Hồi ký Tô Hoài hấp dẫn người đọc bởi sự
chân thật của một ngòi bút có bản lĩnh. Nó thể
hiện một khả năng ghi nhận cuộc sống vừa rõ
nét vừa sâu sắc, thể hiện một cách nhìn cuộc
đời vừa giản dị vừa thâm thuý.Viết hồi ký,
Tô Hoài luôn tôn trọng sự thật khách quan.
Không chỉ nói cái hay, cái tốt, ông không
ngần ngại "lộn trái" tất cả để người đọc thấy
rõ hơn cả cái xấu, cái dở, cái sa sút. đã từng
có lúc xuýt đẩy ông và một số bạn bè xuống
bùn đen ô trọc. Ông kể lại từng bước cuộc vật
lộn để vượt lên chính mình, để ngày càng đến
gần hơn cái "chất người" chân chính và chất
nghệ sĩ chân chính của ông và của những
người thuộc thế hệ ông. Cũng với cách nhìn
đó, Tô Hoài giúp người đọc có được cái nhìn
thật hơn, gần hơn và đầy đủ hơn về nhiều
"cây đại thụ" của văn chương Việt Nam hiện
đại như Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân,
Nguyên Hồng, Xuân Diệu.Với những cá tính
rất riêng và những tài năng khác nhau, họ
thực sự là những "nhân vật lớn" làm nên lịch
sử văn học dân tộc trong một thời kỳ nhiều
thử thách nhưng họ cũng thật nhỏ nhoi với
những số phận riêng, với những buồn vui lận
đận đời thường của "những mảnh đời" nhiều
gian truân vất vả.
6 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 356 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Có một dõng sông văn chương như thế!, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đào Thủy Nguyên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 67 - 72
67
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
CÓ MỘT DÕNG SÔNG VĂN CHƯƠNG NHƯ THẾ!
Đào Thủy Nguyên
Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Có một dòng sông văn chương đêm ngày thao thiết chảy giữa hai bờ buồn vui của đời sống. Đó là
dòng sông văn chương của nhà văn Tô Hoài. Chín mươi năm đời người với bảy mươi năm đời
viết, Tô Hoài đó để lại cho nền văn học nước nhà một khối lượng tác phẩm đồ sộ: trên 160 đầu
sách và hàng nghìn bài báo. Tô Hoài được coi là "cây bút hàng đầu của nền văn học thiếu nhi Việt
Nam", ông cũng là "cây đại thụ" của làng văn Việt Nam hiện đại. Với ý thức "chuyên sâu vào
những thực tế nhất định", Tô Hoài đó "thâm canh" và gặt hái được nhiều thành công ở nhiều mảng
sáng tác lớn: truyện viết cho thiếu nhi, truyện về làng quê, truyện về miền núi, truyện hồi ức kỷ
niệm. Dòng sông văn chương Tô Hoài đó và sẽ còn đem phù sa bồi đắp tâm hồn các thế hệ bạn
đọc hôm nay và mai sau.
Từ khóa: Tô Hoài, đời văn, đóng góp, truyện viết cho thiếu nhi, truyện viết cho người lớn.
*Trong đời sống văn học Việt Nam hiện đại
có một dòng sông văn chương đêm ngày thao
thiết chảy giữa hai bờ buồn vui của cuộc đời.
Dòng sông ấy lặng lẽ đem phù sa bồi đắp cho
bờ bãi, đem nước mát tưới tắm cho cây trái,
đem trải nghiệm của đời sống làm giàu có và
phong phú cho đời sống tinh thần con người
thời đại. Ấy là dòng sông văn chương của nhà
văn Tô Hoài. Chín mươi năm đời người với
bảy mươi năm đời viết, Tô Hoài đã đi qua thế
kỷ XX đầy biến động bằng tài năng và bản
lĩnh riêng, và rồi lại ung dung tự tại bước vào
thế kỷ XXI. Không lạc thời, không yếm thế,
không cạn nguồn văn, ông vẫn múa bút trên
văn đàn với những trang viết bậc thầy làm
sững sờ người đọc. Chữ nghĩa cứ nhẹ nhõm,
giản dị như không mà sức nặng văn chương
thì chưa hẳn đã dễ bề cân đo, đong đếm.
