng phần nào giải quyết các câu hỏi trên, đặc biệt xác định các cơ sở lí luận và thực tiễn cho việc ứng dụng PP dự án trong dạy học địa lí, mà địa lí 12 được xem như một trường hợp điển hình.
2. Một số nét cơ bản về Phương pháp dự án
2.1. Khái niệm về dự án và phương pháp dự án
Thuật ngữ dự án - tiếng Anh Project, có nguồn gốc từ tiếng la tinh Proicere – được hiểu theo nghĩa phổ thông là một đề án, một dự thảo, một kế hoạch được thực hiện nhằm đạt mục đích đề ra. Khái niệm dự án được sử dụng phổ biến trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội: sản xuất, kinh doanh, nghiên cứu khoa học, quản lí xã hội . Khái niệm dự án đã đi từ lĩnh vực kinh tế - xã hội vào lĩnh vực giáo dục – đào tạo ngoài ý nghĩa các dự án phát triển giáo dục, còn được sử dụng như một PP dạy học [3].
PP dự án - Project Method, còn được gọi là Dạy học dự án /Dạy học theo dự án/Dạy học dựa trên dự án – Project Based Learning được hiểu như một PP dạy học hướng học sinh đến việc tiếp thu tri thức và kĩ năng thông qua quá trình giải quyết một bài tập tình huống, được gọi là một dự án (project) mô phỏng môi trường các em đang sống và sinh hoạt [6].
Dạy học dự án là một PP phức hợp [2] trong đó dưới sự hướng dẫn của GV người học sẽ thực hiện một nhiệm vụ phức hợp, có sự kết hợp giữa lí thuyết và thực tiễn, thực hành. Người học được yêu cầu thực hiện nhiệm vụ này với sự tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch, đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện.
Trong cách học theo dự án, HS học tập theo nhóm để giải quyết những vấn đề có thật trong cuộc sống (authentic), những vấn đề ấy gắn với chương trình học (curriculum – based) và có phạm vi kiến thức liên môn (interdisciplinary). HS sẽ hóa thân vào các vai thuộc các ngành nghề khác nhau trong cuộc sống, tham gia giải quyết những vấn đề có thật thuộc lĩnh vực các ngành nghề ấy. GV định hướng, gợi ý các vai có nội dung gắn với nội dung bài học cho HS và hỗ trợ HS hoàn thành tốt các vai trò ấy. GV tạo điều kiện và hướng dẫn HS sử dụng các nguồn tư liệu như: sách giáo khoa; internet; CD hoặc DVD; sách, báo và thậm chí, trao đổi với các chuyên gia. Dự án có thể chỉ bó hẹp trong phạm vi lớp học, trường học trong 1 tiết, 1 tuần hoặc 2 tuần; đồng thời dự án cũng có thể vượt ra ngoài phạm vi lớp học, trường học và kéo dài trong một tháng, một học kì hoặc cả khóa học [6].
2.2 Đặc điểm cơ bản của dạy học dự án
- Tính phức hợp của nhiệm vụ học tập: Nhiệm vụ học tập trong dạy học theo dự án không giới hạn trong một đơn vị kiến thức của mỗi bài trong một môn học mà có thể xuyên suốt giữa các bài, giữa các chương trong một giáo trình, giữa các giáo trình trong một bậc học và giữa các môn học với nhau. Ví dụ như khi thực hiện một dự án Địa lí về Biến đổi khí hậu –, HS lớp 12 có thể vận dụng những kinh nghiệm, kiến thức Địa lí đã được học ở các lớp dưới về Thời tiết, Khí hậu (lớp 6), Những nguyên nhân làm thay đổi khí hậu (lớp 10), Môi trường và sự phát triển bền vững (lớp 10), Biến đổi khí hậu (lớp 11) đồng thời có thể liên kết kiến thức Vật lí, Hóa học, Sinh học, . để giải quyết vấn đề.
- Sự kết hợp giữa lí thuyết và thực hành: Trọng tâm của dạy học theo dự án là tạo điều kiện cho HS vận dụng các tri thức lí thuyết vào hoạt động thực tiễn thông qua đó kiểm chứng và mở rộng kiến thức lí thuyết đồng thời bổ sung kinh nghiệm thực tiễn. Vì vậy, HS có điều kiện để thực hành những lí thuyết đã học và thông qua kết quả đạt được trong hoạt động thực tiễn, HS có thể rút ra được những nhận định, những kết luận của vấn đề nghiên cứu. Trong dự án Biến đổi khí hậu như đã đề cập ở trên, trên cơ sở tư liệu thu thập được, HS thường xuyên vận dụng các kiến thức về cách đọc bảng Số liệu thống kê, Sơ đồ, Biểu đồ, Bản đồ . để phân tích, rút ra được những nhận định về tình hình biến đổi khí hậu trên thế giới, trong nước hoặc của một địa phương cụ thể. Ngoài ra HS còn có thể chuyển kết quả nghiên cứu của mình thành biểu đồ, bản đồ trong các sản phẩm cuối cùng. Như vậy kĩ năng Địa lí của HS thường xuyên được rèn luyện và phát triển.
