Với khả năng điều hành nền kinh tế của chính phủ, sự can thiệp kịp thời của NHTMNN VN vào hoạt động của thị trường chứng khoán chắc chắn IPO của các NHTMNN sẽ thành công. Đồng thời, sự xuất hiện cổ phiế của các NHTMNN sẽ tác động tích cực đến hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Tóm lại, trong bối cảnh hội nhập, tương lai mở cửa ngân hàng không còn xa, yêu cầu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, phát triển công nghệ và đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, nâng cao khả năng cạnh tranh là một yêu cầu sống còn đối với các ngân hàng. Cổ phần hóa sẽ tạo ra động lực buộc các ngân hàng phải tìm cách nâng cao hiệu quả hoạt động và hội nhập thành công. Vấn đề đặt ra ở đây là phải giải quyết được những tồn tại trong quá trình cổ phần hóa và vạch ra hướng đổi mới cho ngân hàng sau cổ phần hóa để có thể phát huy được vai trò chủ đạo của mình trong các chính sách tiền tệ của quốc gia và góp phần thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế đất nước.
46 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2653 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cổ phần hóa ngân hàng thương mại Nhà nước và ảnh hưởng của nó đến thị trường chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiệm, lợi ích của cá nhân được giao quyền quản lí doanh nghiệp đó lại thể hiện rõ rệt dưới nhiều hình thức như độc đoán, chuyên quyền, gia đình trị, tham ô… Doanh nghiệp thì luôn luôn có tâm lí ỉ lại, trông chờ vào sự bao cấp của nhà nước, hoạt động kém năng động, tính hiệu quả thấp. Cổ phần hóa là để xác định rõ ràng người làm chủ đích thực có quyền định đoạt trong quản lí, rõ trách nhiệm trong quản lí và điều hành, tăng cường được tính cạnh trạnh, tránh được thất thoát vốn và tài sản…ở ngân hàng thương mại nhà nước sau khi cổ phần hóa, việc Nhà nước nắm giữ 51% cổ phần chi phối cũng có nghĩa là Nhà nước vẫn là người định đoạt lớn nhất trong ngân hàng và cơ cấu quản lí ngân hàng. Ngân hàng sau cổ phần rất dễ lại bị lâm vào tình trạng “ bình mới rượu cũ”. Các bài học về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trước đây cho thấy rất rõ điều này. Có nơi, giám đốc để doanh nghiệp thua lỗ 10 năm liên tiếp và sau khi cổ phần hóa vẫn đại diện sở hữu nhà nước tiếp tục làm giám đốc. Trong trường hợp đó, hầu như toàn bộ ban lãnh đạo cũ vẫn được giữ nguyên. Nó tạo ra tình trạng cổ phần hóa rồi nhưng cơ chế trông chờ, ỷ lại có thay đổi cũng chỉ thay đổi được rất ít.
Bên cạnh tỷ lệ cổ phần chi phối của Nhà nước, vấn để tỷ lệ sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư chiến lược của ngân hàng cũng làm nảy sịnh nhiều vấn đề. Một trong những mục tiêu khi cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước là nhằm tranh thủ kinh nghiệm quản lí, điều hành cũng như công nghệ hiện đại của các nhà đầu tư mà đặc biệt là các nhà đầu tư chiến lược. Các nhà đầu tư chiến lược thường là các định chế tài chính hùng mạnh, có uy tín, có kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Họ sẵn sàng góp vốn cũng như những yếu tố khác vào ngân hàng thương mại nhà nươc khi cổ phần hóa với mong muốn cùng tạo lập nên một ngân hàng giàu mạnh và cùng chia sẻ những thành quả đạt được. Tuy nhiên, với quy định của pháp luật hiện nay thì các nhà đầu tư chiến lược chỉ được nắm không quá 20% tổng số vốn điều lệ của ngân hàng sau cổ phần. Với tỉ lệ sở hữu cổ phần như vậy, các nhà đầu tư chiến lược không thể có ảnh hưởng lớn đối với việc quản lí cũng như điều hành ngân hàng và điều đó khiến cho các nhà đầu tư chiến lược giảm nhiệt tình đối với quá trình cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước. nó cũng khiến cho mục tiêu tranh thủ vốn, công nghệ quản lí , điều hành cũng như tranh thủ uy tín của các nhà đầu tư chiến lược trở nên khó đạt được hoặc có đạt được nhưng không được như mong muốn.
Mong muốn khi cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước là kinh doanh đạt hiệu quả tốt hơn, kết hợp hài hòa các lợi ích để không ngừng phát triển và hội nhập. Tuy nhiên, cũng phải cần xem xét lại khía cạnh Nhà nước nắm cổ phần chi phối và tỉ lệ sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư chiến lược. Nếu như không giải quyết tốt những vấn đề đó thì sẽ rơi vào cổ phần hóa hình thức, cải lương, không khác gì so với doanh nghiệp nhà nước trước khi cổ phần hóa và không đạt được các mục tiêu cổ phần hóa đặt ra.
2.1.8. Sự thiếu vắng các văn bản pháp lí điều chỉnh trực tiếp quá trình cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước:
Cho đến thời điểm hiện nay, các quy định về mặt pháp lí của Nhà nước dành riêng cho quá trình cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước là hầu như chưa có. Số lượng các văn bản quy định về việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là ngân hàng còn rất hạn chế mà chỉ có các quy định về cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước nói chung, sản xuất, kinh doanh các hàng hóa dịch vụ thông thường.
Hiện tại, vấn đề cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước được điều chỉnh bởi văn bản pháp lí có hiệu lực cao nhất là Nghị định của Chính phủ số109/2007/NĐ-CP ngày 26/06/2007 về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần, kế đến là Thông tư của Bộ Tài chính số 146/2007/TT-BTC ngày 06 tháng 12 năm 2007 hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về tài chính khi thực hiện chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần theo quy định tại Nghị định số 109/2007/NĐ-CP, các văn bản khác hướng dẫn thực hiện Nghị định 109, Nghị Định số 69/2007/NĐ-CP ngày 20 tháng 04 năm 2007 về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của ngân hàng thương mại Việt Nam và một số văn bản pháp luật về chứng khoán, tổ chức tín dụng khác.
Ngân hàng thương mại nhà nước không chỉ là doanh nghiệp nhà nước thông thường mà nó có nhiều đặc thù trong hoạt động nói chung cũng như trong vấn đề cổ phần hóa nói riêng. Và nếu áp dụng những quy định chung cho cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước vào quá trình cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước thì rõ ràng là sẽ có nhiều điểm không phù hợp. Điều đó gây không ít cản trở cho quá trình cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước.
2.2 Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
* Những tồn tại các NHTM nhà nước:
- Hệ thống NHTM nhà nước có quy mô nhỏ, năng lực tài chính yếu
- Mức độ rủi ro cao, chất lượng tín dụng thấp
- Khả năng sinh lời thấp
- Năng suất lao động thấp
- Còn quá ít sản phẩm dịch vụ ngân hàng,mức độ áp dụng công nghệ vào các lĩnh vực ngân hàng còn thấp so với các nước khác trong khu vực.
