Mạng lưới chợ của tỉnh Tiền Giang hình thành từ
khá lâu, gắn liền với lịch sử ra đời của các chợ làng,
chợ xã và mang dấu ấn riêng. Quá trình hình thành
và phát triển mạng lưới chợ ở địa bàn Tỉnh cũng gắn
liền với truyền thống buôn bán của dân cư và có tác
động trực tiếp đến đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân tỉnh nhà. Vì thế, chợ đóng vai trò như
một tấm gương phản chiếu sự phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, phong tục tập quán của người dân
Tiền Giang.
Trên cơ sở nghiên cứu ban đầu, người viết đã giải
mã một số nét chính về văn hóa chợ ở Tiền Giang.
Đó là các kiểu họp chợ đa dạng (trên đất liền, trên
sông nước); cách thức vận chuyển hàng hóa phong
phú; nguyên tắc đo lường mang tính phóng khoáng;
những tín ngưỡng, phong tục tập quán, kiêng kỵ
trong kinh doanh, mang dấu ấn đặc trưng của địa
phương. Đồng thời, hệ thống tên chợ ở Tiền Giang
còn phản ánh những giá trị hiện thực vùng đất Tiền
Giang qua các mặt: địa lý, ngôn ngữ, lịch sử.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của tác giả sẽ bổ
sung thêm vào nguồn tài liệu tham khảo,
nghiên cứu về các hình thức mua bán, trao đổi
hàng hóa truyền thống trong lĩnh vực văn hóa
thương nghiệp của tỉnh Tiền Giang.
7 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 359 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chợ ở Tiền Giang nhìn từ góc độ văn hóa học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 88 – 94
88
CHỢ Ở TIỀN GIANG NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HÓA HỌC
Võ Văn Sơn1
1Trường Đại học Tiền Giang
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 04/11/2016
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
04/01/2017
Ngày chấp nhận đăng: 12/2017
Title:
Markets in Tien Giang
regarding perspectives of
cultural studies
Keywords:
Market, products, South of
Vietnam, Tien Giang, culture
Từ khóa:
Chợ, hàng hóa, Nam Bộ,
Tiền Giang, văn hóa
ABSTRACT
Markets in Tien Giang have unique images because of being associated with the
rivers like floating markets selling vegetables and farm products or some
markets are located in the center of villages but near the river in order to
transport goods conveniently. This paper presents various cultures of Tien
Giang Market, including market networks, sales methods, measurement,
transportation, religious practices, and taboo of the market system in Tien
Giang.
TÓM TẮT
Chợ ở Tiền Giang có hình thái độc đáo gắn liền với sông nước, từ chợ nổi tấp
nập thuyền ghe bán rau quả và nông sản trên sông đến các chợ nằm ở vị trí
trung tâm làng xã gần bến sông, để thuận tiện chuyên chở hàng hóa. Bài báo
giới thiệu những nét chính về văn hóa chợ của Tiền Giang: Tổng quan về mạng
lưới chợ; Các kiểu họp chợ; Phương thức mua bán, đo lường, vận chuyển hàng
hóa; Tập quán tín ngưỡng, kiêng kỵ của hệ thống chợ ở Tiền Giang.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chợ (1) là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, tiêu thụ
hàng hóa, nhằm giải quyết các nhu cầu trong đời sống
hàng ngày của người dân. Chợ cùng với những hoạt
động của mình đã gắn chặt với tâm thức của
người dân Việt Nam. Bên cạnh “nhà”, “làng”,
“nước”, chợ trở thành một phần không gian văn
hoá theo suốt cuộc đời mỗi con người. Ngoài việc
trao đổi, mua bán, chợ còn là nơi giao lưu tình cảm anh
em, bạn bè, gia đình, chòm xóm. Có thể nói, chợ là tấm
gương phản chiếu sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
của cư dân ở một vùng, khu vực nhất định. Khách
phương xa, nếu muốn khám phá những nét thú vị, đặc
sắc về một vùng đất và con người nơi ấy thì không đâu
bằng nơi họp chợ. Câu nói cửa miệng “nhất cận thị, nhị
cận giang” (nhất gần chợ, nhì gần sông) hay “đem ra
chợ bán, đi ra chợ mua” đã trở thành một nét văn hóa
quen thuộc của người dân Nam Bộ.