- Tạo ra sản phẩm: Sản phẩm là yêu cầu bắt buộc khi kết thúc các dự án. Sản phẩm được tạo ra trong quá trình HS thực hiện dự án. Đó là kết quả của hoạt động và những kết quả ấy có thể công bố được. Sản phẩm có thể là những đồ vật cụ thể, chẳng hạn: một cây thông Noel, một bộ sưu tập thời trang, được làm từ rác thải trong dự án Địa lí về vấn đề Môi trường và Phát triển bền vững; cũng có thể là những sản phẩm phi vật thể như thực hiện một buổi biểu diễn thời trang kêu gọi bảo vệ môi trường.
- Tính tự tổ chức và tự chịu trách nhiệm của người học: Đây là một điểm đặc trưng của phương pháp dự án, thể hiện xuyên suốt quan điểm dạy học hướng vào người học. Trong quá trình thực hiện dự án, HS cần được tạo điều kiện để “tự định hướng” trong tất cả các giai đoạn, đặc biệt trong việc xây dựng kế hoạch và thực hiện dự án. Trong chừng mực nhất định, HS còn được tham gia xác định mục đích dự án và đánh giá kết quả của dự án. HS cần được rèn luyện kĩ năng “tự đánh giá” - Kĩ năng “Siêu nhận thức”- trong suốt quá trình làm dự án để hoàn thiện sản phẩm. Từ đó, cùng với giáo viên, các nhóm HS có thể tham gia đánh giá sản phẩm của nhau, đặc biệt trong giai đoạn kết thúc dự án – cụ thể ở thời điểm các nhóm trình bày sản phẩm.
- Dạy học dự án gắn liền với hoàn cảnh: Các đề tài của dự án cần phải xuất phát từ thực tế, từ hoàn cảnh gần gũi với cuộc sống, đó là những vấn đề cần phải giải quyết và phù hợp với điều kiện và khả năng của HS. Trở lại ví dụ về dự án Biến đổi khí hậu, đề tài này cần gắn liền với tình hình thực tiễn của địa phương. Chẳng hạn HS ở Đà Lạt tìm hiểu hiện trạng và nguyên nhân của biến đổi khí hậu ở Đà Lạt, tác động của nó đến đời sống của người dân địa phương và hoạt động du lịch; trên cơ sở đó và trong chừng mực nhất định, đề xuất giải pháp.
- Định hướng vào hứng thú của học sinh: Xuất phát từ những vấn đề thực tiễn, đề tài của dự án tạo được hứng thú và giúp phát triển động cơ học tập của HS. Hứng thú của HS cũng cần phải được duy trì và phát triển trong suốt quá trình thực hiện dự án. Vì vậy, vai trò theo dõi, giám sát, hỗ trợ đúng lúc và đúng thời điểm của GV cực kì quan trọng.
- Dự án có ý nghĩa thực tiễn xã hội: Việc thực hiện các dự án có thể mang lại sự thay đổi có ý nghĩa trong đời sống xã hội và trong bản thân của mỗi HS, chẳng hạn với dự án : Lao động và việc làm (Đia lí 12), sau khi tìm hiểu nhu cầu về lao động của địa phương trong mối tương quan với nhu cầu lao động của cả nước và trên thế giới; trên cơ sở xác định sở trường, sự hứng thú, niềm đam mê và điều kiện của bản thân, HS có thể có những hướng đi, những quyết định đúng đắn trong việc lựa chọn nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp phổ thông, góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội, .
- Việc học tập mang tính xã hội: Tổ chức cho HS làm việc nhóm là hình thức phổ biến trong dạy học dự án. Trong quá trình làm việc nhóm, các cá nhân trong nhóm tương tác với nhau để cùng thực hiện và hoàn thiện sản phẩm của nhóm. Đồng thời giữa các nhóm cũng thường xuyên chia sẻ, đánh giá, đóng góp ý kiến cho nhau để nâng cao chất lượng sản phẩm. GV, với vai trò người tổ chức, chỉ đạo, tư vấn, hỗ trợ, tạo điều kiện, sẽ thường xuyên phối hợp nhịp nhàng với nhóm. Ngoài ra, các nhóm còn có thể liên kết với các GV khác trong nhà trường, với các chuyên gia trong xã hội về lĩnh vực nhóm đang tìm hiểu để nhận được sự tư vấn chuyên nghiệp và kịp thời, . Dễ dàng nhận thấy rằng tính chất “xã hội” của học tập dự án được hình thành và phát triển, qua đó HS được rèn ý thức và PP cùng cộng tác trong lao động.
Tính chất xã hội còn được thể hiện rõ qua việc HS “đóng vai” trong quá trình thực hiện dự án. HS phải “hóa thân” vào các vai có thật trong cuộc sống. Trong dự án Lao động và việc làm, HS có thể vào vai các chuyên viên tư vấn về nhu cầu lao động, hoặc các nhà tâm lí giúp cho những HS sắp bước vào đời nhận biết được chính xác nhu cầu, hứng thú, sở trường, niềm đam mê của bản thân từ đó xác định được nhóm công việc phù hợp, Việc đóng vai ngoài ý nghĩa giúp cho HS nghiên cứu sâu và sát với thực tiễn hơn một vấn đề học tập, còn giúp HS bước đầu tiếp cận với những công việc thật ngoài xã hội, qua đó góp phần giúp HS định hướng nghề nghiệp.