* Nguyên nhân yếu kém của NHTM nhà nước:
- Sự yếu kém trong tổ chức, quản lý, trình độ chuyên môn, đạo dức nghề nghiệp
- Sự bất cập của chính sách, cơ chế cũ không phù hợp với thực tế hoạt động của ngân hàng vẫn chưa được bổ sung sửa đổi
- Sự chồng chéo và thường xuyên sửa đổi những quy định,thể chế làm cho việc áp dụngvào hoạt động ngân hàng trở nên khó khăn
- Các quy định và cơ chế nhiều khi còn cứng nhắc, dẫn đến bó buộc hoạt động
2.3. Cổ phần hóa NHTMNN: một bước đi tất yếu:
Trong thời gian qua, việc CPH các DNNN đã đem lại khá nhiều tác động tích cực đối với sự phát triển của đất nước. Ngành ngân hàng của chúng ta, khi thực hiện chủ trương nói trên với bối cảnh kinh tế như vậy, cũng không nằm ngoài xu thế này. Chính phủ VN đã thông qua một chiến lược cải cách hệ thống NHTM nhằm khôi phục sự lành mạnh của cả hệ thống ngân hàng, cải thiện tính an toàn, hiệu quả của chức năng trung gian tài chính cho nền kinh tế. Chương trình cải cách này đã và đang được thực hiện với mục tiêu duy trì sự phát triển và ổn định hệ thống, phù hợp với khuôn khổ kinh tế vĩ mô của VN. Một loạt các biện pháp chính sách đã được thực hiện nhằm tăng cường và củng cố hoạt động của hệ thống NHTMNN, kể cả việc cơ cấu lại tài chính thông qua xử lý nợ xấu và cấp vốn bổ sung từ phía Chính phủ. Từ năm 2001 đến nay, 4 NHTMQD lớn của VN là Vietcombank, Incombank, Agribank và BIDV đã được Nhà nước cấp bổ sung khoảng 10.000 tỷ đồng để tăng vốn, tiến tới chuẩn mực quốc tế. Vì vậy, theo lộ trình dự kiến, để đạt chỉ số an toàn vốn (CAR 8%) thì từ nay đến năm 2010, các NHTM VN phải được bổ sung một lượng vốn tự có ước tính lên tới 117.000 tỷ đồng. Bên cạnh đó, để giải quyết nợ xấu, các NHTMNN cần 1 tỷ – 1.5 tỷ USD.
Theo đánh giá, tiềm lực tài chính của các NHTMNN yếu (tổng tài sản của ngân hàng lớn nhất xấp xỉ trên dưới 10 tỷ USD, vốn tự có chưa đến 500 triệu USD), trình độ quản lý công nghệ lạc hậu sẽ phải cạnh tranh với những “đối thủ khổng lồ” như các tập đoàn tài chính HSBC, CitiBank… có tổng tài sản hàng nghìn tỷ USD và có cách thức quản lý, công nghệ ngân hàng hết sức hiện đại. Do đó, để cạnh tranh và tồn tại, các NHTMNN cần phải tập trung vào việc tăng vốn tự có mà cổ phần hóa là một trong những giải pháp thiết yếu.
Mục đích của CPH NHTMNN là đổi mới phương thức tạo vốn, nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng, thay đổi phương thức quản lý điều hành, áp dụng các công nghệ hiện đại của thế giới; ứng dụng phong phú các sản phẩm dịch vụ ngân hàng của các nước tiên tiến, góp phần lành mạnh hóa và minh bạch tình hình tài chính của các doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cải thiện cuộc sống của nhân dân. Một khi các NHTMNN cổ phần hóa, vốn chủ sở hữu của các ngân hàng này sẽ tăng lên rất nhiều và khả năng huy động vốn từ các nguồn lực trong xã hội sẽ không ngừng gia tăng, và do đó, đây là cách tốt nhất để tận dụng tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước để đầu tư phát triển kinh tế đất nước. Hơn nữa, cổ phần hóa NHTMNN góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, đồng thời tạo hàng hóa chất lượng cung cấp trên thị trường chứng khoán.
2.4 Chiến lược cổ phần hóa của một số NHTMNN Việt Nam
2.4.1 CPH Vietcombank
Thủ tướng xác định đây là một yêu cầu cấp bách trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh và đổi mới các ngân hàng thương mại nhà nước trước yêu cầu về mở cửa thị trường và cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO.
Theo đó, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Phát triển Nhà đồng bằng sông Cửu Long cần khẩn trương thực hiện các công việc mà Thủ tướng Chính phủ đã quyết định để hoàn thành cổ phần hóa trong năm 2007.
Ngày 4/10 vừa qua, Vietcombank cũng đã tiến hành hợp tác với Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng (DATC) nhằm đẩy nhanh quá trình xử lý các khoản nợ và tài sản tồn đọng, một bước đi cần thiết cho quá trình cổ phần hóa kế tiếp.
Ông Đinh Văn Mười, Phó tổng giám đốc Vietcombank, cũng hy vọng rằng trong tháng 12 tới Vietcombank sẽ lựa chọn được đơn vị tư vấn chính thức và sớm thực hiện cổ phần hóa ngân hàng trong quý I/2007.
Thủ tướng cũng đã chỉ đạo thực hiện cổ phần hóa đối với ba ngân hàng thương mại còn lại, bao gồm Ngân hàng Ðầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng Công thương Việt Nam (Incombank) và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank).
Lộ trình cổ phần hóa ba ngân hàng trên sẽ qua hai bước.
Bước 1: Nâng cao năng lực tài chính theo hướng đạt các chỉ số lành mạnh tài chính theo chuẩn quốc tế vào cuối năm 2006 đối với BIDV, Incombank; và cuối năm 2007 đối với Agribank.
Bước 2: Từ năm 2007 tiến hành cổ phần hóa BIDV, Incombank; từ năm 2008, cổ phần hóa Agribank.
Ngoài ra Thủ tướng cũng yêu cầu khẩn trương thực hiện đề án cổ phần hóa Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam và hình thành Tập đoàn tài chính bảo hiểm Việt Nam mà Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt.
2.4.2 BIDV với chiến lược CPH
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) là một trong 4 NHTM lớn nhất ở Việt Nam, trong những năm gần đây BIDV đã có bước chuyển mình cơ bản, định hướng kinh doanh mạnh mẽ theo hướng một NHTM đa năng, hoạt động đa ngành, kinh doanh đa lĩnh vực vì mục tiêu lợi nhuận. BIDV luôn hoàn thành đầy đủ và kịp thời nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước. Hiện nay, BIDV khẩn trương hoàn thành đề án cổ phàn trình NHNN và chính phủ vào quý I/2007, tiến hành định giá vào quý III/2007 và tổ chức bán cổ phần vào đầu quý IV/2007.
* Những thành tựu của BIDV đảm bảo thực hiện thành công đề án cổ phần hoá là:
- BIDV thực hiện thành công đề án cơ cấu lại, BIDV đã nỗ lực tăng cường năng lực phục vụ nền kinh tế thông qua đẩy mạnh công tác huy động vốn, cho vay và cung cấp các dịch vụ ngân hàng đối với các thành phần kinh tế. Năm 2005, tổng tài sản của BIDV đạt 121403 tỷ đồng, huy động vốn đạt 87025 tỷ đồng, dư nợ đạt 82717 tỷ đồng.
- BIDV chú trọng đẩy mạnh đổi mới cơ cấu sản phẩm dịch vụ, tạo lập cơ cấu hoạt động đa dạng: tỷ lệ vốn huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư trên tổng tài sản 72% (năm 2005). Các sản phẩm dịch vụ ngày càng được đa dạng hoá và có bước phát triển vượt bậc về số lượng và chất lượng. BIDV đã xây dựng được một hệ thống danh mục các sản phẩm dịch vụ thoả mãn nhu cầu đa dạng của khách hàng, đặc biệt là cấc dịch vụ trên nền công nghệ mới như ATM, dịch vụ quản lí tiền tự động smart @ acount, các loại hình tiết kiệm linh hoạt, home banking, phone banking.
- BIDV đã tích cực tự huy động vốn trên thị trường để tài trợ cho phát triển kinh tế đất nước. Trong giai đoạn 1996-2005 BIDV đã thực hiện cho vay thương mại đối với nền kinh tế với doanh số lên tới trên 550000 tỷ đồng, góp phần tích cực cho đầu tư phát triển nền kinh tế. Tổng dư nợ 82717 tỷ đồng, tập trung chủ yếu cho đầu tư các dự án lớn trọng điểm của quốc gia như điện, dầu khí, sắt thép, xi măng. BIDV đã xây dựng và triển khai các định hướng, chính sách tín dụng phù hợp các vùng kinh tế trọng điểm, thực hiện các chương trình kinh tế thuộc các khu vực miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Đồng Bằng Sông Cửu Long, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, thuỷ lợi, công nghiệp chế biến, vùng nguyên liệu, nâng cao năng lực sản xuất của doanh nghiệp, phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại.