Tuổi đời của nhà văn Tô Hoài là của "trời
cho" nhưng tuổi viết thì một phần quan trọng
là do sự luyện rèn, sự cần mẫn chi chút của
ông trong nghề nghiệp mà có. Với Tô Hoài,
sống và viết là cuộc song hành không ngừng
nghỉ. Sống để viết và còn viết là còn sống.
Viết để tham dự vào cuộc đời, viết để một lần
nữa được sống hết mình, được sẻ chia với
những buồn vui của con người thời đại... Viết
trở thành một nhu cầu tự thân, thành nghiệp
* Tel: 0915 954 188;
Email: thuynguyen_tn2007@yahoo.com.vn
dĩ đeo đuổi Tô Hoài từng ngày từng giờ. Giấc
ngủ chưa thể chế ngự được ông nếu như ngày
hôm ấy nhà văn chưa thêm vào gia tài văn
chương của mình một vài trang viết nhỏ. Sự
dẻo dai, bền bỉ và ý thức lao động nghệ thuật
nghiêm túc đã đem đến cho Tô Hoài một khối
lượng tác phẩm đồ sộ với trên 160 đầu sách
và hàng nghìn bài báo. Cho đến nay, chưa có
một nhà văn Việt Nam nào vượt qua được Tô
Hoài về con số kỷ lục này. Nhưng điều đáng
nói là: Những trang viết của ông đã đến và ở
lại trong lòng độc giả. Bạn đọc yêu mến Tô
Hoài không chỉ bởi số lượng trang viết dầy
dặn mà còn bởi cái chất văn, giọng văn và
cảm quan nghệ thuật đặc sắc của ông. Văn
chương Tô Hoài như một dòng sông. Dòng
sông ấy có cái ban sơ trong lành của tuổi ấu
thơ hồn nhiên, mộng ảo; có cái thi vị, lắm
đam mê, nhiều khát vọng của tuổi trẻ và tình
yêu. Và giờ đây, nhiều hơn cả là cái gập
ghềnh, trăn trở của những trải đời, trải người,
thông tỏ mọi lẽ hay - dở, được -mất trong cõi
đời nhiều bất trắc này. Đọc văn Tô Hoài, ta sẽ
gặp một con người, sẽ hiểu một cuộc đời và
từ đó ta sẽ gặp nhiều con người, nhiều cuộc
đời khác, sẽ hiểu thêm, sẽ thương hơn, buồn
hơn và cũng tự hào hơn về một thời đại với
nhiều thăng trầm biến đổi, nhiều hạnh phúc
và cả đớn đau. Lịch sử dân tộc Việt Nam, lịch
sử tâm hồn con người Việt Nam trong thế kỷ
XX đầy biến động được Tô Hoài ghi lại bằng
cái nhìn vừa tỉnh táo vừa say mê, bằng một
trái tim vừa nhiệt thành vừa đau đáu những
Đào Thủy Nguyên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 67 - 72
68
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
suy tư khắc khoải... vì thế, nó tìm được đông
đảo người tri ngộ.
Văn Tô Hoài hướng tới cả hai đối tượng: trẻ
em và người lớn. Khác với nhiều cây bút xem
việc viết cho trẻ em chỉ là công việc "tay
trái". Với Tô Hoài, viết cho thiếu nhi là một
niềm say mê không hề nản mỏi. Tô Hoài viết
cho thiếu nhi từ tuổi hai mươi, đến nay đã
chín mươi mùa xuân ông vẫn miệt mài với
những trang cổ tích dành cho tuổi nhỏ.