Với vị trí đắc địa, điều kiện tự nhiên thuận lợi,
Tiền Giang đã sớm thu hút đông đảo lưu dân
người: Việt, Hoa, Chăm, Khmer,... đến định cư,
sinh sống lập nghiệp (Đỗ Thị Hảo, 2010) Sự phát
triển kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp, ngư
nghiệp tạo điều kiện cho sự trao đổi hàng hóa
giữa các lĩnh vực của địa phương. Hình thức trao
đổi các loại hàng hóa ấy diễn ra ở các tụ điểm
mua bán ở chợ. Chợ ở Tiền Giang có hình thái
độc đáo gắn liền với sông nước, từ chợ nổi tấp
nập thuyền, ghe bán rau quả và nông sản trên
sông, đến các chợ nằm ở vị trí trung tâm làng xã
gần bến sông, để thuận tiện chuyên chở hàng
hóa.
Chợ ở Tiền Giang ra đời và phát triển cùng với sự
hình thành làng xã. Ngay từ khi mới thành lập, chợ
ở Tiền Giang là nơi hội tụ dân cư nhiều nơi đến
mua bán nhộn nhịp. Vì thế, chợ ở Tiền Giang
không chỉ là là nơi mua bán mà còn là biểu tượng
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 88 – 94
89
văn hóa gắn liền với lịch sử phát triển của vùng đất
Tiền Giang.
Mặc dù đã có vài tác giả thực hiện một số công
trình, bài viết khác nhau về chợ ở Tiền Giang
nhưng hiện tại, vẫn chưa có công trình nào nghiên
cứu chợ ở Tiền Giang dưới góc độ văn hóa học. Vì
vậy, chọn nghiên cứu văn hóa chợ ở Tiền Giang
cũng là một phương cách để tác giả dự phần “giải
mã” các đặc trưng về: ngôn ngữ, lịch sử, kinh tế,
văn hóa, xã hội... của tỉnh nhà. Đồng thời, hy vọng
việc nghiên cứu này còn bổ sung một phần tư liệu
cho việc nghiên cứu chợ ở Nam Bộ nói chung.
Hình 1. Chợ Mỹ Tho thế kỷ XIX
(Ảnh chụp lại: Võ Văn Sơn)
Hình 2. Chợ Gò Công thế kỷ XIX
(Ảnh chụp lại: Võ Văn Sơn)
2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1 Mạng lưới chợ ở Tiền Giang
Do nhu cầu điều phối, trao đổi và mua bán hàng hóa
của nhân dân nên hệ thống chợ ở Tiền Giang đã sớm
hình thành và phát triển. Tác giả Nguyễn Phúc Nghiệp:
“Thống kê của Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành
thông chí thì đầu thế kỷ XIX, Tiền Giang có 6 chợ, đến
giữa thế kỷ XIX, có thêm 9 chợ nữa được thành lập,
nâng tổng số chợ ở Tiền Giang lên 15. Cuối thế kỷ
XIX, Tiền Giang có 42 chợ, được phân bố ở 155 làng.
Trong đó, có những chợ lớn như: chợ Mỹ Tho, chợ Gò
Công, chợ Thanh Sơn (Cai Lậy), chợ An Bình (Cái
Bè)... đóng vai trò quan trọng trong việc buôn bán, điều
phối nông sản hàng hóa của địa phương và cả khu vực”
(Nguyễn Phúc Nghiệp, 1998, tr. 174).
Năm 2015, Tiền Giang có 171 chợ nằm rải rác ở
khắp các xã, phường, thị trấn, thị xã và thành phố
(huyện Cái Bè: 35 chợ, huyện Cai Lậy: 29 chợ, huyện
Châu Thành: 18 chợ, huyện Chợ Gạo: 18 chợ, huyện
Gò Công Đông: 16 chợ, huyện Gò Công Tây: 17,
huyện Tân Phú Đông: 7 chợ, huyện Tân Phước: 6 chợ,
thị xã Cai Lậy: 10 chợ, thị xã Gò Công: 13 chợ và
thành phố Mỹ Tho: 12 chợ). Theo số điểm kinh doanh
tại chợ, hệ thống chợ được phân loại thành: 5 chợ hạng
I, 21 chợ hạng II và 145 chợ hạng III (Sở Công thương
Tiền Giang, 2015, tr. 4).