- Cùng với các nỗ lực kinh doanh, BIDV còn nâng cao tính minh bạch về các báo cáo tài chính. BIDV luôn thực hiện chế độ kiểm toán theo chế độ kế toán Viêt Nam(VAS) và chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế( IFRS). BIDV đã tạo dựng được uy tín với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các đối tác kinh doanh trong và ngoài nước. Tháng 4/2006, BIDV trở thành doanh nghiệp đầu tiên tại Việt Nam tiến hành đánh giá và xếp hạng tín nhiệm theo tiêu chuẩn quốc tế do tổ chức xếp hạng tín nhiệm uy tín toàn cầu Moodys thực hiện. Kết quả của Moodys đã khẳng định năng lực tài chính và độ tín nhiệm của ngân hàng với chỉ số xếp hạng tín nhiệm tiền gửi và xếp hạng tín nhiệm nhà phát hành đều đạt mức trần xếp hạng quốc gia
* Bên cạnh những thành tựu đó, BIDV còn bộc lộ một số hạn chế trong hoạt động, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới, nhất là trong hội nhập kinh tế quốc tế ngành ngân hàng, nưng lực tài chính còn hạn chế, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu còn thấp và chưa đạt yêu cầu theo thông lệ quốc tế. tính theo toán học, tỷ lệ vốn tự có trên tài sản có rủi ro của BIDV tính đến 31/12/2005 là 6,68%, trong đó chất lượng tín dụng còn thấp. Tổng số nợ xấu là 10392, chiếm 12,47% tổng dư nợ, nguồn nhân lực còn hạn chế, năng lực quản trị điều hành còn nhiều bất cập.
* Đề án cổ phần hoá NHTMNN BIDV trong năm 2007:
Để BIDV đáp ứng yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (8%) theo quy định của NHNN thì BIDV đã xây dựng phương án bổ sung vốn điều lệ và đảm bảo nguồn để thực hiện giải pháp cổ phần hoá trình NHNN. Theo phương án này, với mục tiêu thực hiện cổ phần hoá vào năm 2007, BIDV phải lành mạnh hoá và nâng cao năng lực tài chính trước thời điểm 31/12/2006. Quá trình chuẩn bị các điều kiện cho cổ phần hoá đã được hội đồng quản trị, ban điều hànhchủ động tiến hành từ năm 2005 đến nay, theo dự kiến của NHNN tại văn bản số 768/NHNN-CLPT ngày 6/9/2006 trình chính phủ, sau khi trải qua các bước tăng cường năng lực theo tiêu chuẩn quốc tế vào năm 2006, BIDV sẽ được phép cổ phần hoá từ năm 2007
- Nội dung của đề án cổ phần hoá BIDV gồm 4 bứơc:
Bước 1: chuẩn bị ( đến hết năm 2006): hoàn chỉnh kế hoạch chiến lược giai đoạn 2006-2010, triển khai các đề án xử lí nợ, tăng vốn theo kế hoạch, trình NHNNvà chính phủ phê duyệt chủ trương cổ phần hoá. Sau khi được chính phủ chấp nhận chủ trương cổ phần hoá, BIDV tiến hành thuê tư vấn quốc tế và chuẩn bị hồ sơ pháp lí của doanh nghiệp tài sản, công nợ, đồng thời tiến hành xây dựng đề án cổ phần hoá chi tiết để trình lên NHNN
Bước 2: xây dựng phương án cổ phần hoá: BIDV dự kiến sẽ trình NHNN, chính phủ đề án cổ phần hoá chi tiết vào quý I/2007. Sau khi có quyết định cổ phần hoá, BIDV sẽ tiến hành những thủ tục theo chỉ đạo của ban chỉ đạo cổ phần hoá. Hoàn tất hồ sơ tài liệu để cổ phần hoá theo quy định, kiểm kê, xử lí những vấn đề về tài chính và tổ chức xác định giá trị của BIDV (vào quý III/2007). Sau khi có quyết định phê duyệt giá trị doanh nghiệp, hoàn tất phương án cổ phần hoá: kế hoạch kinh doanh sau cổ phần, dự thảo điều lệ, phương án lao động, phương án cổ phần hoá ( gồm cả việc lựa chọn cổ đông chiến lựơc…)
Bước 3: tổ chức bán cổ phần lần đầu: lựa chọn phương thức bán cổ phần theo quy định, tổ chức bán cổ phần lần đầu ( dự kiện quý IV/2007), tổng hợp kết quả bán cổ phần báo cáo cơ quan quyết định cổ phần hoá và điều chỉnh quy mô, cơ cấu cổ phần của BIDV ( nếu có).
Bước 4: hoàn tất việc chuyển BIDV thành NHTM cổ phần: BIDV có kế hoạch niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam sau khi phát hành cổ phần lần đầu và tích cực hoàn thiện các điều kiện để đăng kí niêm yết trên thị trường chứng khoán Singapore
Ngân hàng công thương Việt Nam (NHCTVN) đang đẩy mạnh nâng cao năng lực tài chính để chuẩn bị cổ phần hoá trong giai đoạn tiếp sau:
* NHCTVN đã thành công trong cơ cấu lại tài chính. Năm 2005, NHCTVN đã giảm tỷ lệ không sinh lời ở dưới mức 5%, xử lí dứt điểm các khoản cho vay chính sách và nợ phi thương mại, tăng vốn điều lệ, xử lí đối với từng nhóm nợ thông qua ban chỉ đạo xử lí nợ tồn đọng, cụ thể: tỉ lệ nợ xấu 3% trên tổng dư nợ, tỉ lệ nợ quá hạn 2,5%/ tổng dư nợ. Về quy mô và khả năng huy động vốn của NHCTVN lớn, tăng trưởng cao và ổn định, tương ứng với tốc độ tăng tài sản có năm 2005 gấp 2 lần năm 2001, đạt 101803 tỷ đồng, chiếm 1/3 tổng nguồn vốn huy động của khối NHTMNN. Ngân hàng đã khẳng định được uy tín, mạng lưới chi nhánh rộng khắp, chính sách lãi suất linh hoạt, phù hợp, khả năng marketing ngân hàng tốt..
Về khả năng thanh toán đảm bảo chất lượng cao. NHCTVN đã xây dựng chiến lược quản lí rủi ro thanh khoản hiệu quả
* Tuy nhiên bên cạnh đó cũng tồn tại một số hạn chế cần khắc phục như: về vốn tự có đạt 3994 tỷ đồng tườg đương 26 triệu USD (năm 2005) mặc dù so với các NHTM khác trong nước thì không thấp nhưng so với nước ngoài thì còn quá nhỏ bé. ví dụ như: Citibank là 45 tỷ USD, HSBC là 39 tỷ USD. Tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu năm 2005 là 5,12%<8%. Như vậy, khả năng chống đỡ rủi ro của NHCTVN là thấp. Khả năng sinh lời mới đạt 10,74%.
2.5. Ảnh hưởng của cổ phần hóa NHTMNN đến thị trường chứng khoán Việt Nam
Với trên 5 năm hình thành và phát triển, thị trường chứng khoán Việt Nam(TTCKVN) đã và đang tự khẳng định là một kênh dẫn vốn quan trọng, phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Tính đến cuối năm 2005, thị trường giao dịch chứng khoán (TTGDCK) TP.HCM đã có 32 công ty niêm yết với tổng giá trị vốn hóa thị trường đạt khoảng 0.9% GDP, các công ty có quy mô vốn lớn vẫn chưa góp mặt trên thị trường. Đối với trái phiếu, do được đặc cách niêm yết nên trái phiếu chính phủ vẫn là loại trái phiếu chủ yếu được niêm yết trên thị trường với tổng giá trị niêm yết (theo mệnh giá) là 39 nghìn tỷ đồng (đến 31.12.2005). Riêng trong năm 2005, chỉ số VN Index đã tăng từ 237,23 lên 307,5 tức 30%; tổng giá trị thị trường đạt 26.878 tỷ đồng trong đó cổ phiếu chiếm 10.4%, trái phiếu chiếm 88.7% và chứng chỉ quỹ chiếm 0.9%. Và đến thời điểm hiện nay đã có 37 công ty niêm yết giao dịch trên TTGDCK TP.HCM (chưa tính 7 công ty đã được cấp phép niêm yết nhưng chưa giao dịch). Hàng hóa trên TTCK hiện nay tuy nhiều hơn trước nhưng chưa thật sự đa dạng và phong phú, đặc biệt chưa có cổ phiếu của các Ngân hàng Thương Mại (NH Sài Gòn Thương Tín – Sacombank – đã được cấp phép niêm yết nhưng dự kiến đến tháng 7.2006 mới giao dịch; còn trái phiếu chuyển đổi của Vietcombank thì đang tiến hành các thủ tục để được cấp phép niêm yết trên TTCK).