Trước Cách mạng, Tô Hoài đã có nhiều
truyện đồng thoại hấp dẫn và có nội dung tiến
bộ viết cho trẻ em: Dế mèn phiêu lưu ký, Võ
sĩ bọ ngựa, Đám cưới chuột, Ngọn cờ
lau...Tô Hoài thường viết về những loài vật
nhỏ bé, gần gũi và gắn bó với sinh hoạt của
người dân quê. Đó là những hình ảnh ẩn dụ
về người nông dân Việt Nam. Những cá trê,
cá chép, những gà ri, gà chọi, những mèo,
chó, chuột, rồi dế mèn, dế trũi... trong sáng
tác của Tô Hoài thường làm cho người đọc
liên tưởng đến chuyện của con người. Không
cao giọng lên gân, không màu mè kiểu cách,
giản dị mà thấm thía, truyện loài vật của Tô
Hoài gợi cho các em những liên tưởng kín đáo
mà sâu xa về nhiều vấn đề của xã hội loài
người: về thân phận con người, về hạnh phúc
cá nhân, về nhân sinh nhân thế... Truyện cho
trẻ em, vì thế, mà cũng vô cùng hấp dẫn đối
với người lớn.
Sau hoà bình, Tô Hoài vẫn hóm hỉnh và tinh
tế khi viết truyện loài vật, nhưng ông còn bộc
lộ thêm những tài năng mới khi khai thác nội
dung những câu chuyện thần thoại, truyền
thuyết làm đề tài cho những tác phẩm dài hơi
của mình. Bộ ba tiểu thuyết: Đảo hoang,
Chuyện nỏ thần, Nhà Chử là những đóng
góp mới của Tô Hoài cho nền văn học thiếu
nhi Việt Nam. Sáng tạo lại truyện cổ tích là
một xu hướng mới của văn học Việt Nam từ
sau 1975. Đây là hướng đi cần thiết đáp ứng
nhu cầu tinh thần của lứa tuổi thiếu niên - lứa
tuổi đang khao khát vén tấm màn huyền thoại
để hiểu biết sự thật về cuộc sống của cha ông
ta ngày xưa. Trên cơ sở các sự kiện đã được
tái hiện trong tích cổ, Tô Hoài đã phát huy
cao độ trí tưởng tượng phong phú và huy
động một cách tài tình nhiều vốn sống tiềm ẩn
của mình làm sống lại cả một thời kỳ dựng
nước của dân tộc với những nhân vật đã đi
vào huyền thoại như An Dương Vương, Mị
Châu, Trọng Thuỷ... Ở tuổi ngoài 80, tâm hồn
Tô Hoài vẫn còn rất trẻ. Năm 2004, ông trình
làng tập sách 101 truyện ngày xưa, rồi sau đó
tách, in thành 10 cuốn truyện tranh đẹp mắt.
Giữa lúc truyện tranh nước ngoài đang chiếm
ưu thế trên giá sách thiếu nhi, những truyện
cổ tích được sáng tạo lại của Tô Hoài vẫn tạo
được sức hút riêng với lứa tuổi măng non.
Truyện thiếu nhi của Tô Hoài quả là món quà
quý cho lứa tuổi măng non. Chúng giúp cho
các em có thêm những hiểu biết mới mẻ và
thú vị về nhiều lĩnh vực của đời sống, góp
phần bồi đắp cho trí tưởng tượng của các em
bay cao bay xa, mang đến cho các em những
bài học giản dị mà sâu sắc về nhiều vấn đề
quan trọng của cuộc sống và con người.
Tô Hoài được coi là cây bút hàng đầu của nền
văn học thiếu nhi Việt Nam, ông cũng là "cây
đại thụ" của làng văn Việt Nam hiện đại. Với
ý thức "chuyên sâu vào những thực tế nhất
định"(1), Tô Hoài đã thâm canh và gặt hái
được nhiều thành công ở nhiều mảng sáng tác
lớn: truyện về làng quê, truyện về miền núi,
truyện hồi ức kỷ niệm.
Tô Hoài sinh ra, lớn lên và gắn bó thân thiết
với một làng quê nghèo có nghề dệt lụa thủ
công truyền thống. Những con người cần lao
chất phác và những mảnh đời khốn cùng, tang
thương đã trở thành một phần máu thịt và tâm
hồn ông. Rất tự nhiên, ông viết về làng quê
mình như một nhu cầu tự thân, như một khát
khao hối thúc.