Mạng lưới chợ ở Tiền Giang phân bố khá đồng đều
giữa các huyện, thị, thành. Mỗi huyện, thị, thành
đều có một chợ tương đối lớn ở trung tâm. Ngoài
chợ trung tâm, mỗi huyện, thị, thành lại có nhiều
chợ ở các xã, phường, thị trấn và ấp. Nhiều chợ
mang tính chất vùng, có quy mô khá lớn và sầm uất
như: chợ Cái Bè, chợ Cai Lậy, chợ Mỹ Tho, chợ
Chợ Gạo, chợ Gò Công, đóng vai trò quan trọng
cho phát triển kinh tế và văn hóa, xã hội của tỉnh
nhà.
2.2 Các kiểu họp chợ ở Tiền Giang
Qua khảo sát 171 chợ, người nghiên cứu phân chia
kiểu họp của các chợ ở Tiền Giang thành hai hình
thức: chợ họp trên sông nước và chợ họp trên đất
liền.
Đa phần các chợ ở Tiền Giang đều họp trên mặt đất
(170/171 chợ). Vị trí của chợ thường ở nơi tập trung
dân cư đông đúc, là đầu mối giao thương của các
làng, xã, thị trấn, thị xã, thành phố. Tính chất chung
của chợ họp trên đất liền đó là nơi mua bán công
cộng, trao đổi hàng hóa, dịch vụ của cư dân địa
phương. Bởi ở đó, bất cứ ai có nhu cầu, đều có thể
đến để mua bán và trao đổi hàng hóa, dịch vụ với
nhau.
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 88 – 94
90
Các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch
vụ trên chợ thường được diễn ra theo quy luật và
chu kỳ, thời gian như chợ họp ban đêm hoặc ban
ngày, vào những ngày giờ nhất định, sao cho
thuận tiện việc mua bán, trao đổi hàng hóa. Thời
gian họp chợ được hình thành còn do nhu cầu
trao đổi hàng hóa, dịch vụ của từng vùng, hoặc
do địa phương quy định. Phần lớn, thời gian họp
chợ ở thành phố Mỹ Tho, thị xã Gò Công, thị xã
Cai Lậy kéo dài hơn các chợ ấp, chợ xã, thị
trấn ở nông thôn, vì số lượng dân cư đông đúc
và nhu cầu mua sắm của người dân cao. Nguyễn
Phúc Nghiệp từng ghi nhận: “Trong thế kỷ XVIII ở
Nam Bộ (có Tiền Giang) đã xuất hiện nhiều thị
tứ, nhiều tụ điểm buôn bán sầm uất, thể hiện
những ưu thế vượt trội của chợ họp trên đất liền”
(Nguyễn Thị Thoa, 2012, tr. 64). Vì thế, chợ họp trên
đất liền đã trở thành một bộ phận cấu thành rất
quan trọng của mạng lưới thương mại của tỉnh
nhà.
Bên cạnh đó, chợ nổi Cái Bè (thị trấn Cái Bè) là kiểu
họp chợ duy nhất trên sông nước (sông Tiền), được
hình thành từ hơn ba trăm năm trước. Tại chợ, người
bán và người mua đều dùng ghe, thuyền làm phương
tiện di chuyển, vận tải và trao đổi hàng hóa với nhau.
Thương lái của chợ nổi Cái Bè hoạt động với hai
hình thức: cố định và đi động. Dạng cố định là những
thương lái buôn bán hàng hóa tại chỗ trên xuồng ghe.
Dạng chợ lưu động là thương lái dùng xuồng ghe của
mình chở hàng đi bán ở khắp nơi trên sông, chủ yếu
cung cấp hàng hóa cần thiết hàng ngày cho người
dân sống ở ven sông và khách du lịch. Hàng hóa
buôn bán tại chợ nổi Cái Bè chủ yếu là nông sản
(bao gồm các loại trái cây, rau, củ, hoa, cây
cảnh).