Do đó, một khi cổ phần hóa các NHTMNN, việc phát hành trái phiếu và cổ phiếu ra thị trường của các Ngân hàng này sẽ có ý nghĩa hết sức quan trọng: một mặt nó góp phần tăng các loại hàng hóa trên TTCK, thúc đẩy TTCK phát triển ngày càng mạnh mẽ; mặt khác, nó là kênh dẫn vốn quan trọng cho các NHTMNN cho mục tiêu tăng trưởng của nền kinh tế.bên cạnh đó việc CPH NHTMNN vẫn tồn tại một số ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường chứng khoán nước ta, chúng ta cùng tìm hiểu những ảnh hưởng đó thông qua quá trình cổ phần hóa của NH VIETCOMBANK:
2.5.1 Ảnh hưởng tích cực.
Nó làm tiền đề cho sự thành công của việc CPH các NHTM nhà nước
Qua việc CPH VIETCOMBANK, Chính phủ có thể rút ra những bài học kinh nghiệm để làm tốt hơn khi cổ phần hóa của ngân hàng thương mại quốc doanh còn lại nói riêng cũng như những doanh nghiệp nhà nước lớn còn lại.
Cổ phần hóa thành công VIETCOMBANK sẽ tạo cho thị trường chứng khoán một khối lượng hàng hóa đáng kể, là hàng hóa có chất lượng cao, có thể thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài có tầm cỡ nhưng chưa quan tâm đến thị trường chứng khoán Việt Nam. Trước đây, thị trường chứng khoán Việt Nam với vi mô nhỏ và ít hàng hóa có chất lượng nên không thu hút được các nhà đầu tư lớn từ nước ngoài.
Tăng lượng cung hàng hóa ra thị trường cũng góp phần làm giảm nhiệt cho thị trường chứng khoán. Đồng thời giúp cho thị trường tăng trưởng ổn định và bền vững.
Nhà đầu tư có thêm hàng hóa để lựa chọn trong danh mục đầu tư của mình.
Sau khi cổ phần hóa VIETCOMBANK, hầu hết các loại cổ phiếu đã trở về với giá trị thực của nó, tạo điều kiện cho nhà đầu tư có nhiều cơ hội để tiếp cận được với thị trường chứng khoán.
Đấu giá cổ phần của VIETCOMBANK là đợt đấu giá lớn và quy mô nhất từ trước đến nay. Sở giao dịch chứng khoán TP HCM đã chấp thuận cho 62 công ty chứng khoán làm đại lí nhận lệnh cho VIETCOMBANK, nhiều gấp 4-5 lần so với thường lệ.
IPO Vietcombank sẽ tác động lớn đến thị trường. Cán cân cung cầu 97.5000.000/122.127.200
Cổ phiếu là một tỉ lệ quá lí tưởng và cuộc đấu giá đã thành công. Một ngân hàng thương mại thuộc hàng lớn nhất Việt Nam phát hành và niêm yết cổ phiếu sẽ tác động lớn đến thị trường. Trên lĩnh vực chưa niêm yết Vietcombank sẽ tác động đến giá cổ phiếu OTC và thị trương OTC. Đặc biệt, giá Vietcombank IPO thành công sẽ là mức giá chuẩn để xác định lại giá cổ phiếu OTC của các ngân hàng, ổn định lại cổ phiếu ngan hàng và thị trường OTC. Với giá đấu giá cao nhất 191.000 đồng là một kết quả rất khả quan.
Tạo ra một mặt bằng giá mới cho ngành tài chính- ngân hàng: lâu nay, thị trường đi tìm kiếm một chuẩn mực để qua đó xác định giá trị cổ phiếu, nhưng chưa tìm ra, chưa có. Có thể nói, hôm nay Vietcombank sẽ đảm nhận sứ mệnh này, sẽ làm lại, tạo ra chuẩn mực cho thị trường, mà giai đoạn này là thị trường OTC, đặc biệt là cổ phiếu ngành ngân hàng. Hơn nữa, khi Vietcombank niêm yết sẽ có tác động lớn đến chỉ số VN-Index, với vai trò dẫn dắt thị trường. Có lẽ đây là sự kiện được trông chờ nhất vào năm 2008 trên thị trường tài chính Việt Nam.
Cổ phiếu ngân hàng lên hương: ngay sau khi có tin giá khởi điểm của Vietcombank trong khoảng 90.000-120.000 đồng, giá một cổ phiếu ngân hàng cả trên thị trường chính thức lẫn OTC đã nhích lên trong các phiên giao dịch sau đó. Nhà đầu tư đổ xô mua cổ phiếu STB của ngân hàng Sài Gòn Thương tín và cổ phiếu ACB của ngân hàng Á Châu. Hiệu ứng ngay lập tức lan sang chợ OTC. Các công ty chứng khoán cho biết lượng giao dịch cổ phiếu ngân hàng đã có dấu hiệu cải thiện rõ nét. Tuy nhiên, IPO của Vietcombank có thể chỉ tác động ngắn hạn tới giá trị cổ phiêu ngân hàng. Sau IPO này, đặc biệt là tới thời điểm phải nộp tiền mua VCB, giá sẽ lại giảm xuống.
Thị trường hưng phấn trở lại vì Vietcombank, nhà đầu tư hứng khởi hơn: những thông tin không chính thức về kết quả đăng kí đấu giá Vietcombank đã tạo ra những tác động trên thị trường. Thông tin về việc đấu giá Vietcombank chắc chắn sẽ ở mức thấp tạo một tâm lí khá hưng phấn đối với nhiều nhà đầu tư.
2.5.2. Tác động tiêu cực
Do việc cổ phần hóa Vietcombank tiến hành trong một thời gian khá dài, trên thị trường xuất hiện nhiều thông tin ko chính thức về giá cổ phiếu Vietcombank, làm nhà đầu tư hoang mang. Vì thế hầu hết nhà đầu tư đều ở trạng thái phòng thủ để bảo toàn vốn dẫn đến thị trường chứng khoán bị điều chỉnh giảm khá sâu vào 3 tháng cuối năm 2007. Điều đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc tiến hành cổ phần hóa cũng như là niêm yết của doanh nghiệp. Giá đấu giá bình quân của Vietcombank là 107.860 đồng là quá thấp so với mong đợi của nhà đầu tư, làm cho nhà đầu tư giảm đi sự phấn khích và kì vọng về sự lên giá của chứng khoán mà mình đang nắm giữ, do đó, họ quyết đinh bán chứng khoán trong danh mục đầu tư của mình nhằm tránh rủi ro. Điều đó làm cho lượng cầu chứng khoán trong ngắn hạn giảm còn lượng cung thì tăng vọt, dẫn đến thị trường điều chỉnh sâu thêm.
Với số lượng trên 95 triệu cổ phiếu Vietcombank tương ứng với 10.000 tỉ đồng là một con số không nhỏ, nó tạo thêm sự chênh lệch trong cán cân cung cầu vốn.
Thị trường điều chỉnh sâu, điều đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước cũng như việc niêm yêt của các doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa.