Ngoài ra, tính chất xã hội trong dạy theo dự án còn thể hiện ở khả năng tận dụng những thành tựu mới nhất về khoa học và công nghệ trong xã hội, đặc biệt những thành tựu về CNTT. CNTT là nguồn lực hỗ trợ tối quan trọng, tối cần thiết trong suốt quá trình thực hiện dự án. Có thể nói, khó lòng hình dung, việc thiết kế và thực hiện các dự án dạy học trong thế kỉ 21 lại tách biệt hoàn toàn với CNTT, đặc biệt là Internet.
2.3. Qui trình của dạy học theo dự án:
Nhìn chung, dạy học theo dự án có thể được triển khai theo các bước sau:
- Xác định vấn đề trong thực tiễn: Trên cơ sở nội dung chương trình học, GV gợi ý và tạo điều kiện cho HS phát hiện những vấn đề có liên quan đến nội dung môn học trong cuộc sống. Ví dụ: Với bài Lao động và việc làm – Địa lí 12, ban cơ bản, GV có thể yêu cầu HS tìm hiểu các vấn đề về nguồn lao động và nhu cầu lao động, vấn đề việc làm và hướng giải quyết việc làm ở một địa phương cụ thể,
- Phát hiện dự án: Trên cơ sở những vấn đề đã phát hiện trong thực tiễn, GV gợi ý, hướng dẫn HS xác định dự án có thể thực hiện, cụ thể là xác định tên đề tài, và dự kiến các vai cần đóng trong dự án. GV cũng có thể giới thiệu một số đề tài để HS lựa chọn.
- Xác định mục tiêu dự án: Dựa vào tên đề tài và các vai có liên quan trong xã hội, GV hỗ trợ HS xác định mục tiêu của dự án. Mục tiêu dự án phải thể hiện mục tiêu chương trình nội dung môn học, liên quan đến hoàn cảnh thực tiễn của xã hội đồng thời phát triển các kĩ năng của thế kỉ 21.
Các khâu xác định vấn đề thực tế, phát hiện đề tài và xác định mục tiêu dự án có thể do GV thực hiện. Tuy nhiên với quan điểm dạy học hướng vào người học, tạo điều kiện cho HS cùng tham gia sẽ tốt hơn. Dù thực hiện theo cách nào thì GV vẫn luôn là người “cầm chịch” trong các giai đoạn đầu tiên; luôn chỉ đạo, điều chỉnh kịp thời và đúng lúc.
- Lập kế hoạch thực hiện dự án: GV định hướng cho HS lập kế hoạch thực hiện dự án. Phân nhóm và xác định nhóm trưởng. Các nhóm xác định những công việc cần làm, tiến trình thực hiện, nguồn tài nguyên cần khai thác, .... trên cơ sở đó phân công công việc cụ thể cho từng thành viên trong nhóm. Đặc biệt cần khuyến khích tính tự lực của HS trong giai đoạn lập kế hoạch.
- Hiện thực hóa/triển khai dự án: Dưới sự đôn đốc, chỉ đạo, hỗ trợ của GV các thành viên trong nhóm thực hiện công việc theo kế hoạch đã đề ra. HS thực hiện song song các hoạt động trí tuệ và thực hành. Hai hoạt động này được tiến hành đồng thời hoặc xen kẻ qua lại lẫn nhau. Trong quá trình đó, thông tin mới được tạo ra và sản phẩm dự án dần hoàn thiện.
- Trình bày và đánh giá kết quả dự án: GV tổ chức cho HS trình bày kết quả dự án. Dự án thường được trình bày giữa các nhóm HS trong một lớp. Dự án có thể được giới thiệu trong trường học, với cha mẹ HS. Dự án cũng có thể được giới thiệu rộng rãi trong xã hội qua các phương tiện thông tin. Song song với việc trình bày sản phẩm, thường trong phạm vi một lớp học, GV và HS cùng đánh giá quá trình thực hiện cũng như kết quả và kinh nghiệm đạt được. Từ đó rút ra kết luận và định hướng cho các dự án tiếp theo.
Việc phân chia trên đây chỉ có ý nghĩa tương đối. Trong thực tế các giai đoạn có thể xen kẽ và thâm nhập lẫn nhau. Cũng tương tự như vậy với các đặc điểm của dạy học dự án, chúng có mối quan hệ chặt chẽ, mỗi đặc điểm có thể thể hiện trong tất cả các giai đoạn; hoặc trong một giai đoạn, có thể chứa đựng nhiều đặc điểm. Cũng như các PPDH khác, PP dự án không phải là một PPDH vạn năng, chỉ thích hợp với một số đề tài nhất định. Vì vậy việc vận dụng cần phải hết sức linh hoạt. Không nhất thiết mọi đặc điểm của dự án đều phải và đều có thể thực hiện mà áp dụng tùy từng đề tài, tùy hoàn cảnh cụ thể [2].