Như vậy, buôn bán hoàn toàn bằng thuyền ghe
trên sông nước là đặc trưng nổi bật nhất của chợ
nổi ở Nam Bộ nói chung và Tiền Giang nói
riêng. Nó phản ánh yếu tố địa lý của vùng dày
đặc sông nước đã ảnh hưởng trực tiếp đến văn
hóa sinh hoạt trong đời sống vật chất của người
dân, ngay cả khi họ hoạt động mua bán, trao đổi
hàng hóa. Qua đó cho thấy, trong điều kiện địa
hình sông nước chằng chịt như ở Tiền Giang,
người dân vẫn có thể tận dụng và sáng tạo để làm
kinh tế và phát triển kinh tế một cách thuận lợi
nhất. Vì vậy, tác giả Nhâm Hùng cho rằng, “Một
ngôi chợ sung túc, hoàn chỉnh sẽ được cấu trúc
như sau: nhà lồng chợ - phố xá – bến sông.
Nhiều chợ lớn còn liền lạc với cầu cảng, cầu tàu,
kho bãi, nhà vựa” (Nhâm Hùng, 2009, tr. 15).
2.3 Phương thức mua bán, đo lường, vận
chuyển hàng hóa
2.3.1 Các hình thức buôn bán ở chợ
Ở chợ nông thôn Nam Bộ nói chung và Tiền
Giang, hình thức buôn bán, trao đổi hàng hóa rất
linh hoạt, thể hiện qua các hàng hóa không chỉ
bán ở chợ mà có thể ở mọi nơi, mọi lúc, thông
qua nhiều cách thức khác nhau. Điển hình như:
buôn cố định tại chỗ (buôn đứng và buôn ngồi),
bán hàng rong.
Hình 3. Buôn ngồi ở chợ Cũ
(Ảnh: Võ Văn Sơn)
Hình 4. Buôn đứng ở chợ Thạnh Trị
(Ảnh: Võ Văn Sơn)
- Buôn ngồi: là hình thức người bán ngồi tại
sạp và trưng bày các mặt hàng mình cần bán;
người mua đi chợ và ghé mua. Hình thức này
rất phổ biến và chủ yếu ở các chợ họp cố
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 88 – 94
91
định. Người bán (tiểu thương) chỉ việc ngồi
tại những sạp, quầy hàng hóa của mình sắp
đặt sẵn trong chợ để buôn bán hàng ngày. Do
việc buôn bán này diễn ra một cách đều đặn
hàng ngày và lâu dài cho nên người bán cũng
có một lượng khách hàng ổn định, thân thiết.
- Bán hàng rong: người bán mang hàng hóa đi
khắp nơi trong chợ, hay tỏa về các vùng quê
nông thôn, hoặc tới từng nhà người dân để
buôn bán. Họ vận chuyển bằng các loại
phương tiện thô sơ như: xuồng, ghe, xe đạp, xe
đẩy, xe máy, xe ba gác, thậm chí là một đôi
quang gánh... Phần đông đi bán các mặt hàng
nhỏ, lẻ phục vụ nhu cầu hàng ngày của người
dân như thực phẩm tươi sống, kẹo bánh, muối,
mắm
2.3.2 Các hình thức đo lường hàng hóa ở chợ
Các tiểu thương ở Tiền Giang thường xác định việc
đo lường hàng hóa bằng cân, đong, đo đếm, thậm chí
họ có thể ước lượng số lượng, trọng lượng hàng hóa.
Ở các chợ truyền thống đến hiện đại của Tiền Giang
đều tồn tại hai kiểu cách mua bán cơ bản là bán sỉ và
bán lẻ. Nếu người mua muốn mua sỉ thì người bán sẽ
bán với giá rẻ hơn so với người mua lẻ. Hai kiểu mua
bán sỉ và lẻ được cụ thể bằng cách đo lường chung,
đó là bằng giạ, ký lô, lường bằng lít, chai, lon và
đếm thì có đếm thiên, trăm, chục Có khi tính bằng
mớ, rổ, cần xé Tất cả những cách thức đo lường
đó đã được giới thương nhân tự đặt ra và chấp thuận.
Từ đó, họ mang ra sử dụng như một quy tắc bất
thành văn. Người mua, người bán cứ theo đó mà tính
toán, đo lường.