IOP chậm ảnh hưởng đến trái chủ của Vietcombank: các trái chủ của Vietconbank trong danh sách chốt ngày 25/12/2007 sẽ được mua ưu đãi cổ phiếu. Từ thời điểm này đến khi Vietcombank công bố kết thúc thời hạn chuyển đổi, trái chủ ko được chuyển nhượng trái phiếu cũng như quyền ưu đãi mua cổ phiếu. Giá chuyển đổi sẽ là mức đấu thành công bình quân của một đấu giá. Trái chủ có thể bị ảnh hưởng nhỏ do ngày chốt danh sách trái chủ là 25/12/2007, song Vietcombank cần một tháng để xác định giá bình quân thực tế và đến ngày 25/1/2008 trái phiếu mới được chuyển đổi. Lãnh đạo ngoại thương khẳng định, việc này do IPO chậm so với kế hoạch, chứ ngân hàng không chủ ý sắp sếp làm ảnh hưởng đến trái chủ. Nếu các trái chủ Vietcombank chuyển đổi nhận cổ phiếu chậm, thời gian hưởng cổ tức có thể bị ảnh hưởng và cổ đông sẽ tiếp tục hưởng lãi suất trái phiếu thay vì cổ tức. Hơn nữa, trong trường hợp cổ phiếu Vietcombank hút hàng sau IPO, những trái chủ nhân cổ phiếu chậm có thể mất đi cơ hội giao dịch.
Vỡ mộng IPO Vietcombank đối với tổ chức công đoàn theo qui định của chính phủ (tại nghi đinh 109/2007/NĐ-CB về việc chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần) có quy đinh về công đoàn được mua 3% vốn điều lệ, đây là mong mỏi của người lao động, các công đoàn doanh nghiệp. Nếu mua được số cổ phần này, không chỉ công đoàn có thêm nguồn thu để nâng cao đời sống người lao động, mà cùng với khối lượng cổ phần người lao động được nắm giữ, công đoàn có cô hội tham gia hội đồng quản trị đưa ra những quyết sách có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người lao động. Thế nhưng, khi đi vào thực tế thì công đoàn chợt nhận ra họ chẳng có nhiều tiền như thế để mua cổ phiếu. Tổ chức công đoàn được sử dụng nguồn quĩ hợp pháp của mình (không huy động, vay vốn) để mua cổ phần, nhưng không quá 3% vốn điều lệ. Số cổ phần này tổ chức công đoàn không được chuyển nhượng, giá mua bằng 60% mức giá trúng thầu bình quân. Lấy mức giá trúng thầu trung bình của Vietcombank là 100.000 đồng/ 1 cổ phiếu, thì số tiền mà tổ chức công đoàn này chuẩn bị để mua là 3% X 15.000 tỉ đồng X 100.000đồng X 60% =2.700 tỉ đồng. Tuy nhiên, nhìn lại quĩ công đoàn thì số thu không đủ để chi hoạt động thường xuyên của tổ chức công đoàn. Một số chi phí, tổ chức công đoàn phải xin hỗ trợ từ chuyên môn. Bởi vậy, mặc dù rất mong ngóng, lấy ý kiến từ người lao động đến ngày Vietcombank IPO, song trong đợt phát hành này công đoàn cũng đành … ngồi xem. Đây cũng là xu thế tất yếu đối với các tổ chức công đoàn của Ngân hàng Công Thương, Ngân hàng Đầu tư
2.5.3. một số đề xuất hạn chế tác động tiêu cực
Doanh nghiệp cần có những công bố chính thức để đính chính những thông tin sai lệch làm nhiễu loạn thông tin, gây hoang mang cho nhà đầu tư.
Doanh nghiệp nhà nước trước khi cổ phần hóa thì phải công bố thông tin rộng rãi và kế hoạch cổ phần hóa.
Ủy ban chứng khoán nhà nước cần có kế hoạch sắp xếp lên sàn của các doanh nghiệp, tránh ồ ạt lên sàn theo phong trào ở những tháng cuối năm, dẫn đến việc bội thực của thị trường. điều tiết IPO theo chiều hướng có lợi cho ngân hàng: sau Vietcombank, ba ngân hàng quốc doanh khác cũng đang lên lịch chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng (IPO). Thị trường suy thoái một phần nguyên nhân là sự tăng hàng một cách ồ ạt (các doanh nghiệp đua nhau phát hành cổ phiếu tăng vốn, thêm nhiều doanh nghiệp lên sàn, các công ty nhà nước cũng lên lịch IPO). Các ngân hàng chuẩn bị IPO: Ngân Hàng Công Thương, Ngân Hàng Đầu tư và Phát triển và Ngân Hàng Phát Triển nhà Đồng Bằng sông Cửu Long chọn thời điểm IPO thích hợp. Đó là lúc thị trường thuận lợi, nhằm đem lại lợi ích cao hơn cho chính phủ và bản thân Ngân hàng.
Chương 3: GIẢI PHÁP
3.1 KIẾN NGHỊ
3.1.1. Đẩy nhanh tiến độ ban hành các văn bản pháp quy trực tiếp điều chỉnh quá trình cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước:
Sự thiếu vắng các văn bản trực tiếp điều chỉnh vấn đề cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước khiến cho các ngân hàng thương mại nhà nước cũng như các chủ thể có liên quan rất lúng túng trong việc tiến hành cổ phần hóa ngân hàng. Việc áp dụng các văn bản pháp lí điều chỉnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là cần thiết nhưng các ngân hàng thương mại nhà nước có những đặc thù riêng và đòi hỏi phải có những quy định dành riêng cho quá trình cổ phần hóa các ngân hàng đó.
Để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước theo đúng kế hoạch và mong muốn của Đảng và Nhà nước, cần phải tích cực ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh các vấn đề nảy sinh trong quá trình cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước.
3.1.2. Về vấn đề xử lí nợ tồn đọng:
Việc xử lí nợ xấu cũng như là kiểm soát không để nợ xấu phát sinh của ngân hàng thương mại nhà nước khi cổ phần hóa không được như mong muốn, đặc biệt khi thực hiện phân loại nợ theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước.
Để có thể xử lí dứt điểm các khoản nợ xấu thì cần phải ban hành các quy phạm pháp luật xác định rõ các tiêu chí phân loại nợ và kết quả phân loại nợ phải được xác định kết hợp theo cả hai tiêu chí định lượng và định tính. Theo đó, nợ xấu không chỉ được xác định dựa trên tiêu chí quá hạn về thời gian của các khoản vay mà còn phải xác định dựa vào khả năng chi trả của khách hàng.
Tuy nhiên, việc quy định như vậy vẫn là chưa đủ. Điều quan trọng để các ngân hàng thương mại thực hiện được theo quy định như vậy thì phải có các cơ chế quy định định rõ về việc cung cấp thông tin của các khách hàng vay tiền. Môi trường thông tin minh bạch ở đây đóng vai trò rất quan trọng, đặc biệt là các thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp, khách hàng, chất lượng hoạt động của hệ thống kiểm toán độc lập, của hệ thống kiểm soát nội bộ của các ngân hàng.
Để xử lí nợ xấu và tăng cường năng lực tài chính cho các ngân hàng thương mại nhà nước, cần thực hiện các giải pháp làm sạch bảng cân đối tài sản của ngân hàng. Trước hết, cần bổ sung quy định hỗ trợ nguồn tài chính cho các ngân hàng trích lập đủ dự phòng để có thể bù đắp những tổn thất có thể xảy ra khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Sau đó, chuyển nhượng các khoản nợ xấu cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có đủ khả năng và thẩm quyền xử lí nợ.
Đối với các khoản nợ xấu của các doanh nghiệp nhà nước, có thể xử lí theo hướng ngân hàng thương mại nhà nước chuyển sang cho Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của Bộ tài chính (DATC) để tiếp tục theo dõi, xử lí theo thẩm quyền. Còn các khoản nợ của các tổ chức, cá nhân khác, ngân hàng thương mại nhà nước được phép bán nợ cho DATC hoặc các doanh nghiệp, cá nhân có đủ năng lực tài chính( kể cả các tổ chức, cá nhân nước ngoài) thông qua tổ chức đấu giá công khai.
Đối với các khoản nợ xấu cho vay theo chỉ định, chương trình, kế hoạch của nhà nước thì ngân hàng thương mại nhà nước có thể thỏa thuận để bán nợ cho DATC, Quỹ hỗ trọ phát triển, Ngân hàng Chính sách hoặc các tổ chức có chức năng mua bán nợ khác. Đối với những khoản nợ xấu của các doanh nghiệp mà ngân hàng không chuyển giao cho công ty mua bán nợ và các tổ chức cá nhân khác thì cần có có cơ chế để ngân hàng có thể chủ động áp dụng các biện pháp cơ cấu lại tài chính và hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy sẽ giúp cho tình hình nợ xấu của ngân hàng được giải quyết tốt hơn.