Trong sáng tác của Tô Hoài trước Cách mạng
(các tiểu thuyết: Quê người, Giăng thề và
nhiều truyện ngắn như: Nhà nghèo, Buổi
chiều ở trong nhà, Nhà có ma, Mùa ăn chơi,
Khách nợ, Một người đi xa về, Một chuyến
định đi xa, Lá thư tình đầu tiên, Ông giăng
không biết nó...), làng quê không hiện lên với
những xung đột xã hội gay gắt như trong sáng
tác của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan hay
Nam Cao. Làng quê trong sáng tác của Tô
Hoài được miêu tả chân thực như nó vốn có
giữa hai bờ buồn - vui của cuộc đời thường
nhật. ở đó có cả nỗi buồn và niềm vui, có
những số phận hẩm hiu nhưng cũng có những
điều may mắn, có những "mùa ăn chơi" vui
Đào Thủy Nguyên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 67 - 72
69
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vẻ và đáng tự hào, có những phong tục tập
quán đẹp, những phong cảnh nên thơ trữ tình,
những ước mơ và khát vọng của tuổi trẻ...
nhưng nhiều hơn cả trong những năm tháng tối
tăm nhất của lịch sử dân tộc vẫn là những cảnh
đời điêu đứng, những số phận bất hạnh, những
chuyện đau buồn lỡ dở, cùng túng xót xa ...
Ngòi bút Tô Hoài thiên về những cảnh đời
thường, những buồn vui đời thường của
những con người bé nhỏ. Trong thời kỳ văn
học được đánh giá theo quan điểm giai cấp,
cách viết này bị xem là thiếu tính chiến đấu.
Giờ đây, theo cách nhìn khách quan, toàn
diện ta có thể nhận ra chiều sâu tư tưởng từ
những câu chuyện đời thường vụn vặt của Tô
Hoài. Biết bao vấn đề về thân phận con người,
về vận mệnh đất nước, về tương lai dân tộc và
nhân loại được đặt ra một cách kín đáo thông
qua những nghiền ngẫm suy tư của nhà văn
trên nền tảng những câu chuyện đời thường.
Trong những năm kháng chiến chống Pháp,
do bận rộn với công tác đoàn thể và có
những chuyển hướng mới trong sáng tạo
nghệ thuật, Tô Hoài phải tạm gác lại mảng
sáng tác này. Từ hoà bình lập lại, ông có
điều kiện trở về với đề tài cũ và lại có những
khám phá, những sáng tạo không ngừng trên
một hiện thực không còn mới với ông và các
bạn văn cùng thời.
Tiểu thuyết Mười năm ra đời năm 1958 với
những cố gắng mới của Tô Hoài nhưng không
ngờ lại bị phê phán gay gắt, bị liệt vào loạt tác
phẩm "có vấn đề". Vậy "vấn đề" là ở chỗ nào?
Mười năm bộc lộ cả chỗ mạnh và chỗ yếu
của ngòi bút Tô Hoài. Tác phẩm khái quát cả
một thời kỳ lịch sử quan trọng của một vùng
quê dệt lụa từ thời kỳ mặt trận dân chủ cho
đến khi cách mạng thành công. Từ đó, tác giả
muốn chỉ ra con đường vận động cách mạng
của những người dân nghèo vùng ven thành.
Nhưng ý đồ đó của ông chưa được thể hiện
bằng những trang viết có sức thuyết phục.
Quá trình chuyển biến cách mạng của một
làng quê nghèo với những mâu thuẫn, những
biến cố, những quá trình hợp quy luật của sự
vận động cách mạng chưa được phản ánh sâu
sắc, còn nông cạn và thiếu sót nhiều mặt.
Nguyên nhân của những non yếu này có lẽ là
ở vấn đề vốn sống, ở sự hiểu biết chưa thật
đầy đủ của Tô Hoài về thực tiễn đấu tranh
cách mạng. Tuy nhiên, Tô Hoài lại có những
trang viết đầy sinh sắc khi viết về những buồn
vui thường nhật của người dân quê trong
những chuyển động của đời sống xã hội. Rõ
ràng là ở mảng sống Tô Hoài đã "thuộc", đã
trải, luôn luôn nhà văn tìm được những cảm
hứng sáng tạo mới, giàu sức thuyết phục.