Hình 5. Cảnh buôn bán ở chợ Mỹ Tho
năm 1925 (Ảnh chụp lại: Võ Văn Sơn)
Hình 6. Cảnh bán cá ở chợ Mỹ Tho
năm 1969 (Ảnh chụp lại: Võ Văn Sơn)
2.3.3 Phương thức vận chuyển hàng hóa
Ở Tiền Giang cũng như các vùng khác, phương
thức vận chuyển hàng hóa thường phụ thuộc vào
tính chất địa lý của từng nơi và còn dựa vào nhu
cầu của người mua, người bán. Ở các chợ Tiền
Giang, các thương lái thường vận chuyển hàng hóa
bằng các phương tiện như: xuồng, ghe, tắc ráng, xe
tải, xe chuyên chở, xe máy, xe đạp
2.4 Cách thức rao hàng, chào hàng
Rao hàng, chào hàng là những hình thức tiếp thị,
quảng bá sản phẩm bằng ngôn ngữ thông thường
của người bán hàng. Thông qua những tiếng rao,
lời chào, chủ yếu thu hút khách hàng ghé xem và
mua sản phẩm của mình, góp phần thêm sự rộn
rã, nhộn nhịp trong sinh hoạt của mỗi phiên chợ”
(Võ Văn Sơn, 2015, tr. 88).
Những người buôn bán ở chợ cố định trên đất
liền thường dùng những ngôn ngữ giao tiếp hàng
ngày để rao hàng, hay chính xác hơn là chào
hàng. Người bán thường tự khen chất lượng hàng
hóa của mình bằng những lời quảng bá như: “Chị
ơi! Mua mớ rau muống đi, rau tươi lắm nè!”. Để
bán được giá, người bán cũng dùng những từ ngữ
để gợi cho người mua phải suy nghĩ về chất
lượng sản phẩm như: “Chị thêm vài ngàn nhưng
mua được hàng tốt nhất, tiền nào của nấy mà”.
Đôi khi, người bán còn dùng lời thề thốt để tạo
lòng tin cho người mua: “Em thề có trời đất
chứng giám, em không cân thiếu cho anh đâu”.
Riêng đối với những người dân buôn bán trên
chợ nổi Cái Bè, phong cách chào hàng có phần
đặc biệt và lý thú. Họ không phải dùng đến lời
rao, hay chào hàng bằng miệng nữa, mà rao hàng
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 88 – 94
92
bằng “cây bẹo”. Giới thương hồ thường dùng
một cây tre dài (hay còn gọi là cây sào). Ở đó,
người ta “bẹo” lơ lửng những món hàng có trên
ghe, mỗi thứ một ít gọi là hàng mẫu. Để khi
khách hàng tới, họ thấy người thương hồ này bẹo
thứ gì thì có nghĩa là trong ghe bán thứ hàng hóa
đó. Khách đi chợ cứ ghé thẳng tới ghe và mua
hàng. Đây là hình thức tiếp thị khá thú vị, thu hút
sự tò mò của rất đông khách du lịch từ xa đến.
2.5 Tập quán tín ngưỡng, kiêng kỵ
2.5.1 Tập quán tín ngưỡng
Ở các chợ của Tiền Giang, đa phần các tiểu thương
đều bố trí bàn thờ Thần Tài và Ông Địa tại quầy sạp,
nơi họ buôn bán, để thờ cúng và cầu mong phát tài.
Những ngày mùng hai, mùng mười và ngày mười
sáu âm lịch trong tháng, tiểu thương thường cúng dĩa
“tam sên”, bao gồm một miếng thịt nhỏ, một con
tôm, một trứng vịt cho Thần Tài và Thần Thổ Địa,
để cầu mong có nhiều khách đến mua hàng. Ngoài
ra, các ngày mười sáu tháng Giêng, tháng Bảy và
tháng Mười âm lịch, người bán hàng còn tổ chức
cúng cô hồn rất trọng thể, với ý nghĩa cúng thí vong
linh và cầu mong các vong linh oan khuất ấy sẽ
không quấy phá, mà ngược lại phò hộ cho họ buôn
may bán đắt. Lễ vật cúng gồm: trà, bánh, gạo muối,
giấy tiền vàng bạc....