3.1.3. Về vấn đề cơ cấu sở hữu vốn điều lệ:
Cổ phần hóa được xem là cơ hội cũng như là sức ép tạo động lực cho các ngân hàng thương mại nhà nước tự chủ trong kinh doanh. Rất nhiều bài học kinh nghiệm cho thấy việc cổ phần hóa ồ ạt là nguyên nhân dẫn đến sự thất thoát lớn tài sản của Nhà nước, phá vỡ hệ thống cấu trúc của nền kinh tế. Điều đó sẽ càng đặc biệt nghiêm trọng khi lĩnh vực cổ phần hóa là lĩnh vực tài chính ngân hàng. Vai trò chi phối của Nhà nước trong ngân hàng sau cổ phần hóa là cần thiết để giữ vững và phát huy vai trò của các ngân hàng thương mại nhà nước trong nền kinh tế. Tuy nhiên, cũng cần phải hiểu rằng khi thực hiện cổ phần hóa, tuy hình thức sở hữu có sự thay đổi nhất định nhưng vai trò chủ đạo của Nhà nước tại ngân hàng vẫn được đảm bảo. Vấn đề không chỉ dừng lại ở đó, mục tiêu lớn hơn là làm sao để các ngân hàng thương mại nhà nước sau cổ phần hóa không bị lâm vào tình trạng “ bình mới rượu cũ” mà còn phải phát huy phát huy tốt hơn vai trò chủ đạo của mình trong việc triển khai thực hiện chính sách tiền tệ của quốc gia dưới một cơ chế quản lý phù hợp hơn. Vì vậy, giải pháp đặt ra là nhất thiết Nhà nước phải nắm giữ 51% vốn điều lệ để đảm bảo vai trò chi phối của mình nhưng không phải đối với tất cả các ngân hàng thương mại nhà nước cổ phần hóa. Nhà nước chỉ nên nắm giữ cổ phần chi phối tập trung ở một hoặc hai ngân hàng để nâng cao năng lực tài chính và phát triển nó trở thành ngân hàng thương mại lớn ngang tầm các đối thủ cạnh tranh trong khu vực và quốc tế. Làm như vậy Nhà nước sẽ giảm bớt được áp lực cho ngân sách khi phải dàn trải cho các ngân hàng mà vẫn đảm bảo được rằng các chính sách tiền tệ của mình vẫn được thực hiện. Mặc dù vậy, cũng cần phải lưu ý là trong việc Nhà nước không nắm cổ phần chi phối ở các ngân hàng còn lại phải được thực hiện theo từng giai đoạn.
Bên cạnh đó, cần có các quy định khuyến khích các nhà đầu tư tham gia mua cổ phần của ngân hàng thương mại nhà nước, đặc biệt là các nhà đầu tư chiến lược. Các nhà đầu tư chiến lược thường là các định chế tài chính lớn trên thế giới, có kinh nghiệm và uy tín, có tiềm lực tài chính mạnh, khả năng quản lí tốt, trình độ công nghệ tiến tiến. Hợp tác với các nhà đầu tư chiện lược thì ngoaif sự hỗ trợ về tài chính, các ngân hàng thương mại nhà nước sẽ được hỗ trợ về cung cách quản lí và trình độ công nghệ. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động kinh doanh và phát triển dài hạn. Việc có được các nhà đầu tư trong hội đồng quản trị ngân hàng sau cổ phần sẽ là một đảm bảo rất lớn đối với công chúng về độ tin cậy của ngân hàng.
3.1.4. Về vấn đề xác định giá trị ngân hàng:
Những khó khăn gặp phải trong việc định giá tài sản ngân hàng là do các ngân hàng thương mại nhà nước có hệ thống cồng kềnh, quy mô dàn trải, một phần rất lớn các tài sản đã và đang được đầu tư không chỉ ở thị trường trong nước mà còn tại thị trường quốc tế. Chất lượng tài sản phụ thuộc nhiều vào tình hình kinh doanh, chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp vay vốn( cụ thể là khả năng trả nợ của khách hàng). Mặt khác, một lí do nữa là tài sản vô hình của các ngân hàng là loại tài sản rất khó xác định và ngày càng đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của ngân hàng.
Kiến nghị ở đây là: Một là, nên thu gọn bộ máy tổ chức, giải thể hoặc sáp nhập các đơn vị thành viên hoạt động kém hiệu quả, đồng thời tiến hành hạch toán tài chính dứt điểm đối với các đơn vị đó, chuyển toàn bộ nợ xấu cho các tổ chức xử lí nợ. Bên cạnh đó, để xử lí tình trạng nợ tồn đọng quá lớn ở các ngân hàng thương mại nhà nước, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước cần ban hành các văn bản pháp lí quy định rõ trách nhiệm buộc các doanh nghiệp nhà nước phải chủ động xử lí những tồn tại về tài chính. Tránh trường hợp các doanh nghiệp nhà nước vay vốn ngân hàng và dồn lại cho đến khi cổ phần hóa để được Nhà nước xử lí trừ vào vốn Nhà nước, tạo ra gánh nặng cho ngân sách Nhà nước cũng như các ngân hàng thương mại nhà nước.
Hai là, có quy định rõ ràng về việc mời các tổ chức tài chính lớn và có kinh nghiệm xác định giá trị ngân hàng, đảm bảo tính công khai và độc lập. Khi xác định giá trị ngân hàng thương mại nhà nước thì cần phải xem xét đầy đủ các yếu tố như chất lượng tài sản, tỷ lệ nợ xấu, hiệu quả kinh doanh thông qua các chỉ tiêu ROA, ROE, nghĩa vụ về các khoản nợ, thu nhập của người lao động, công nghệ ngân hàng, sản phẩm dịch vụ cung cấp. Tránh tình trạng định giá cao theo ý chí của các nhà đầu tư hay định giá thấp gây thất thoát tài sản của Nhà nước. Cần phải tính đến các lợi thế của ngân hàng như mạng lưới hoạt động rộng khắp, đã chiếm lĩnh phần lớn thị phần tại các thanh phố lớn và các khu vực kinh tế năng động, thương hiệu của các ngân hàng đã được khẳng định…Sau đó, tập hợp các nhân tố như đã nêu lập giá khung rối đưa ra hội thảo lấy ý kiến của các chuyên gia, các nhà phân tích, các nhà thẩm định để xác định giá trị tài sản trước khi tiến hành cổ phần hóa.
3.1.5. Về vấn đề phát hành trái phiếu tăng vốn:
Việc phát hành trái phiếu tăng vốn là rất cần thiết nhằm nâng cao năng lực tài chính của ngân hàng thương mại nhà nước để thực hiện chương trình cổ phần hóa. Tuy nhiên, trong quá trình phát hành trái phiếu tăng vốn như đã trình bày ở trên có nhiều hạn chế khiến cho các nhà đầu tư phải gánh chịu nhiều rủi ro, gây ảnh hưởng xấu đối với uy tín của ngân hàng cổ phần hóa. Để khắc phục tình trạng đó, cần bổ sung quy định khi các ngân hàng thương mại nhà nước phát hành trái phiếu tăng vốn thì cần phải có văn bản nói rõ về những đặc điểm của loại trái phiếu này. Các thông tin về trái phiếu phải được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên trang ưeb chính thức của ngân hàng cũng như trong bản cáo bạch.
Mặt khác, cần quy định rõ về việc phát hành trái phiếu tăng vốn của ngân hàng thương mại nhà nước theo hướng xích lại gần hơn với các thông lệ quốc tế cả về chuẩn mực lẫn cách thức phát hành. Các ngân hàng thương mại nhà nước phải có các giải pháp hỗ trợ đảm bảo tính thanh khoản của tría phiếu như ủy quyền cho các công ty chứng khoán mua hoặc bán trái phiếu làm tăng giao dịch tại thị trường, thành lập một bộ phận tại công ty chứng khoán có chức năng hỗ trợ, chắp nối các nhà đầu tư có nhu cầu mua và bán trái phiếu. Các trái phiếu này sẽ được lưu kí và giao dịch trên thị trường chứng khoán và sẽ trở thành cơ hội đầu tư hấp dẫn cho các nhà đầu tư. Việc phát hành trái phiếu tăng vốn thành công trái phiếu tăng vốn sẽ giúp cho các ngân hàng thương mại cổ phần nâng tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn, đảm bảo khả năng cân đối nguồn vốn để đầu tư trung và dài hạn.