2.4. Khái quát về quá trình phát triển của phương pháp dự án
Mặc dù vẫn chưa có câu trả lời thật chính xác về tác giả và thời điểm ra đời của thuật ngữ PP dự án, nhưng các nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng khái niệm dự án đã được sử dụng từ lâu trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo trên thế giới, đặc biệt ở các nước phát triển, bắt đầu từ nước Pháp và Ý (thế kỉ 17, 18), từ đó lan rộng ở Đức và một số nước châu Âu và ở Mỹ (khoảng giữa thế kỉ 19). PP dự án được ứng dụng khá rộng và khá hiệu quả ở các nước phương Tây từ cuối thế kỉ 19 và về sau ngày càng phát triển. Cụ thể, ở Đức giai đoạn 1895 – 1933 các nhà sư phạm đã phát triển quan điểm dạy học mới liên quan đến ứng dụng PP dự án ở trường đại học và phổ thông. Họ cho rằng cần phải thực hiện trên thực tế cách học tập mới với điểm trọng tâm là thực hiện các dự án. Các nhà sư phạm nổi tiếng lúc bấy giờ: Georg Kochenteiner, Hugo Gaudig, Berthold Otto, Petersen là những nhà tiên phong về PP dự án. Tại Mỹ, dạy học dự án đã được vận dụng ở Học viện kĩ thuật Massachuset, sinh viên tại học viện phải thực hiện các công việc gắn với thực tiễn như: lập kế hoạch, nghiên cứu nhu cầu thị trường, tìm hiểu điều kiện thực tế, . để quyết định các mẫu thiết kế máy móc chất lượng tốt nhằm đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng. Vào những năm đầu của thế kỉ 20, các nhà sư phạm Mỹ đã có nhiều đóng góp to lớn cho việc xây dựng cơ sở lí luận của PP dự án, trong đó nổi bật lên vai trò của John Dewey (1859 – 1952), được xem là cha đẻ của những bài học theo PP dự án. Châm ngôn hành động của ông là “Learning by doing” - học thông qua làm thực tế. Năm 1918, Kelpatrick (1871 – 1965), “hậu duệ” xuất sắc của John Dewey đã viết bài báo với tiêu đề “Phương pháp dự án” gây tiếng vang trong các cơ sở đào tạo giáo viên và các trường học. Ông và các nhà nghiên cứu của trường đại học Colombia đã có những đóng góp lớn để truyền bá phương pháp này trong các giờ học, qua các hội nghị. Kelpatrich cho rằng dự án là một hoạt động có mục đích cụ thể, có cam kết với tất cả những người thực hiện và diễn ra trong môi trường xã hội. Makarenko, nhà sư phạm xuất sắc của Nga (Liên xô cũ) cũng đã ứng dụng thành công tư tưởng của PP dự án trong việc giáo dục các thanh thiếu niên hư hỏng trong các trường đặc biệt của Nga vào đầu thế kỉ 20. Cuối thế kỉ 20 xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về dự án và PP dự án tại Áo. Năm 1984, Viện sư phạm ở Viên đã thành lập một trung tâm về dự án với mục đích khuyến khích các giáo viên áp dụng PP dự án và động viên học sinh tích cực tham gia thực hiện các dự án. Hiện nay, ở CHLB Đức, có đến hàng trăm các công bố nghiên cứu lí luận và thực tiễn về dạy học dự án hàng năm. Và trường ĐH Roskilde (RUC) của Đan Mạch hiện đang dành trên 50% thời gian đào tạo cho dạy học theo dự án. [2] [3] [5] [11]
Như vậy, khái niệm dự án và PP dự án đã xuất hiện từ rất lâu và ngày một phổ biến trong lĩnh vực dạy học và đào tạo từ phổ thông đến đại học ở các nước phát triển trên TG. Các nhà sư phạm ở châu Âu và Mỹ đã có công rất lớn trong việc sáng tạo, xây dựng và ứng dụng lí thuyết PP dự án chủ yếu trong các trường đại học và tại các nước phát triển. Tuy nhiên, việc phổ biến khái niệm PP dự án và tạo điều kiện ứng dụng nó rộng rãi trên phạm vi toàn cầu lại thuộc về công lao của dự án giáo dục Việt Bỉ, các tập đoàn Intel và Microsoft, . Đặc biệt là tập đoàn Intel với chương trình Intel Teach.(Chương trình dạy học của Intel) trong đó PP dạy học theo dự án (Project Based Learning - PBL) hoặc PP dạy học tiếp cận dự án (Project Based Approaching - PBA) được dành một vị trí thích đáng bên cạnh việc tạo điều kiện tối đa cho giáo viên(GV), học sinh (HS), sinh viên (SV) hình thành, rèn luyện, phát triển kĩ năng công nghệ thông tin (CNTT) và ứng dụng CNTT trong dạy học. Có thể nói, chương trình Intel Teach đã góp phần “hiện đại hóa” PP dự án, giúp cho GV, HS, SV trên cơ sở tận dụng được những thành tựu mới của CNTT thiết kế và thực hiện các “dự án” học tập đa dạng, phong phú, hấp dẫn, linh hoạt thông qua đó các kĩ năng “mềm”, kĩ năng thế kỉ 21 được hình thành và phát triển một cách tự nhiên.
3. Khả năng ứng dụng phương pháp dự án trong dạy học địa lí 12, THPT
Dễ dàng nhận thấy PP dự án và chương trình, SGK địa lí 12 có mối quan hệ tương hỗ qua lại lẫn nhau, cái này có thể hỗ trợ cho cái kia phát triển và ngược lại. Trong bối cảnh việc đổi mới PP theo quan điểm hướng vào người học đã có được những thành tựu nhất định, song song với việc giảm tải chương trình, SGK THPT, giảm áp lực thi cử, khả năng ứng dụng PP dự án vào dạy học nói chung và dạy học Địa lí 12 nói riêng ngày càng rộng mở.