Đặc biệt, tín ngưỡng của các thương lái ở chợ nổi
Cái Bè lại có nét riêng. Họ thường bố trí một bàn
thờ Phật hay Bà Thủy (Thủy Long), Bà Cậu trên
ghe xuồng của mình, với mong muốn được may
mắn, thoát khỏi tai ương, nếu có nạn sẽ được “bề
trên” che chở. Những ngày mùng hai và mười
sáu âm lịch trong tháng, họ thường mua hoa tươi,
bánh trái để cúng.
2.5.2 Tập quán kiêng kỵ
Yếu tố tâm lý ảnh hưởng rất nhiều đến tính cách
của người bán và đã hình thành những tập quán
kiêng kỵ trong kinh doanh. Đốt phong long (đốt
vía) là một trong những tục kiêng kỵ trong kinh
doanh của người Việt Nam nói chung và người dân
Tiền Giang nói riêng. Đối với người bán, người
mua mở hàng đầu tiên vào sáng sớm ảnh hưởng
trực tiếp đến thành quả buôn bán của họ suốt ngày
hôm đó. Giả như người đi chợ hỏi mua một món
hàng, đã trả giá rồi mà không mua, lại bỏ đi sang
gian hàng khác; lúc ấy người bán sẽ thực hành đốt
phong long để xua đi sự xui xẻo “nặng vía” mà
người mua mang tới.
Yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến người đi mua hàng ở
chợ. Ví dụ, một số người kiêng mua hàng với số
lượng là 4 (ví dụ 4 trái dưa, 4 con cá, 4 ký gạo) vì
họ cho rằng số 4 là số tử, không mang lại may mắn
trong cuộc sống của họ. Ngoài ra, người đi mua
hàng còn kỵ nếu gặp tiền lẻ hay những vật dụng
cá nhân của người khác đánh rơi thì không nên
lượm lặt. Vì thông thường, một số người đang
gặp hạn thường tự giải hạn bằng cách vứt bỏ
những thứ ấy, xem như vứt bỏ cái xui của họ.
Nếu mình nhận lấy thì sẽ lãnh lại cho họ. Bên
cạnh đó, một số người có tâm lý hạn chế xuất
hành vào những ngày mùng 5, 14, 23 âm lịch.
Bởi vì: “Mùng năm, mười bốn, hăm ba, Đi chơi
cũng thiệt, huống là đi buôn" (Nhiều tác giả,
2001, tr. 55).
3. KẾT LUẬN
Mạng lưới chợ của tỉnh Tiền Giang hình thành từ
khá lâu, gắn liền với lịch sử ra đời của các chợ làng,
chợ xã và mang dấu ấn riêng. Quá trình hình thành
và phát triển mạng lưới chợ ở địa bàn Tỉnh cũng gắn
liền với truyền thống buôn bán của dân cư và có tác
động trực tiếp đến đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân tỉnh nhà. Vì thế, chợ đóng vai trò như
một tấm gương phản chiếu sự phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, phong tục tập quán của người dân
Tiền Giang.
Trên cơ sở nghiên cứu ban đầu, người viết đã giải
mã một số nét chính về văn hóa chợ ở Tiền Giang.
Đó là các kiểu họp chợ đa dạng (trên đất liền, trên
sông nước); cách thức vận chuyển hàng hóa phong
phú; nguyên tắc đo lường mang tính phóng khoáng;
những tín ngưỡng, phong tục tập quán, kiêng kỵ
trong kinh doanh, mang dấu ấn đặc trưng của địa
phương. Đồng thời, hệ thống tên chợ ở Tiền Giang
còn phản ánh những giá trị hiện thực vùng đất Tiền
Giang qua các mặt: địa lý, ngôn ngữ, lịch sử.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của tác giả sẽ bổ
sung thêm vào nguồn tài liệu tham khảo, khi
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 88 – 94
93
nghiên cứu về các hình thức mua bán, trao đổi
hàng hóa truyền thống trong lĩnh vực văn hóa
thương nghiệp của tỉnh Tiền Giang.