Năm 1978, tiểu thuyết Quê nhà ra đời tiếp
tục mạch sáng tác về đề tài làng quê. Tác
phẩm dựng lại không khí lịch sử khi thực dân
Pháp bắt đầu đặt chân lên đất Hà thành. Như
một cuốn phim quay chậm, người đọc được
chứng kiến những phản ứng nhạy bén và
quyết liệt, những biện pháp chống phá kẻ thù
giản đơn mà có hiệu quả của những người dân
nghèo vùng ven thành.
Với bộ ba tiểu thuyết: Quê nhà, Quê người,
Mười năm và những truyện ngắn xuất sắc về
đề tài làng quê, Tô Hoài đã giúp người đọc có
cái nhìn chân thực và đầy đủ hơn về cuộc
sống và con người nơi thôn quê Việt Nam
trong những năm tháng dân tộc ta phải chịu
ách áp bức bóc lột nặng nề nhất của cả đế
quốc, thực dân và phong kiến.
Trong khi Tô Hoài tự đánh giá mặt mạnh của
mình là ở mảng sáng tác về đề tài làng quê thì
lại có nhiều ý kiến cho rằng: Phần đóng góp
quan trọng và thành công nhất trong sáng tạo
nghệ thuật của Tô Hoài là những tác phẩm
viết về miền núi. Tô Hoài được coi là người
có công đầu trong việc "khai khẩn vùng đất
mới" này và đã có được những thành tựu
quan trọng. Tuy nhiên, để có được những
trang viết sinh động và giàu chất hiện thực,
Tô Hoài đã phải trải qua một quá trình phấn
đấu, rèn luyện trên nhiều mặt.
Trong hai tập truyện ngắn viết những năm
đầu kháng chiến chống Pháp (Núi cứu quốc -
1948 và Xuống làng - 1951), ta bắt gặp
những trang văn đẹp và khá chân thực về đất
nước và con người miền núi: Khung cảnh núi
rừng Việt Bắc tuy hoang sơ, khó khăn còn
nhiều nhưng không hiếm nét thi vị, thơ mộng;
Con người Việt Bắc còn lạc hậu, tăm tối
nhưng hồn nhiên, nghĩa tình, chân thành và
chung thuỷ... Tuy nhiên, sau này nhìn lại
những trang viết ấy, Tô Hoài cũng nhận thấy:
Đào Thủy Nguyên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 67 - 72
70
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
nhiều chỗ ông còn biểu hiện thái độ "quá
chuộng lạ, thích lạ, thích khoe chữ"(2)
Trong quá trình thâm nhập thực tế, Tô Hoài
ngày càng có ý thức gắn bó với miền núi. Ông
"ba cùng" với đồng bào các dân tộc miền núi
để học tiếng của họ, học cách nghĩ của họ.
Ông còn nhận thêm những công tác đoàn thể
thích hợp ở các địa phương. Phương pháp làm
việc ấy dần tạo điều kiện cho ông đi sâu vào
bản chất của các sự việc và con người, tránh
được những cảm xúc vội vã và những quan
sát chủ quan. Cuối những năm kháng chiến
chống Pháp, sau chuyến đi thực tế dài ngày
lên vùng đồng bào các dân tộc miền Tây, Tô
Hoài trả "món nợ lòng" với miền núi bằng tập
Truyện Tây Bắc (1953). Tác phẩm được trao
giải nhất Giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt
Nam 1954 - 1955 này đã đánh dấu bước
chuyển quan trọng trong sáng tạo nghệ thuật
của Tô Hoài. Tác phẩm được đánh giá cao trên
cả hai phương diện: nội dung và nghệ thuật.
Truyện Tây Bắc là bản cáo trạng chứa chất
hờn căm đối với bọn chúa đất phong kiến,
bọn thực dân xâm lược - những kẻ bạo tàn đã
vùi dập sắc đẹp, phá nát tình yêu, hạnh phúc
và cướp đoạt sức lao động của nhân dân bằng
mọi thủ đoạn hiểm độc. Tác phẩm cũng thể
hiện một cách thuyết phục bằng hình tượng
nghệ thuật quá trình thức tỉnh cách mạng của
đồng bào miền núi dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Đứng về phía khát vọng hạnh phúc của
con người, nhà văn đã tố cáo xã hội bất công
và tàn bạo; đã cảm thông và bênh vực những
số phận bất hạnh trong cuộc đời. Nhà văn
cũng thể hiện thái độ trân trọng, nâng niu vẻ
đẹp tâm hồn của những con người bị áp bức,
niềm tin vào sức sống bất diệt của con người,
vào khả năng phản kháng lại thực tại đen tối
để thực hiện khát vọng hạnh phúc của những
người dân lao động miền núi.