3.1. Chương trình, SGK địa lí 12 phù hợp nhất để ứng dụng PP dự án
Địa lí là khoa học tổng hợp bao gồm 2 ngành chủ yếu là Địa lí tự nhiên và địa lí kinh tế - xã hội. Là một bộ môn tổng hợp, do đó ngay trong nội hàm môn học, đã thể hiện mối quan hệ liên môn. Mà đặc trưng phạm vi kiến thức liên môn vừa là yêu cầu vừa là đặc trưng riêng của PP dự án- làm cho PP dự án không lẫn với bất kì PPDH nào khác. Do đó, có thể khẳng định Địa lí là môn học phù hợp để ứng dụng PP dự án.
Yêu cầu liên hệ nội dung học tập, nội dung nghiên cứu với vấn đề thực tiễn, đặc biệt là những vấn đề của địa phương thuộc địa bàn học sinh đang sinh sống và học tập lại là điểm ‘giao thoa’ không hẹn mà gặp của chương trình địa lí 12 và PP dự án. Địa lí 12 trang bị cho HS những vấn đề rất cơ bản và sâu sắc về tự nhiên và kinh tế - xã hội của tổ quốc, cũng chính là những vấn đề của thực tiễn đang diễn ra trong xã hội VN. Phần nghiên cứu địa lí địa phương với yêu cầu về kĩ năng: “ trang bị cho HS kĩ năng tìm hiểu, viết và trình báo cáo một vấn đề của địa lí địa phương” [10], và định hướng về phương pháp: “GV đặt vấn đề và giao tư liệu cho các nhóm HS sưu tầm tư liệu trước thời gian tiến hành các tiết học địa lí tỉnh/thành phố ít nhất là 1 tháng” [10], thực chất là dạy học tiếp cận dự án - Project Based Approaching, PBA. Ngoài ra, cấu trúc chương trình, nội dung địa lí 12 là cơ sở rất thuận lợi để phát hiện và xây dựng các đề tài - phần cốt lõi trong các dạy học dự án. “Địa lí 12 được cấu tạo theo các đơn vị kiến thức lớn, sắp xếp theo logic của khoa học và phù hợp với logic của quá trình dạy học” [10]. Về mặt đại thể, có thể xây dựng ít nhất 1 đề tài dựa trên các đơn vị kiến thức lớn, đơn giản vì tất cả đều gắn bó chặt chẽ với những vấn đề thực tiễn ở tất cả các địa phương. Về mặt chi tiết, có thể xây dựng nhiều đề tài khác nhau cho từng chủ đề cụ thể.
Quả thật không cường điệu khi khẳng định rằng chương trình, SGK Địa lí 12 là địa chỉ phù hợp nhất để thực hiện dạy học dự án trong tương quan so sánh với môn địa lí ở các cấp, lớp khác cũng như với các môn học khác.
3.2. Phương pháp dự án giúp thực hiện tốt nhất mục tiêu tổng quát và cụ thể chương trình, SGK Địa lí 12, THPT
- PBL tạo điều kiện tốt nhất góp phần đảm bảo các mục tiêu chung của môn địa lí THPT, đặc biệt việc đảm bảo 4 năng lực cơ bản trong dạy học địa lí, đó là:
+ Năng lực hành động hiệu quả trên cơ sở những kiến thức, kĩ năng, phẩm chất đã được hình thành trong quá trình học tập, rèn luyện và giao tiếp;
+ Năng lực hợp tác, phối hợp hoạt động trong đời sống và học tập;
+ Năng lực sáng tạo, có thể thích ứng với những thay đổi trong cuộc sống;
+ Năng lực tự khẳng định bản thân.
Với những đặc trưng cơ bản của mình, PP dự án là ứng viên sáng giá giúp củng cố, phát triển và hoàn thiện bốn năng lực đã được dần hình thành từ cấp Trung học cơ sở (THCS). HS sẽ phát triển 4 năng lực trên thông qua việc thực hiện các dự án địa lí 12, THPT. Vì PP dự án hướng đến sự thực hành hiệu quả, tạo điều kiện tối đa để liên kết và phát triển hệ thống kiến thức, kĩ năng HS đã có. Đặc trưng hoạt động nhóm và đặc trưng xã hội trong PP dự án sẽ giúp HS 12 hình thành và phát triển năng lực hợp tác, phối hợp hoạt động trong học tập và đời sống. Đặc trưng tạo ra sản phẩm và đặc trưng tự tổ chức và tự chịu trách nhiệm trong PP dự án là điều kiện tốt nhất để HS hình thành và phát triển năng lực sáng tạo, năng lực tự khẳng định bản thân, các năng lực vô cùng cần thiết chuẩn bị cho HS 12 bước vào đời.
- PP dự án giúp thực hiện tốt mục tiêu môn học
+ Về kiến thức: PP dự án góp phần đảm bảo, cập nhật hóa mục tiêu kiến thức, đặc biệt phần những vấn đề đang được đặt ra nhằm sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu hậu quả của thiên tai, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, phát triển kinh tế xã hội của cả nước. Thông qua việc thực hiện các dự án Địa lí về những vấn đề đang diễn ra tại địa phương, nơi HS đang sinh sống, hệ thống kiến thức cơ bản về địa lí tự nhiên và địa kinh tế xã hội VN được vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo.