3.1.6. Về vấn đề xử lí tài chính của ngân hàng:
Để các ngân hàng thương maị nhà nước tiến hành xử lí tài chính tốt trước khi cổ phần hóa, cần phải ban hành các quy định tạo ra sự phối hợp chặt chẽ giữa ngân hàng, khách hàng cũng như với các cơ quan chức năng của nhà nước trong việc xử lí các tài sản của ngân hàng thương mại. Có cơ chế bắt buộc khách hàng phải hợp tác khi ngân hàng có yêu cầu xử lí tài sản. Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng nhà nước cũng phải có trách nhiệm trong việc xử lí tài sản của ngân hàng.
Ngoài ra, cần phải sửa đổi cơ chế hoạt động của Tổ chức xử lí nợ quốc gia DATC theo hướng tạo điều kiện để tiếp cận và khai thác thông tin đánh giá các khoản nợ, không đặt vấn đề bảo toàn vốn và có lợi nhuận làm nguyên tắc hoạt động cho các tổ chức xử lí nợ mà thay vào đó, yêu cầu các tổ chức xử lí nợ phải tối đa hóa giá trị thu hồi để giảm thiểu gánh nặng ngân sách mà Chính phủ phải bỏ ra để hỗ trợ cho chương trình xử lí nợ tồn đọng. Mặt khác, cũng phải sửa đổi các quy định không phù hợp trong các văn bản pháp luật điều chỉnh vấn đề cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước mà đề cao quyền lợi của các doanh nghiệp nhà nước hơn là quyền lợi của ngân hàng cho vay vốn khiến cho các doanh nghiệp nhà nước nảy sinh tâm lí ỷ lại vào việc xử lí nợ của nhà nước mà không chủ động giải quyết các khoản nợ trước khi cổ phần hóa, nhất là các khoản nợ vay của ngân hàng thương mại nhà nước nhằm giảm nhẹ gánh nặng cho các ngân hàng thương mại nhà nước khi xử lí tài chính.
3.1.7. Về vấn đề lực chọn tổ chức tư vấn cổ phần hóa:
Mặc dù đã có rất nhiều quy định khá chặt chẽ về việc lựa chọn tổ chức tư vấn cổ phần hóa cho các ngân hàng thương mại nhà nước nhưng vấn đề này vẫn gặp phải nhiều khó khăn do sức ép về thời gian và chi phí thuê tổ chức tư vấn. Về vấn đề này, cần phải hiểu rõ rằng cổ phần hóa là một quá trình phức tạp, không thể vì nóng vội mà ép tiến độ để rồi chất lượng cổ phần hóa không được đảm bảo. Chính vì vậy, các văn bản điều chỉnh quá trình cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước nên loại bỏ những quy định mang tính thúc ép về mặt thời gian để việc lựa chọn các tổ chức tư vấn đảm bảo diễn ra theo đúng mong muốn. Việc chọn ra các tổ chức tư vấn vừa đáp ứng được những tiêu chuẩn khắt khe lại vừa có chi phí thấp và trong một thời gian ngắn là rất khó mà thực hiện được. Đồng thời, cũng cần có quy định đề cao vai trò của ngân hàng thương mại trong việc lựa chọn ra tổ chức tư vấn bởi chính các ngân hàng thương mại( là những đối tượng của quá trình cổ phần hóa cũng như chính là khách hàng của các tổ chức tư vấn) là người hiểu rõ hơn ai hết nhu cầu của mình và vấn đề làm việc với các tổ chức tư vấn sẽ diễn ra thuận lợi hơn.
3.1.8. Về vấn đề huy động vốn của ngân hàng:
Huy động vốn để tăng cường năng lực tài chính của ngân hàng là một nhu cầu tất yếu thế nhưng do quy mô nhỏ bé mà các ngân hàng thương mại nhà nước lại gặp nhiều khó khăn trong vấn đề này. Để có thể tăng cường năng lực tài chính, pháp luật cần có cơ chế cho các ngân hàng thương mại nhà nước thực hiện tốt việc tăng vốn tự có và nâng cao chất lượng tài sản cũng như tăng khả năng sinh lời.
Ngân hàng thương mại nhà nước có thể tiến hành tăng vốn tự có thông qua nhiều phương pháp. Đó là phát hành trái phiếu tăng vốn và phát hành trái phiếu quốc tế. Trái phiếu tăng vốn là một loại giấy tờ có giá phát hành nhằm nâng cao năng lực tài chính của ngân hàng. Trái phiếu có các kì hạn dự kiến là 10, 12 hoặc 15 năm với lãi ssuất hấp dẫn. Việc phát hành các trái phiếu đó sẽ giúp cho ngân hàng huy động một nguồn vốn đáng kể từ thị trường trong nước. Ngoài ra, ngân hàng cũng có thể phát hành trái phiếu quốc tế sau khi được sự chấp thuận của Bộ Tài chính. Để trai phiếu quốc tế thực sự trỏ nên hấp dẫn và tiếp cận thị trường quốc tế thành công thì cần có các quy định pháp luật khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng các định mức tín dụng từ các tổ chức tín dụng uy tín trên thế giới cũng như xúc tiến thành lập trng tâm đấu giá tín dụng tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, cần có thêm những quy định tăng cường các biện pháp kiểm soát chặt chẽ của của ngân hàng trước, trong và sau khi cho vay. Theo đó, các ngân hàng thương mại nhà nước giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn của khách hàng dùng đúng mục đích hay không, quản lí vốn đầu tư có hiệu quả hay không. Đồng thời, thắt chặt việc thực hiện quy trình tín dụng. Mặt khác, các ngân hàng thương mại nhà nước cũng phải chú trọng tới việc định kì gia hạn nợvà gia hạn nợ phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh cũng như thời gian thi công các công trình. Tập trung thu hồi nợ đến hạn và nợ quá hạn, nợ đã xử lí rủi ro, kiên quyết chuyển nợ quá hạn đối với khách hàng đến hạn trả nợ nếu không có lí do chính đáng để gia hạn nợ…Tất cả những điều đó sẽ giúp nâng cao chất lượng tài sản của ngân hàng. Qua đó, góp phần nâng cao năng lực tài chính của ngân hàng rong bối cảnh mà việc huy động vốn được xem là một giải pháp “đắt đỏ”.
Để quá trình cổ phần hoá được thành công,BIDV kiến nghị chính phủ giao cho BIDV,được chủ động xây dựng phương án cổ phần hoá báo cáo NHNN, để NHNN phối hợp với các cán bộ ngành và chính phủ xem xét, quyết định phương án cổ phần hoá, giao cho BIDV được chủ động xây dựng phương án lựa chọn đối tác nước ngoài có uy tín, kinh nghiệm theo hình thức chỉ định thầu, báo cáo trình cấp có thẩm quyền phê duyệt để thực hiện tư vấn quá trình cổ phần hoá cho BIDV như tư vấn về quy trình và xây dựng phương án cổ phần hoá, xác định giá trị doanh nghiệp, lựa chọn đối tác chiến lược và bán cổ phần lần đầu;cho phép BIDV được áp dụng quy trình cổ phần hoá theo quy định và có xét đến đặc thù của tổ chức tín dụng, của BIDV và có tham khảo, vận dụng chuẩn mực và thông lệ quốc tế nhằm đáp ứng tính minh bạch và cạnh tranh cao nhất, mang lại giá trị tốt nhất cho cổ phần hoá.