Truyện Tây Bắc hấp dẫn người đọc bởi những
khám phá sâu sắc và tinh tế về thế giới tâm hồn
nhân vật. Đặc biệt, tác phẩm lôi cuốn người đọc
bởi chất thơ đậm đà trong sáng toát ra từ nội
dung tác phẩm, từ khát vọng tự do hạnh phúc
của nhân dân lao động miền núi, từ tâm hồn
trong sáng hồn hậu của các nhân vật, và từ
những bức tranh về thiên nhiên, về sinh hoạt
phong tục của đồng bào miền núi Tây Bắc.
Nếu Truyện Tây Bắc miêu tả thành công quá
trình vận động cách mạng của đồng bào miền
núi Tây Bắc trong cách mạng dân tộc dân chủ
thì Miền Tây (xuất bản năm 1967, nhận giải
thưởng "Hoa sen" của Hội nhà văn Á - Phi
năm 1972) lại đặt ra được nhiều vấn đề quan
trọng của các dân tộc vùng cao trong những
năm đầu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Miền Tây thêm một lần nữa khẳng định thành
công của Tô Hoài ở đề tài miền núi.
Với tình cảm yêu mến thiết tha và gắn bó
chân thành với đất nước và con người miền
núi, với tài năng ngày thêm chín muồi, Tô
Hoài đã tạo nên những trang viết vừa giàu
chất lãng mạn vừa đậm chất hiện thực về một
vùng đất giàu đẹp nhưng còn ít được khai phá
và về những con người hiền lành, chất phác,
chân thành, chung thuỷ. Tô Hoài đã đem đến
cho người đọc những hiểu biết mới mẻ về
miền núi. Ông truyền cho chúng ta niềm
yêu thương, sự cảm thông, cảm phục và trân
trọng trước vẻ đẹp của đất nước và con
người vùng cao.
Tô Hoài bắt đầu viết hồi ký từ tuổi 20. Từ
Cỏ dại (1944) đến nay ông còn có thêm
nhiều tập hồi ký đặc sắc khác như: Tự
truyện (1978), Cát bụi chân ai (1992),
Chiều chiều (1999)...
Cỏ dại là những trang ký ức buồn về một
tuổi thơ tẻ nhạt và lam lũ trong dòng chảy trôi
chậm chạp và tù đọng của xã hội Việt Nam
những năm tiền cách mạng. Tự truyện viết
tiếp những hồi ức về tuổi học trò nghịch
ngợm nhưng đã sớm thấm thía nỗi buồn
chung của thế hệ, của dân tộc. Tiếp theo là
những trang viết về tuổi thanh niên lăn lóc
kiếm sống, rồi những ngày thất nghiệp ê chề
và sau đó là những tháng năm say sưa với
công tác đoàn thể khi đã tìm thấy lý tưởng
cho cuộc đời mình.
Hai tác phẩm ra đời những năm 90 của thế kỷ
XX tập trung vào những kỷ niệm gắn bó với
bạn bè đồng nghiệp trên những hành trình của
đường đời Tô Hoài (Tô Hoài công dân và Tô
Hoài nhà văn). Đó là những giọt sống của một
con người đã từng gắn bó tha thiết với cuộc
đời, với thời đại... Ba người khác (2007)
tiếng là tiểu thuyết nhưng "có thể coi là một
Đào Thủy Nguyên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 67 - 72
71
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
mảng ký ức trong cuộc đời nhà văn Tô
Hoài"(3). Qua cái nhìn của người trong cuộc,
hiện thực đến tàn nhẫn về những sai lầm của
Cải cách ruộng đất đã được phơi bày. "Chính
những giày vò, trăn trở, khổ tâm từ những
thảm trạng kinh hồn của Cải cách ruộng đất
thuở nào vẫn âm ỉ, dền réo ngày một nặng
hơn qua chặng đường dài - là dưỡng chất tạo
nên tác phẩm này"(4).