Chú thích:
(1) Định nghĩa:“Chợ là loại hình kinh doanh
thương nghiệp có tính truyền thống và phổ biến ở
nước ta; được tổ chức tại một địa điểm công
cộng; hoạt động theo các chu kỳ thời gian nhất
định, đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi hàng
hoá, dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu sản xuất
vật chất, tinh thần của người dân và được quản lý
theo luật pháp hiện hành của nhà nước” (Võ Văn
Sơn, 2015, tr. 20).
(2) Vùng đất Tiền Giang có lịch sử hình thành và phát
triển trên 300 năm: “Từ thế kỷ XVII, người Việt từ
vùng Ngũ Quảng với nhiều đợt di dân đã đến khai phá
vùng đất hoang vu, biến nơi rừng rậm, đầm lầy, sấu
bơi, cọp chạy thành những cánh đồng mênh mông,
những vườn cây trĩu quả, làm nên nhưng làng xóm trù
phú của vùng châu thổ” (Cổng Thông tin điện tử Tiền
Giang, 7/7/2015, Tiền Giang đất lành, trái ngọt).
Truy cập từ
ve-Tien-Giang.
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ CHỢ Ở TIỀN GIANG
Hình 7. Mua bán ở chợ nổi Cái Bè
(Ảnh: Võ Văn Sơn)
Hình 8. Cây bẹo ở chợ nổi Cái Bè
(Ảnh: Võ Văn Sơn)
Hình 9. Một góc chợ Cai Lậy
(Ảnh: Võ Văn Sơn)
Hình 10. Một góc chợ Cũ
(Ảnh: Võ Văn Sơn)
Hình 11. Một góc chợ Gạo
(Ảnh: Võ Văn Sơn )
Hình 12. Một góc chợ Gò Công
(Ảnh: Võ Văn Sơn)
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 88 – 94
94
Hình 13. Chợ Mỹ Tho ngày nay
(Ảnh: Võ Văn Sơn)
Hình 14. Chợ Biển Tân Thành
(Ảnh: Võ Văn Sơn)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Cổng Thông tin điện tử Tiền Giang. (7/7/2015). Tiền
Giang đất lành, trái ngọt.
Truy cập từ:
thieu-ve-Tien-Giang.
Đỗ Thị Hảo. (chủ biên 2010). Chợ Hà Nội xưa và
nay. Nhà xuất bản Phụ Nữ.
Huỳnh Thị Dung. (2004). Chợ Việt. Nhà xuất bản
Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh.
Lương Minh & Các Ngọc. (2012). Chợ tỉnh. chợ
quê. Nhà xuất bản Trẻ
Nhâm Hùng. (2009). Chợ nổi đồng bằng sông
Cửu Long. Nhà xuất bản Trẻ.
Nhiều tác giả. (2001). Tuyển tập tục ngữ - ca dao
Việt Nam. Nhà xuất bản Văn học
Nguyễn Phúc Nghiệp. (1998). Kinh tế nông nghiệp
Tiền Giang thế kỷ XIX. Nhà xuất bản Trẻ.
Nguyễn Thị Thoa. (2011). Vai trò của Chợ trong đời
sống người Việt. (Luận văn thạc sĩ không xuất
bản). Trường Đại học Khoa học và Xã hội Nhân
văn thành phố Hồ Chí Minh..
Sở Công thương Tiền Giang. (2015). Đề án
phát triển hệ thống chợ, siêu thị, trung tâm
thương mại và chuyển đổi mô hình quản lý
chợ trên địa bàn tỉnh Tiền Giang đến năm
2015 và định hướng đến năm 2020. Tiền
Giang.
Trần Ngọc Thêm. (chủ biên năm 2013). Văn hóa
Người Việt vùng Tây Nam Bộ. Nhà xuất bản
Văn hóa Văn nghệ.
Võ Văn Sơn. (2015). Văn hóa chợ ở Tiền Giang.
(Luận văn thạc sĩ không xuất bản). Trường
Đại học Trà Vinh.
Võ Văn Sơn. (2015). Về một số địa danh chợ ở Tiền
Giang. Tạp chí khoa học Trường Đại học Tiền
Giang, (số 2), tr. 150.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10_vo_van_son_0_0844_2034792.pdf