+ Về kĩ năng: PP dự án góp phần hình thành rèn luyện kĩ năng Địa lí một cách hiệu quả. Bởi việc kết hợp giữa lí thuyết và thực hành là một trong những đặc trưng cơ bản của PP dự án. Trong PP dự án, HS sẽ luôn được tổ chức, hướng dẫn để hoạt động. Do đó khi thực hiện dự án Địa lí, các kĩ năng thực hành sẽ thường xuyên được vận dụng. Với việc tham gia giải quyết những vấn đề đặt ra trong cuộc sống có liên quan trực tiếp đến nội dung Địa lí 12, HS sẽ được rèn luyện và phát triển các kĩ năng quan sát, nhận xét, phân tích, tổng hợp đánh giá các sự vật và hiện tượng địa lí. Biết cách sưu tầm, chọn lọc, sử dụng được các bản đồ, lược đồ, lát cắt, số liệu thống kê. Công cụ CNTT sẽ là trợ thủ đắc lực để HS thu thập, xử lí các thông tin địa lí. Yêu cầu bắt buộc về việc xây dựng và hoàn thiện sản phẩm trong suốt quá trình làm dự án sẽ tạo điều kiện cho HS vận dụng kiến thức để giải thích các hiện tượng, sự vật địa lí để ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống và sản xuất. Từ đó, tư duy đặc trưng của địa lí là “tư duy tổng hợp gắn với lãnh thổ, có liên hệ thường xuyên với thực tiễn và đời sống sản xuất” [10] được rèn luyện và phát triển.
+ Về thái độ, tình cảm: Một trong những biện pháp rất hiệu quả trong giáo dục HS là phải tổ chức cho HS khảo sát, tìm hiểu địa phương về mọi mặt: tự nhiên, dân cư, kinh tế, xã hội. Thực tế địa phương được phân tích sâu sắc chính là cơ sở có tính thuyết phục cao, có thể chuyển biến tư tưởng, tình cảm của các em [4]. Thực hiện khảo sát địa phương về mọi mặt chỉ mới là yêu cầu bước đầu của PP dự án. Việc tham gia giải quyết những vấn đề đang tồn tại của địa phương mới là phần chính trong dạy học dự án. Những nhận thức về quê hương, những tình cảm đối với địa phương, tinh thần trách nhiệm, ý thức cộng đồng, ý thức dân tộc sẽ sâu sắc hơn nhiều khi HS tự mình tham gia giải quyết những vấn đề địa phương đang đối mặt, dù những giải pháp đưa ra, nhìn chung chưa hoàn chỉnh. Vậy, có thể khẳng định, PP dự án góp phần hoàn thành và thăng hoa mục tiêu tình cảm, thái độ: “làm giàu thêm ở HS tình yêu quê hương, đất nước, tinh thần tự cường dân tộc và niềm tin vào tương lai của đất nước, của dân tộc; củng cố cho HS thế giới quan khoa học, nhân sinh quan đúng đắn, tinh thần trách nhiệm trong bảo vệ môi trường, xây dựng kinh tế - xã hội ở quê hương” [10].
3.3. Học sinh lớp 12 – lứa tuổi chín muồi cho việc xây dựng và thực hiện các dự án học tập
Sẽ thật phiến diện nếu cho rằng chỉ có HS lớp 12, HS cuối cấp THPT mới đủ điều kiện và năng lực thực hiện các dự án học tập. Ở các nước phương Tây, dự án học tập được phổ biến từ bậc tiểu học, thậm chí từ cuối lớp mẫu giáo. Mức độ phức tạp của các dự án học tập sẽ tăng dần theo cấp học và lớp học và độ mềm dẻo, linh hoạt của PP dự án cũng có một phạm vi rất rộng từ PBA đến PBL. Tuy nhiên, là một PPDH phức hợp, trong đó, khi thực hiện dự án, HS phải đóng vai là những người lao động có thật trong xã hội để tham gia tìm hiểu, phần nào giải quyết những vấn đề có thật trong cuộc sống, thì rõ ràng rằng lứa tuổi thanh niên của học sinh THPT là phù hợp nhất vì các em đã phát triển khá toàn toàn diện về thể chất, về nhận thức và tình cảm, đặc biệt về thế giới quan và lí tưởng, về đường đời và xu hướng nghề nghiệp. Đó là “thời kì phát triển cân đối, hài hòa, đẹp đẽ của con người, là thời kì năng lực trí tuệ, thế giới quan và toàn bộ nhân cách của con người biến đổi lớn về chất lượng làm cho các em sẵn sàng để bước vào đời”[8]. Và đỉnh cao của phát triển trí tuệ, tình cảm lứa tuổi thanh niên THPT là ở lớp cuối cấp. HS cuối cấp THPT sau khi tốt nghiệp sẽ trở thành một công dân thực thụ, đứng trước nhiều vấn đề cấp bách của VN và thế giới cần có những nhận thức và hành vi đúng đắn; nhiều ngả đường nghề nghiệp cần có sự lựa chọn sao cho phù hợp với năng lực của bản thân và nhu cầu của xã hội; nhiều khó khăn tồn tại của đất nước cần phải góp phần tham gia giải quyết; . Các dự án học tập THPT nói chung và dự án địa lí nói riêng sẽ được HS cuối cấp thực hiện tốt nhất; đồng thời, các giá trị dự án học tập mang lại cũng được nhận thức sâu sắc nhất.