Hồi ký Tô Hoài hấp dẫn người đọc bởi sự
chân thật của một ngòi bút có bản lĩnh. Nó thể
hiện một khả năng ghi nhận cuộc sống vừa rõ
nét vừa sâu sắc, thể hiện một cách nhìn cuộc
đời vừa giản dị vừa thâm thuý...Viết hồi ký,
Tô Hoài luôn tôn trọng sự thật khách quan.
Không chỉ nói cái hay, cái tốt, ông không
ngần ngại "lộn trái" tất cả để người đọc thấy
rõ hơn cả cái xấu, cái dở, cái sa sút... đã từng
có lúc xuýt đẩy ông và một số bạn bè xuống
bùn đen ô trọc. Ông kể lại từng bước cuộc vật
lộn để vượt lên chính mình, để ngày càng đến
gần hơn cái "chất người" chân chính và chất
nghệ sĩ chân chính của ông và của những
người thuộc thế hệ ông. Cũng với cách nhìn
đó, Tô Hoài giúp người đọc có được cái nhìn
thật hơn, gần hơn và đầy đủ hơn về nhiều
"cây đại thụ" của văn chương Việt Nam hiện
đại như Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân,
Nguyên Hồng, Xuân Diệu...Với những cá tính
rất riêng và những tài năng khác nhau, họ
thực sự là những "nhân vật lớn" làm nên lịch
sử văn học dân tộc trong một thời kỳ nhiều
thử thách nhưng họ cũng thật nhỏ nhoi với
những số phận riêng, với những buồn vui lận
đận đời thường của "những mảnh đời" nhiều
gian truân vất vả.
Hồi ký của Tô Hoài chiêm nghiệm lại những
hay - dở, được - mất của một thời đã qua
trong những thăng trầm của dòng chảy lịch sử
bằng một thứ văn đan xen nhiều giọng: khi
khách quan lạnh lùng, khi nồng ấm tình
nghĩa, khi xót xa trầm lắng, khi hài hước
châm biếm... Nhưng, ôn hoà và trầm tĩnh là
giọng điệu chủ của các tác phẩm. Giọng điệu
ấy cùng với tài chọn lọc chi tiết để dựng cảnh,
dựng không khí và tài thiết kế những cuộc đối
thoại ngắn nhưng lại có khả năng mở ra rất
rộng trường liên tưởng cho người đọc... đã
khiến cho hồi ký của Tô Hoài đi được vào
những mạch ngầm của đời sống. Người đọc
có thể tìm hiểu và nắm bắt được không chỉ là
tính cách, là sở trường sở đoản của những
nhân vật tầm cỡ trong làng văn - những con
người "thuộc về một thế hệ đặc biệt, đứng
chân trên hai thời kỳ lịch sử"... mà còn hình
dung được khá đầy đủ diện mạo, không khí
(chính trị và xã hội) với những tiếng khóc
tiếng cười, những suy nghĩ, những quan niệm,
những ràng buộc, những cách hành xử đúng -
sai "vừa ngây thơ vừa nghiệt ngã" của một
thời quá khứ "hiu hắt và vất vả".
Ở vào "cái tuổi triền núi bên này" - theo cách
nói của Tô Hoài, từng là người chứng kiến,
cũng là người trực tiếp tham dự vào những
biến động chính trị quan trọng của lịch sử dân
tộc suốt già nửa thế kỷ, hồi ký của Tô Hoài
được viết ra như một lời nhắn gửi tha thiết,
một lời tâm sự chân thành, hay là những
chiêm nghiệm, những sám hối xót xa về biết
bao vấn đề nhân sinh và thế sự... của một nhà
Đào Thủy Nguyên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 67 - 72
72
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
văn vừa tâm huyết với nghề nghiệp vừa tha
thiết gắn bó với cuộc đời và con người.