3.2 GIẢI PHÁP
Với vai trò huyết mạch của nền kinh tế, sự ổn định và phát triển của hệ thống NH có ý nghĩa hết sức quan trọng để thúc đẩy và duy trì sự phát triển của ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh do đó một bước đi của NH mà cụ thể là của các NHTMNN sẽ ảnh hưởng mạnh đến “sức khoẻ” của nền kinh tế. Trong điều kiện hiện nay CPH NHTMNN là con đường đúng đắn để VN đủ khả năng hoà mình vào điều kiện mới để phát triển. Tuy nhiên CPH NHTMNN thành công không chỉ là đảm bảo đúng tiến trình mà điều quan trọng nhất là CPH NHTMNN để nâng cao khả năng cạnh tranh, chủ động phát triển không bị sức mạnh của các đối tác trong yêu cầu hội nhập đẩy nền kinh tế VN xuống dốc và mất thị phần. Vì vậy các giải pháp CPH NHTMNN phải bao trùm nhiều khía cạnh như hiện đại hoá NHTMNN, nâng cao năng lục cạnh tranh… tuy nhiên dưới đây em chỉ xin đề cập đến một số giải pháp gắn liền đến yêu cầu CPH hiện nay.
3.2.1. Về cơ chế pháp lý điều chỉnh hoạt động:
Ngân hàng Nhà nước trình Quốc hội nghiên cứu điều chỉnh bổ sung loại hình NHTM CPH trong loại hình các TCTD làm cơ sở pháp lý thực hiện.
Là ngân hàng có yếu tố vốn đầu tư nước ngoài nên sẽ chịu điều chỉnh bởi Luật các TCTD và Luật đầu tư nước ngoài.
3.2.2. Về cơ chế quản trị ngân hàng:
Phải xây dựng được cơ chế quản lý của Hội đồng quản trị theo hướng nâng cao quyền lực. Theo đó, Hội đồng quản trị được quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với Tổng giám đốc điều hành; bộ phận kiểm soát và kiểm toán nội bộ ngân hàng hoạt động độc lập với Ban điều hành, chỉ trực thuộc Hội đồng quản trị, từ đó mới phát huy được vai trò hoạt động của Kiểm soát và kiểm toán nội bộ. Quy định một số quyền hạn nhất định của các cổ đông nước ngoài trong việc tham gia các quyết sách hoạt động của ngân hàng.
Xây dựng được các chuẩn mực quốc tế về quy trình nghiệp vụ quản trị rủi ro, quản lý tín dụng hiện đại, quản lý tài sản nợ-có, quản lý đầu tư, quy trình kiểm toán nội bộ….
3.2.3. Xác định giá trị thực tế ngân hàng:
Trong quá trình thực hiện CPH điều quan trọng là xác định giá trị thực tế ngân hàng để đưa giá bán cổ phần cho phù hợp, người mua và người bán có thể chấp nhận được. Tiến hành thí điểm và mở rộng bán đấu giá cổ phần lần đầu thông qua thị trường chứng khoán. Trong giai đoạn đầu, có thể nghiên cứu bán cổ phần không chi phối cho các nước có thực lực kinh tế phát triển mạnh để thu hút nhanh vốn.
3.2.4. Xây dựng lộ trình phát triển theo mục tiêu chiến lược của NH được CPH:
Trên cơ cơ sở mục tiêu chiến lược đã được định hướng, cần thiết phải xây dựng lộ trình phát triển hoạt động cho ngân hàng được CPH như sau :
- Từ năm 2006 đến 2010: Phải đạt một số chuyển biến lớn về cơ sở hạ tầng, nguồn vốn, phát triển các loại hình sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại. Phát triển mạng lưới văn phòng đại diện và chi nhánh hoạt động ở nước ngoài, hình thành một NHTM mạnh có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
- Từ năm 2010: Hoạt động NHTM theo chuẩn mực quốc tế kể cả về vốn, quản lý, công nghệ thông tin, đáp ứng nhu cầu về vốn và thanh toán chủ yếu của nền kinh tế, đồng thời khẳng định vai trò nhất định trên thị trường tài chính khu vực và quốc tế.
3.2.5. Cổ phần hoá gắn với niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán:
Sau khi cổ phần hoá, cổ phiếu của các NH sẽ được đưa lên sàn giao dịch, để giá trị cổ phiếu được giao dịch công khai và phản ảnh đúng giá trị .
Đòi hỏi phát triển thị trường chứng khoán của VN phải lớn mạnh, xứng đáng là sàn giao dịch công bằng, bình đẳng, minh bạch, hiệu quả cho các nhà đầu tư. Để đạt được điều đó, thị trường chứng khoán VN cần thực hiện một số biện pháp sau:
° Về cơ sở pháp lý: Thị trường chứng khoán VN chưa thực sư là một kênh vốn dài hạn của nền kinh tế, do đó cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý phù hợp với tình hình thực tiễn của TTCK VN cũng như với thông lệ của các TTCK lớn trên thế giới. Đó là :
Phải sớm xây dựng và ban hành Luật chứng khoán, hoàn chỉnh các văn bản pháp quy về thuế, phí, chế độ theo hướng thông thoáng hơn nhằm khuyến khích các chủ thể tích cực tham gia thị trường.
Trong thời gian trước mắt chưa có Luật chứng khoán, Uỷ ban chứng khoán nhà nước cần phối hợp với Bộ kế hoạch và đầu tư xây dựng và trình Chính phủ Nghị định về quản lý, phát hành và giao dịch chứng khoán chưa niêm yết. Bên cạnh đó, cần phải ban hành thêm các hướng dẫn cụ thể về niêm yết cổ phiếu ngân hàng.
° Cần gắn liền việc niêm yết trên thị trường chứng khoán với việc CPH ngân hàng: Việc đưa vào quy định pháp lý ngay từ đầu các điều khoản yêu cầu các doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết khi cổ phần hoá phải tổ chức bán đấu giá và niêm yết ngay trên thị trường chứng khoán. Điều này sẽ tạo ra một thói quen cho NH khi CPH với việc minh bạch và công khai hoá thông tin ngay từ đầu.
Có như vậy TTCK sẽ góp phần đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá NHTMNN thông qua việc thực hiện thành công việc bán cổ phần của các NHTMNN cổ phần hoá. Và một khi cổ phiếu ngân hàng được niêm yết trên TTCK thì sẽ có một khối lượng hàng hoá lớn được niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán, tạo nên sự sôi động trên TTCK và chắc chắn TTCK VN sẽ tiến lên một bước.
KẾT LUẬN
Cổ phần hóa NHTMNN là chủ trương đúng đắn của Đảng và nhà nước ta. Qua quá trình cổ phần hóa, người LĐ mới gắn kết quyền sở hữu tài sản và quyền sử dụng tài sản. Có như vậy, hiệu quả sử dụng vốn, tài sản nhà nước mới được nâng cao.
CPH NHTMNN là vấn đề tương đối phức tạp và mất nhiều thời gian. Bởi lẽ, đây là doanh nghiệp NN được xếp hạng đặc biệt, có quy mô vốn lớn, hoạt đông của các NHTMNN tác động rất lớn đến sự phát triển chung của nền kinh tế. Do đó, trước khi tiến hành CPH NHTMNN cần phải xác định chính xác vốn nhà nước, xác định giá trị thương hiệu của ngân hàng và cuối cùng là xác định giá khởi điểm để tiến hành IPO cổ phiếu trên thị trường.
Với khả năng điều hành nền kinh tế của chính phủ, sự can thiệp kịp thời của NHTMNN VN vào hoạt động của thị trường chứng khoán chắc chắn IPO của các NHTMNN sẽ thành công. Đồng thời, sự xuất hiện cổ phiế của các NHTMNN sẽ tác động tích cực đến hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Tóm lại, trong bối cảnh hội nhập, tương lai mở cửa ngân hàng không còn xa, yêu cầu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, phát triển công nghệ và đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, nâng cao khả năng cạnh tranh là một yêu cầu sống còn đối với các ngân hàng. Cổ phần hóa sẽ tạo ra động lực buộc các ngân hàng phải tìm cách nâng cao hiệu quả hoạt động và hội nhập thành công. Vấn đề đặt ra ở đây là phải giải quyết được những tồn tại trong quá trình cổ phần hóa và vạch ra hướng đổi mới cho ngân hàng sau cổ phần hóa để có thể phát huy được vai trò chủ đạo của mình trong các chính sách tiền tệ của quốc gia và góp phần thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế đất nước.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tiểu luận thị trường tài chính (ảnh hưởng của thị trường chứng khoán đến nhtm việt nam).docx