3.4. Bối cảnh xã hội thuận lợi cho việc xây dựng các dự án Địa lí 12, THPT
- Dạy học dự án phù hợp với định hướng đổi mới PPDH trong hai mươi năm qua. PP dự án đáp ứng cao yêu cầu áp dụng và phát triển các PPDH mới theo hướng tổ chức các hoạt động học tập cho HS [12]. Vì, với đặc thù của mình, PP dự án chính là mô hình dạy học hướng vào người học, dạy học thông qua các hoạt động điển hình nhất.
- Dạy học dự án là một trong những lựa chọn tối ưu về phương pháp dạy học, góp phần đảm bảo mục tiêu giáo dục và đào tạo trong giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội 2011 - 2020. Thật vậy, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI [1] đã chỉ rõ: “Phát triển giáo dục và đào tạo (GD – ĐT) cùng với phát triển khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu” [1, tr. 27]. Xác định GD – ĐT là một trong 3 khâu đột phá chiến lược, cần phải: “tập trung vào đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ” [1, tr. 53]. Đồng thời định hướng phương thức tiến hành: “Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại, đặc biệt coi trọng giáo dục lí tưởng , năng lực sáng tạo, kĩ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội, ” [1, tr.120]. Vấn đề môi trường, thiên tai, biến đổi khí hậu, phát triển bền vững được chú ý đặc biệt: “Đến năm 2020, tỷ lệ che phủ rừng đạt 45%” [1, tr. 52], ”Hạn chế tác hại của thiên tai; chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng” [1, tr. 53], “Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh, bền vững” [1, tr 109]. Các đặc trưng của PP dự án minh chứng hùng hồn vai trò của nó trong việc góp phần thực hiện các mục tiêu của GD - ĐT trong giai đoạn mới. Đặc biệt vấn đề môi trường, thiên tai, biến đổi khí hậu, phát triển kinh tế bền vững phần ưu tiên hoàn toàn thuộc về các dự án địa lí 12 vì đó vừa thuộc nội dung của chương trình vừa là các mục tiêu cần đạt. Có thể khẳng định, một số cương lĩnh, nội dung, phương hướng, về GD – ĐT và xây dựng kinh tế trong văn kiện đại hội XI của Đảng là hành lang pháp lí giúp giáo viên mạnh dạn ứng dụng PP dự án vào dạy học nói chung, dạy học Địa lí và Địa lí 12 nói riêng. Đồng thời, đến lượt mình, các dự án Địa lí 12, nếu được thực hiện hiệu quả sẽ góp phần đạt được nhiệm vụ GD - ĐT trong giai đoạn mới.
- Việc giảm tải chương trình và mục tiêu cụ thể về đổi mới PPDH và kiểm tra đánh giá trong năm học mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo tạo điều kiện cho việc ứng dụng các PP mới trong đó có PP dự án. Năm học mới (2011 – 2012), cùng với các bậc khác, chương trình bậc THPT được điều chỉnh theo hướng lược bớt, giảm nhẹ yêu cầu ở hầu hết các môn học. Bộ GD-ĐT xác định nhiệm vụ quan trọng là đổi mới PPDH và kiểm tra, đánh giá theo hướng phát huy tính chủ động, tích cực, rèn luyện năng lực tự học của học sinh dựa trên chuẩn kiến thức, kỹ năng; cụ thể đối với các môn ngữ văn, lịch sử, địa lý cần tiếp tục đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng nêu vấn đề mở, đòi hỏi HS phải vận dụng tổng hợp kiến thức, kỹ năng; hạn chế học sinh chỉ ghi nhớ máy móc, không nắm vững bản chất vấn đề[13]. Việc giảm tải chương trình đã giải quyết được phần nào phần hạn chế - mất nhiều thời gian – của dạy học dự án. Bên cạnh đó các chỉ đạo về đổi mới PPDH, đặc biệt rất cụ thể về kiểm tra đánh giá, khiến cho sản phẩm cuối cùng của dự án không còn là mục tiêu xa vời. Có thể hi vọng, trong tương lai, bên cạnh những PPDH tiên tiến khác, dạy học dự án sẽ là một trong những lựa chọn ưu tiên nhằm đáp ứng yêu cầu “đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng đề mở, đòi hỏi sự vận dụng tổng hợp, kiến thức tổng hợp và đòi hỏi sự nhanh nhạy, sự nắm bắt những vấn đề bức thiết trong xã hội” [13].
- Các điều kiện khác: Ngoài những yếu tố cơ bản trên, còn một số yếu tố khác như: Cơ sở hạ tầng của các trường THPT đã được sửa chữa, nâng cấp, xây dựng, lắp đặt mới; mạng Internet gần như tỏa khắp các trường THPT; Tin học IT (Informatic Technology) đã trở thành môn học chính thức ở giúp cho trình độ và điều kiện khai thác các phần mềm, mạng Internet của HS được nâng cao; Thông qua dự án Việt Bỉ, chương trình GD của Intel và Microsoft, một số lượng khá lớn GV đã nắm được những lí thuyết căn bản về việc thiết kế và thực hiện các dự án dạy học, .