Với hồi ức kỷ niệm, Tô Hoài muốn qua mình
để hiểu người, hiểu đời, từ chiêm nghiệm bản
thân mà luận bàn một cách kín đáo về các vấn
đề nhân sinh, thế sự. Đọc hồi ký của Tô Hoài
ta hiểu thêm về con người, về tài năng của
nhà văn, cũng hiểu hơn về mình, về con
người và cuộc sống quanh mình. Mảng truyện
hồi ức kỷ niệm của Tô Hoài thực sự có giá trị
văn chương và giá trị lịch sử. Nó sẽ là tài liệu
quý hiếm cho những ai muốn tìm hiểu con
người, cuộc đời và văn chương Việt Nam ở
thế kỷ XX đầy biến động.
Có thể ví Tô Hoài như "con dao pha" trong
lĩnh vực văn xuôi. Ông có thể viết và viết hay
ở tất cả các thể tài văn xuôi, nhưng thế mạnh
của Tô Hoài là ở hồi ký và tự truyện (chất hồi
ký và tự truyện dường như còn phảng phất
trong tất cả mọi sáng tác của Tô Hoài). ở các
sáng tác này xuất hiện một cái tôi - người kể
chuyện - thông minh, hiểu mình và hiểu
người, hiện diện ở nhiều vị trí khác nhau: lúc
là người trong cuộc, lúc là một nhân chứng...
Điểm nhìn linh hoạt này giúp người kể
chuyện vừa có điều kiện nhìn ra bên ngoài
vừa có khả năng nhìn vào chính mình, tạo
được sự liên thông cần thiết, tránh được cái
nhìn cực đoan một phía. Giọng điệu ôn hoà,
trầm tĩnh của người kể chuyện hiểu biết và
tôn trọng sự thật khách quan làm nên sức
thuyết phục của văn xuôi Tô Hoài.
Với 70 năm trên hành trình sáng tạo nghệ
thuật, Tô Hoài đã có những đóng góp quan
trọng cho nền văn học hiện đại nước nhà.
Sáng tác của ông ở cả hai thời kỳ trước và sau
Cách mạng đã phản ánh nhiều sự kiện lịch sử
quan trọng của đất nước, đi sâu vào nhiều vấn
đề của đời sống và tạo được những giá trị
thẩm mĩ phong phú. Tác phẩm của Tô Hoài
thể hiện sự gắn bó thiết tha với quê hương đất
nước từ cảnh sắc thiên nhiên, phong tục sinh
hoạt cho đến truyền thống văn hoá, ngôn ngữ
dân tộc; thể hiện lòng yêu thương, tình cảm
thuỷ chung ân nghĩa đối với những người lao
động nghèo khổ mà thông minh, anh dũng ở
khắp mọi miền của Tổ quốc. Có thể khẳng
định rằng: Dòng sông văn chương Tô Hoài đã
và sẽ còn đem phù sa bồi đắp cho tâm hồn các
thế hệ bạn đọc hôm nay và mai sau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1],Trần Hoàng Hoàng, Nhà văn Tô Hoài luôn
luôn phải sống trong thực tế, Văn nghệ Trẻ số
20(547) ra ngày 20-5-2007
[2] Tô Hoài, Sổ tay viết văn , Nxb Tác phẩm mới
1977
[3], [4] Nxb Đà Nẵng, Lời giới thiệu tiểu thuyết
Ba người khác của Tô Hoài.
A LITERARY RIVER!
Dao Thuy Nguyen
2
College of Education – Thai Nguyen University
SUMMARY
There is a literary river which has been continually flowing between the sorrow and joy banks of
the daily life. It is the literary river of the writer To Hoai. After ninety years of his lifetime and
seventy years of his literary career, To Hoai has given born to a considerable amount of works:
more than 160 novels and books and thousands of newspaper articles. He is not only considered to
be “the leading writer of Vietnam literature for children” but also “the great and oid tree” of
Vietnam contemporary literature. With a sense of “focusing on concrete reality”, To Hoai has
exerted himself and achieved success in many literary genres: stories for children, stories on rural
areas and memoirs. The literary river named To Hoai has been continually enriching souls of
contemporary and future readers.
Key words: To Hoai, literature life, contribution, chidren’s story, adult story
2 Tel: 0915 954 188; Email: thuynguyen_tn2007@yahoo.com.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_3839_9784_comotdongsongvanchuongnhuthe_1122_2052820.pdf