4. Kết luận
Hiệu quả do PP dự án mang lại cho HS là vô cùng to lớn, đặc biệt việc hình thành cho HS cuối cấp các “kĩ năng mềm” – những kĩ năng thật sự cần thiết cho ngưỡng cửa vào đời; môn Địa lí, về bản chất khoa học, về chương trình, về nội dung là một môn học hội đủ các điều kiện để ứng dụng PP dự án, trong đó điển hình nhất là nội dung, chương trình Địa lí 12; việc giảm tải chương trình, yêu cầu đổi mới PPDH và hình thức kiểm tra đánh giá về chất, cơ sở vật chất đã được cải thiện tạo điều kiện và động cơ tốt cho việc dạy và học PP dự án. Tuy nhiên, để ứng dụng PP dự án vào việc dạy học Địa lí 12 đạt hiệu quả cao nhằm góp phần đạt được mục tiêu Giáo dục và Đào tạo trong giai đoạn mới, cần phải tiếp tục thực hiện các nghiên cứu thực tiễn, ở các mức độ, phạm vi hẹp hơn, cụ thể hơn. Chẳng hạn: trên cơ sở nội dung, chương trình Địa lí 12, tình hình thực tiễn, đề xuất hệ thống các đề tài dự án sao cho có mối quan hệ chặt chẽ và phát triển từ thấp đến cao; xác định qui trình thiết kế đồng thời xây dựng một số kế hoạch bài dạy (Unit plan) tương ứng với các đề tài đã được xác định theo hướng đa dạng hóa về mặt thời gian thực hiện và phù hợp với điều kiện ở từng địa phương cụ thể; xác định qui trình thực hiện và tiến hành thực hiện một số dự án đã thiết kế; . Kết quả nghiên cứu các vấn đề trên sẽ lần lượt được công bố trong các chuyên đề kế tiếp.
TÓM TẮT
Phương pháp (PP) dự án là một trong những lựa chọn tối ưu nhằm đáp ứng mục tiêu Giáo dục – Đào tạo của Việt Nam (VN) trong giai đoạn mới. Sau hai mươi năm đổi mới Phương pháp dạy học (PPDH), nhìn chung, nhà trường phổ thông VN đã hội đủ điều kiện để ứng dụng PP dự án (Project method) ở các cấp học và mọi môn học. Riêng môn Địa lí, về bản chất khoa học, về chương trình, về nội dung,.. là một trong số các môn học có ưu thế để ứng dụng PPDự án; đặc biệt là chương trình Địa lí 12, THPT.
ABSTRACT
Project method and its superiority in applying into teaching geography 12,
high school education
The Project method has been thought to be one of the optimal options meeting the goals of Education – Training in Vietnam in the new period. After twenty years of reforming teaching methods, the high school education system in Vietnam is generally eligible for the application of the Project methods at all levels and all subjects. Of the subjects, Geography, regarding its scientific nature, curriculum and contents, is considered specifically appropriate for the Project method, in which Geography 12 would best fit this application.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ban Tuyên giáo Trung ương (2011), Tài liệu học tập Các văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia.
Nguyễn Văn Cường (1997), “Dạy học Project hay dạy học theo dự án”, Trường ĐHSP Hà Nội, Trường ĐHSP – ĐHQG Hà Nội, Thông báo khoa học (số 3).
Nguyễn Văn Cường, Nguyễn Thị Diệu Thảo (2004), “Dạy học theo dự án, một phương pháp có chức năng kép trong đào tạo giáo viên”, Tạp chí Giáo dục (số 3).
Nguyễn Dược, Nguyễn Trọng Phúc (2007), Lí luận dạy học Địa lí, Nxb ĐHSP.
Trần Thúy Hằng (2006), Tổ chức dạy học theo dự án một số nội dung kiến thức chương “Sự bảo toàn và chuyển hóa năng lượng” theo SGK vật lí lớp 9 nhằm phát triển hoạt động nhận thức tích cực, tự chủ của học sinh trong học tập, Luận văn thạc sĩ khoa học GD, ĐHSP Hà Nội, người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đỗ Thị Hương Trà.
Trần Thị Hương (chủ biên), Nguyễn Thị Bích Hạnh, Hồ Văn Liên, Ngô Đình Qua (2009), Giáo dục học đại cương, ĐHSP TP HCM, (Lưu hành nội bộ).
Nguyễn Thị Kim Liên (2009), “Khả năng giáo dục biến đổi khí hậu toàn cầu của phương pháp dạy học theo dự án thông qua môn Địa lí THPT”, Kỉ yếu Hội thảo khoa học Những vấn đề về giáo dục biến đổi khí hậu, ĐHSP Hà Nội.
Bùi Ngọc Oánh, Thiệu Xuân Quýnh, Nguyễn Hữu Nghĩa (1993), Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm, ĐHSP TP HCM (Lưu hành nội bộ).
Tập đoàn Intel (2009), Chương trình dạy học của Intel – Khóa học cơ bản (Intel Teach Essentials), Nxb Tổng hợp TP HCM.
Lê Thông, Nguyễn Viết Thịnh . (2010), SGV Địa lí 12 ban cơ bản, Nxb GD.
Trần Đức Tuấn (2002), “Phương pháp Project và vấn đề đổi mới quá trình đào tạo giáo viên ở khoa Địa lí trường Đại học sư phạm”, Kỉ yếu Hội thảo đổi mới phương pháp dạy học, Công đoàn ĐHSP Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- co_so_khoa_hoc_cua_pbl_2911.doc